TÔNG HUẤN CHRISTIFIDELES LAICI
CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II
VỀ ƠN GỌI VÀ SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN
TRONG GIÁO HỘI VÀ GIỮA TRẦN THẾ
Bản dịch của Gs. Nguyễn Đăng Trúc
(Nguồn: thanhlinh.net)
Gởi các Giám Mục
Các Linh mục và Phó tế
Các tu sĩ nam nữ
Tất cả tín hữu giáo dân
NHẬP ĐỀ
1. "ƠN GỌI VÀ SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI TÍN HƯU GIÁO DÂN (Christifldeles laici) , trong Giáo Hội và thế giới" đã được Thượng Hội Đòng Giám Mục năm 1987 dùng làm đề tài thảo luận. Mọi tín hữu đều thuộc về Dân Chúa và Dân Chúa là những thợ làm vườn nho được đề cập đến trong Phúc âm thánh Mathêu: "Nước Trời giơng như chủ nhân vườn nho lúc tảng sáng ra dí tìm thợ làm vườn nho. Ông đồng ý trả cho họ một đồng mỗi ngày và đưa họ vàolàm vườn nho mình" (Mt. 20:1-2).
Dụ ngôn Phúc âm mô tả trước mắt chúng ta vườn nho mênh mông của Chúa và đoàn lũ người gồm đàn ông đàn bà mà Ngài gọi và sai vào làm việc.
Vườn nho đó là toàn thể thế giới (Mt. 13:38), và thế giới này phải được biến đổi theo ý định của Thiên Chúa trong một viễn ảnh của vương quôc Người vào ngày thế mạt.
CÁC ÔNG CŨNG THẾ, HÃY VÀO LÀM VƯỜN NHO CHO TA.
2. "Vào lúc 9 giờ chủ nhân lại ra và thấy nhiều người khác còn đứng tại chỗ không có việc làm. Ông bảo họ: "Các ông cũng thế hãy vào làm trong vườn nho cho Ta" (Mt.20.3-4).
Lời mời gọi của Chúa Giêsu, từ xa xưa ấy trong lịch sử, vẫn còn luôn luôn vang dội đến tai chúng ta: Ngài mời gọi hết mọi người đến trong thế gian này.
Trong thời đại chúng ta, Giáo Hội sau Công Đồng Vaticanô Il, như một lễ Hiện Xuống mới với ơn Chúa Thánh Thần đổ xuống tràn trề, đã nhận thức sâu sắc về bản tính truyền giáo của mình, và đã ngoan ngoãn lắng nghe tiếng Chúa sai đí vào trần thế, như "bí tích cứu rỗi mọi người" .(1)
Cả các ngươi nữa. Lời mời gọi không chỉ nói với các Chủ chăn, linh mục, các tu sĩ nam nữ, nhưng nói với hết mọi người: người tín hữu giáo dân, cũng được Chúa mời gọi đích danh. Họ cũng nhận một sứ mệnh đối với Giáo Hội và đối với thế giới. Thánh Grêgôrió Cả cũng đã nhắc lại điều đó khi chú giải dụ ngôn này trong bài giảng. "Anh em thân mến, anh em hãy kiểm điểm lại cách sông của mình, và xét lại xem anh em có phải là nhữg người thợ của Chúa. Mỗi người hãy phán đoán việc mình làm và kiểm điểm xem có phải là mình đang làm việc trong vườn nho của Chúa". (2)
Công Đồng đã thừa hưởng một gía sản tín lý, linh hướng và mục vụ vô giá, vì thế Công Đồng đã viết ra những trang tuyệt diệu về bản tính, về phẩm giá, về linh hướng, về sứ mệnh và trách nhiệm của ngườí tín hữu giáo dân. Và các Nghị Phụ Công Đồng, đáp lại lời mời gọi củn Chúa Kitô, đã lên tiếng kêu cầu mọi người giáo dân, nam cũng như nữ vào làm việc trong vườn nho của Ngài: "Thánh Công Đồng,lấy danh nghĩa Chúa, hêt lờng kêu cầu mọi giáo dân hãy tình nguyện và hăng hái đại độ đáp lại lời mời của Chúa Kitô là Đâng chính trong lúc này đang mời gọi họ một cách khẩn khoản, cũng như đáp lại sự thúc dẩy của Chúa Thánh Linh. Riêng với giới trẻ, họ phải cảm nghiệm rõ ràng là tiêng mời gọi ấy đặc biệt dùng cho họ, và tiếp nhận nó với niềm hân hoan và lòng quảng đại. Chính Chúa dã dùng Công Đồng để thôi thúc mọi giáo dân mỗi ngày phải kết hợp với Ngài mật thiết hơn và coi lợi ích của Chúa như chính lợi ích của mình (Phil. 2:5), phải hợp tác sứ mệnh Cứu rỗi của Ngài. Một lần nữa, Ngai lại sai họ vào các thị thành, các nơi chỗ mà chính Ngài sẽ đên (Lc. 10.1; Ap-Act) (3)
Các ông cũng thế, hãy vào làm vườn nho cho Ta. Về mặt thiêng liêng, những lời này đã vang vọng suốt cả thời gian Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Rôma từ ngày 1 đến 30 tháng 10 năm 1987. Các Nghị Phụ theo vết chân của Công Đồng, hơn nữa với kinh nghiệm bản thân cũng như kinh nghiệm từ các Công đồng của toàn thể Giáo Hội; nhấtlà nhờ sự đóng gúp dồi dào của các Thượng Hội Đồng trước, các vị đã nghiên cứu một cách uyên thâm ơn gọi và sứ mệnh của giáo dân trong Giáo Hội và thế giới.
Trong Thượng Hội Đồng này, còn có các vị đại diện giáo dân nam nữ. Họ đã đem lại cho Thượng Hội Đồng những đóng góp quý giá. Trong bài giảng bế mạc, Thượng Hội Đồng đã xác nhận : "Chúng ta cảm ơn Chúa vì suôt khóa họp Thượng Hội Đồng này không những chúng ta đã vui mừng đón nhận sự tham dự của giáo dân (dự thính viên nam nử), hơn nữa trong lúc bàn cãi còn được nghe tiếng của những dại diện giáo dân khắp nơi trên thế giới tới từ các quôc gia khác nhau. Nhờ đó, chúng ta có dịp lắng nghe những kinh nghiệm, ý kiên và đề nghị của họ phát xuất từ lòng tha thiết với quyền lợi chung" (4)
Duyệt lại những năm sau Công Đồng, các Nghị Phụ đã có thể xác nhận được việc Chúa Thánh Thán đang làm là tiếp tục canh tân Gìáo Hội, tạo nên sức sống thánh thiện mới với sự tham gia của một số đông tín hữu giáo dân. Víệc tham gia này được thể hiện trơng nhiều hình thức. Thí dụ: hợp tác mới giữa lỉnh mục, tu sĩ và tín hữu giáo dân; tham dự tích cực vào phụng vụ, vào việc rao truyền Lời Chúa, vào việc dạy giáo lý; chu toàn một cách tốt đẹp những nhiệm vụ hay công tác phục vụ trao phó cho tín hữu giáo dân; phát triển các nhóm, các đoàn thể, các phong trào Công Giáo tiến hành và thiện nguyện, và việc nứ giới tham gia một cách rộng rãi và nổi bật vào đời sống Gỉáo Hộí, và sự phát triển của xã hội.
Nhưng đồng thời, Thượng Hội Đồng cũng không quên nhận thấy con đường hậu Công Đồng của người tín hữu giáo dân không phải là không có nhìêu chông gai nguy hiểm. Trong thực tế, có thể nói đến hai thử thách mà không phải lúc nào họ cúng dễ dàng vượt qua: đó là hăng say phục vụ đến độ quên sót bổn phận riêng của mình trong phạm vi nghề nghiệp, xã hội, kinh tế, văn hóa hay chính trị, hoặc tìm cách hợp-thức-hóa để tách rời Đức Tin ra khỏi đời sống, đó là phân tách Phúc âm ra khỏi hoạt động cụ thể trong những phạm vi xã hội.
Suất thời gian nghìên cứu, Thượng Hội Đòng luôn luôn đề cập đến Công Đồng Vaticanô II, vì các giáo huấn của Công Đồng về vai trò giáo dân, mặc dù đã sau hai chục năm vẫn luôn hơp thời một cách lạ lùng, mang dâu chỉ của lời tiên tri: Một giáo huấn như thế có thể soi sáng và hướng dẫn để giải đáp vấn đề mới của thời đại hôm nay. Thật vậy, các Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng đã vạch rõ được những con đường chắc chắn để "lý thuyết" phong phú về vai trò giáo dân, từng được Công Đồng trình bày, được "áp dụng" trong Giáo Hội. Mặt khác, cũng có những vấn đề phải đặt ra vì tính cách "hơp thời", nói một cách khác, là các vấn đề hậu công Đồng. Ít nữa theo nghĩa thời gian, những vấn đề này, các Nghị Phụ đã đặc biệt chú trọng đến suốt trong thời gian bàn cãi và suy nghĩ. Trong những ván đề đó, phải nói đến những liên hệ giữa các thừa-tác-vụ và chức-vụ của người tín hữu giáo dân hiện tại và trong tương lai, sự bành trướng và triển nở các "phong trào" mới bên cạnh các hình thức hiệp hội giáo dân đã có, và vị thế cùng vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội cũng như trong xã hội.
Sau khi đã sốt sắng hoàn thành công việc với đầy khả năng và thiện tâm thiện chí, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã bày tỏ và xin Ta, vào một thời điểm thuận tiện, trình bày cho Giáo Hội hoàn vũ một tài liệu tóm lược, đúc kết về hàng giáo dân Công Giáo.(5)
Bức Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng và Công Đồng này muốn làm bật nổi giá trị công việc của Thượng Hội Đồng, từ "các đường hướng" (Lineamenta) đên "phương tiện làm việc" (Instrumentum laboris), từ bản tường trình nhập đề đến các lời phát biểu của mỗi Gíám Mục và giáo dân, cả đến biên bản đúc kết sau cuộc tranh luận chung, từ những cuộc thảo luận và tường trình của các nhóm nhỏ cho đến "đề nghị", và cả sứ điệp kết thúc. Tài liệu này của Ta không nằm ngoài lề Thượng Hội Đồng Giám Mục, nhưng là những lời diễn tả mạch lạc và trung thực của Thượng Hội Đồng; là hoa trái của việc làm tập thể mà giai đoạn chót là soạn thảo một bản tường trình, nhờ những đóng góp của Hội Đồng Văn Phòng Tổng Thư Ký Thương Hội Đồng và của chính Văn Phòng
Mục đích của Tông Huấn này là khơi dậy và nuôi dưỡng một ý thức rõ ràng hơn về ân huệ và trách nhiệm mà mọi tín hữu giáo dân lãnh nhận trong sự thông hiệp, và sứ mệnh của Giáo Hội.
NHỨNG NHU CẦU KHẨN THlẾT CỦA THẾ GlỚl NGÀY NAY: "TẠI SAO CÁC NGUỜl ĐỨNG ĐÂY SUỐT NGÀY MÀ CHẲNG LÀM Gì?"
3. Ý nghĩa căn bản của Thượng Hội đồng, và kết quả rất quý giá và rất mong đợi của nó, là dẫn đưa tín hữu giáo dân đến lắng nghe Đức Kitô đang mời gọi họ vào làm việc trong vườn nho của Ngài, và cộng tác một cách hăng say đầy ý thức trách nhiệm trong sứ mệnh của Giáo hội, giữa giai đoạn vừa rực rỡ cũng vừa bi thảm của lịch sử, trước ngưỡng cửa của đệ tam thiên niên.
Những hoàn cảnh đổi mới trong Giáo Hội cũng như của thế giới, trong thực tại xã hội, kinh tế chính trị và văn hóa hôm nay đòi hỏi một cách đặc biệt hoạt động của người tín hữu giáo dân. Nếu trước đây ai làm ngơ bổn phán này là điều không thể chấp nhận được, thì hiện giờ thái độ lại càng đáng bị khiển trách hơn . Không ai được phép ở không, không làm gì.
Chúng ta hãy đọc lại dụ ngôn Phúc âm: "Vào lúc năm giờ chủ nhân lại đi ra, ông còn gặp một số người khác đứng đấy và người bảo họ: "Tại sao các ông Còn đứng đây, suốt ngày không làm gì cả. " Họ trả lời. "Vì không ai mướn chúng tôi". Ngài bảo: "Các ông cũng thế, hãy vào làm vườn nho của Ta" (Mt. 20. 6- 7).
Khi mà trong vườn nho của Chúa đầy tràn công việc đang đợi chờ tất cả chúng ta, thì không ai được biếng nhác. "Chủ nhân vườn nho" lại còn khẩn khoản đi mời lại: "Các ông cũng thê, hãy vào làm vườn nho cho Ta".
Chắc chắn lời của Chúa vẫn vang vọng trong thâm tâm của mỗi người Công Giáo. Bỡi vì mỗi người đã được trở nên giống như Đức Kitô nhờ Đức Tin và các bí tích khai tâm Kitô giáo, đã được ghép vào Giáo Hội như một phần thân thể sống động và đã trở nên một công dân linh hoạt của sứ mệnh cứu rỗi. Tiếng gọi của Chúa cũng đã được lưu truyền qua các biến cố lịch sử Giáo Hội và nhân loại, như Công Đồng nhắc nhở chúng ta: "Dân Chúa nhờ Đức Tìn thúc đẩy biết rằng Thánh Linh Chúa chiếu sáng khắp vũ trụ đang hướng dân mình, đã cố gắng nhìn nhận trong các biến cô, những đòi hỏi và ước vợng của thời đại chúng ta, và cũng là những đòi hỏi, uớc vọng của mình, đâu là dấu chỉ chân thật của sự hiện diện và ý định Thiên Chúa. Bởi vì Đức Tin cho chúng ta một ánh sáng mới, để nhìn xem mọi sự và giúp chúng ta biết được ý muôn của Chúa về ơn gọi toàn diện của con người, hướng tâm trí đi tìm những giải pháp hoàn toàn nhân bản". (6) (Vui Mừng và Hy Vọng -Gaudium et Spes 11) (7)
Phải can đảm nhìn vào bộ mặt của thế giới này, là thế giớí của chúng ta, với tất cả những giá trị, những vấn đề của nó, với tất cả những lo âu những hy vọng, những thành qủa chinh phục và những thất bại của nó: một thế giới với hiện tình kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa đầy dẫy các vấn đề và khó khăn nguy ngập hơn cả tình trạng được mô tả trong Hiến Chế Mục Vụ Vui Mừng và Hy Vọng. Dù sao, đây là vườn nho, là mảnh đất mà người tín hữu giáo dân đươc goi để sống sứ mệnh của mình. Chúa Giêsu muốn cho họ như Ngài đã muốn cho các môn đệ của Ngài, trở nên muối đất và ánh sáng của thê gian (Mt. 5.13-14).
Nhưng "địa cầu", "trần thế" mà người tín hữu phải là "muối mặn", phải là "ánh sáng", bộ mặt nó như thế nào?
Thế giới hôm nay thay đổi mau lẹ, có nhiều tình trạng khác biệt nhau nên có nhiều cách đặt vấn đề. Vì thế phải thận trọng không nên "vơ đũa cả nắm", cũng không nên đơn-giản-hóa quá đáng. Nhưng cũng có thể ghi được một vài khuynh hướng đang phát sinh trong xã hội ngày nay. Cũng như trong cánh đồng Phúc âm cỏ dại và giống tốt cùng đồng thời mọc lên, trong lịch sữ là hí trường của tự do con người cũng thế, điều thiện, điều ác, bất công và công lý, lo âu và hy vọng cùng đi song đôi, có khi lại quyến chặt vào nhau.
Tục hóa và nhu cầu tôn giáo
4. Làm sao chúng ta không nghĩ đến tình trạng lãnh đạm đối với tôn giáo đang phổ biến không ngừng và thuyết vô thần dưới nhiều hình thức khác nhau, nhất là dưới hình thức rất phổ thông là phong trào tục hóa? Con người say mê theo những cuộc chinh phục ngơp trời của khoa học, kỹ thuật tung hoành không giới hạn, và nhất là lâng lâng theo chước cám dỗ, một chước cám dỗ vừa rất cũ nhưng vẫn mới luôn, là muốn đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa (Gn. 3:5) bằng việc sử dụng tự do của mình một cách bừa bãi. Con người như thế đã tự chặt đứt căn rễ sâu xa tôn giáo của mình; họ đã bỏ quên Thíên Chúa, cho rằng Thiên Chúa không có một ý nghĩa gì đỗi với cuộc sống của họ, hoặc chối bỏ Ngài để sấp mình thờ lạy đủ mọi thứ "tà thần" .
Chủ thuyết tục hóa hiện tại, là một hiện tượng rất nghiêm trọng. Không những nó làm tổn thương đến cá nhân, nhưng còn đến cả những cộng đồng, như Công Đồng đã ghi; "Nhiều đoàn lũ ngày càng đông đảo rời xa tôn giáo trong đời sông thực tê".(8) Chính Ta cũng đã nhiều lần nhắc nhở, hiện tượng tục hóa đã đánh ngã nhiều dân tộc có truyền thống Công Giáo rất xa xưa, và hiện tượng này đòi hỏi phải cấp tốc có một tổ chức truyền giáo mớí.
Nhưng, ước vọng và nhu cầu tôn giáo không thể hoàn toàn mai một. Lương tâm mỗi người khi họ có can đảm đương đầu với những ván nạn rất hệ trọng của cuộc sống, nhất là vấn nạn về ý nghĩa cuộc sống, ý nghĩa đau khổ và sự chết, họ không thể ngần ngại kêu lên như thánh Augustinô: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, vì thế tâm hồn con khơng thể an nghỉ cho đến khi được nghỉ an trong Chúa".(9) Như vậy, thế giới hôm nay, dưới nhiều hình thức ngày càng phổ bìến, ngày càng linh động, họ đã làm chứng rằng con người đang mở mắt nhận ra cuộc sống có cái gì thiêng liêng và siêu việt, trở về với ý thức thần thánh qua việc cầu nguyện, và đòi hỏi tự do kêu cầu danh Chúa.
Nhân vị con người: Phẩm giá bị chà đạp và được ca tụng.
5. Chúng ta hãy nghĩ đến vô số điều xúc phạm đến phẩm giá con người. Khi phẩm giá con người là hình ảnh sống động của Thiên Chúa không được nhìn nhận và yêu thương (Jn. l:26), thì họ bị trở nên công cụ, nô lệ cho bạo quyền dưới nhiều hình thức thật sai lạc và bỉ ổí. "Kẻ cường bạo" này mang nhìêu bộ mặt khác nhau: nó là ý thức hệ, là quyền lực kinh tế, hệ thống chính trí bất nhân, kỹ thuật chuyên chế khoa học, hoặc bá chủ "phương tiện truyền thông xã hội". Lại một lần nữa chúng ta thấy trước mắt một số lớn anh chị em chúng ta; quyền lợi căn bản họ bị cướp đoạt, có khi là do hậu qủa của thái độ dung túng qúa đáng, có khi là do bất công trắng trợn của nhung bộ nhân luật: chẳng hạn quyền được sống, quyền được bảo vệ thân xác toàn vẹn, quyền có nhà ở, việc làm, quyền lập gia đình và sinh sản con cái với trách nhiệm làm cha mẹ, quyền tham gia vào đời sống xã hội và chính trị, quyền hưởng tự do lương tâm và tự do tôn giáo.
Ai có thể kể cho hết số những trẻ thơ không được chào đời vì đã bì bóp chết trong lòng mẹ, những trẻ em bì bỏ rơi hoặc bị cha mẹ bạc đãi, nhứng người con lớn lên cô đơn, thiếu tình thương và không được giáo dục ? Nhiều nơi, không có việc làm và thiếu cả những phương tiện tôl thiểu để sống một đời sống xứng đáng là con người. Ngay quanh nhứng đô thị lớn, vần còn thấy nổi lên những xóm nghèo tận mạt, trong đó con người phải sống trong cùng cực khốn khổ cả về thể xác lẫn tinh thần luân lý.
Nhưng tính cách thần thánh của nhân vị con người không thể tiêu diệt được, cho dầu nó phải luôn luôn bị khinh thị và xúc phạm: vì nền tảng bất di dịch của nó chính là Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Cha; bởi thế tính cách thần thánh của nhân vị vẫn luôn cần được tôn trọng.
Cũng nhờ thế mà hiện nay ý thức về phẩm giá của con người ngày càng được minh định và phổ biên sâu rộng. Một luồng khí lành mạnh tốt đẹp đang thổi đên và bao trùm các dân tộc trên thế giới giúp ý thức hơn về phẩm giá con người: con người không phải là "một sự vật" hay "một đồ vật" mà người ta có thể sử dụng, nhưng nó luôn luôn và độc nhất là một "chủ thể" có lương tri và tự do, được mời gọi sống với tinh thần trách nhiệm trong xã hội và lịch sử, được đặt định để hướng về giá trị thiêng liêng và tôn giáo.
Có thể xác quyết được rằng thời đạl chúng ta là thời đại của nhứng "chủ nghĩa nhân bản". Ngược lại, những chủ nghĩa phát xuất từ vô thần và tục hóa lại chủ trương trái ngược, hạ bệ và tiêu diệt con người, những chủ thuyết suy tôn con người quá đáng đến nỗi rơi vào những hình thức tôn thờ thần tượng. Tuy nhiên cũng có những chủ thuyết đi đúng theo sự thật, nhìn nhận tính cách vừa cao cả vừa khốn khổ của con người, nâng đỡ và hổ trợ phẩm giá toàn diện của con người.
Chúng ta có thể nhận ra dấu hiệu và kết qủa của những phong trào nhân bản ấy là con người càng cảm thấy cần nhu cầu hợp tác. Rõ ràng đó là một trong những nét đặc biệt của nhân loại hôm nay, một "dấu thời gian" chân chính đang chín mùi trong nhiều địa hạt, nhiều lãnh vực khác nhau: nhất là trong giới phụ nữ, trong giới thanh niên, trong phạm vi gia đình, học đường, cũng như trong lãnh vực văn hóa, kinh tế, xã hội và chính trị. Nhận lãnh một vai trò, tự tạo cho mình thành vị sáng lập một nền văn hóa nhân bản, đó là một đòi hỏi đối với cá nhân và chung cho toàn thể các dân tộc.(10)
Tranh chấp và hòa bình
6. Chúng ta cũng không thể bỏ qua một hiện tượng được coi như dấu chứng của ngày nay: có lẽ hơn bất cứ giai đoạn nào của lịch sử, nhân loại hôm nay đang bị lung lay vì tranh chấp. Đây là một hiện tượng mang nhiều hình thức, nó không chỉ là sự đa diện chính đáng tùy tâm trạng hay sáng kiến, nhưng là sự chống đối gây thương tổn giữa người với người, nhóm này với nhóm khác, giữa tầng lớp này với tầng lớp khác, giữa quốc gia này với quốc gia khác, và giữa khối này với khối khác. Sự chống đối này lộ diện với nhiều hình thức của vũ lực, của khủng bố, của chìến tranh. Một lần nữa, nhưng lần này là một con số đông đảo, nhiều nhóm người vì muốn phô trương "tôí cao quyền lực" của mình, đã lập lại kinh nghiệm điên cuồng xây "Tháp Babel" (Gn. 11:1-9); là một hành động chỉ tạo ra hỗn loạn, đấu tranh, chia rẽ và áp bức. Gia đình nhân loại vì thế mà phải đảo lộn và xâu xé một cách thê thảm.
Mặt khác, chúng ta thấy xuất hiện một cách mạnh mẽ không thể đè bẹp được, ước vọng của mỗi người, của các dân tộc được lợi ích vô giá của hòa bình trong công chính.
Một trong Tám Mối Phúc Thật của Tin Mừng: "Phúc cho ai xây dựng hòa bình" (Mt. 5.9) tìm thấy trong nhân loại thời đại chúng ta một âm vang mới mẻ và đặc biệt: Toàn thề nhân loại ngày nay sống, chịu đau khổ, và lao động để mang lại hòa bình và công chính. Việc tham dự của nhiều người và nhiều hội đoàn vào đời sống xã hội ngày nay đang tiếp nối nhau cách không ngừng như những phương thế để đem niềm khao khát hòa bình trở thành một sự thật. Trên cùng một con đường, chúng ta bắt gặp nhiều tín hữu giáo dân đang quảng đại dấn thân trong nhiều lãnh vực hoạt động chính trị và xã hội dưới nhiều hình thức chính trị khác nhau, hoặc một số khác đóng góp ít nhất một cách vô vị lợi vào những hoạt động này.
ĐỨC GlÊSU KlTÔ, HY VỌNG CỦA NHÂN LOẠl.
7. Hiện tại và tương lai một cánh đồng rộng lớn cần nhiều canh tác đang xuất hiện trước những công nhân được gởi tới bởi "chủ nhân" để làm việc trong vườn nho Ngài.
Trong cánh đồng mà Giáo Hội đang hiện diện và hoạt động này gồm mọi người chúng ta chủ chăn, linh mục, phó tế, nam nứ tu sỹ và tín hữu giáo dân. Có những tình trạng trái ngược được lưu tâm cách sâu xa ảnh hưởng đến Giáo Hội: Chúng tác dụng một phần nào sinh hoạt nhưng không làm tê liệt hoặc hạn chế thành quả của Giáo Hội. Bởi vì Thánh Linh, Đấng ban cho Giáo Hội sự sống, sẽ nâng đỡ hoạt động của Giáo Hội.
Mặc dù có nhiều khó khăn, đình trệ và mâu thuẫn đủ loại do giới hạn của con người, do tội lỗi và Thần Dữ, Giáo Hội hiểu rằng mọi nỗ lực của nhân loại để tạo sự hiệp thông và tham gia hợp tác, rồi ra cũng được đền đáp qua việc can thiệp của Đức Giêsu Kitô, vị Cứu Tinh của nhân loại và thế giới.
Giáo Hội biết rõ mình được Đức Kitô sai đến như "dấu hiệu và phương thế của sự kêt hợp mật thiêt với Thiên Chúa và sự hợp nhất của toàn nhân loại" (11)
Vì thế bất chấp mọi biến cố, nhân loại có thể cậy trông, và phải hy vọng: chính Chúa Kitô là Phúc âm sống động, là Tin Mừng đem lại vui mừng mà Giáo Hội, loan báo cho chúng ta mỗi ngày, và chính Giáo Hội đã trở thành chứng nhân cho mọi người.
Trong việc loan truyền và trình bày nhân chứng này, người tín hữu giáo dân chiếm một chỗ độc đáo và không thay thế được: nhờ họ, Giáo Hội Chúa Kitô được hiện diện trong nhiều địa hạt khác nhau giữa thế giới như dấu hiệu và nguồn mạch hy vọng và tình yêu.
CHƯƠNG 1
TA LÀ CÂY NHO CÁC CON LÀ CÀNH
Phẩm giá của ngườí Tín Hữu Giáo Dân
Trong Giáo Hội Mầu Nhiệm
MẦU NHlỆM CÂY NHO
8. Hình ảnh cây nho trong Thánh Kinh được dùng nhiều cách và nhiều ý nghĩa. Đặc biệt nó được dùng để diễn tả mầu nhiệm Dân Chúa. Theo ý nghĩa này, người giáo dân không chỉ là những người thợ làm việc trong vườn nho, nhưng họ là một phần tử cây nho. Chúa nói: "Ta là cây nho, các con là cành" (Jn.15.5).
Trong Cựu ước các tiên tri khi muốn nói đến dân được chọn, cũng đã dùng hình ảnh cây nho. Israel là cây nho của Thiên Chúa, là mềm vui của tâm hồn Ngài: "Ta đã trồng ngươi như một cây nho được chọn lọc" (Jer. 2:21); "Mẹ ngươi giông như một cây nho trồng bên bờ nước. Nó sai trái và um tùm hoa lá nhờ có nhiều nước tràn trề " (Ez.19.10); "Người bạn tôi có một vườn nho trên mợt sườn đồi phì nhiêu. ông cày bừa trở dât lượm đá sỏi để trồng vào đó một cây hảo hạng..." (Is. 5.l-2).
Chính Đức Giêsu cũng dùng hình ảnh cây nho để mạc khải một số khía cạnh về Nước Thiên Chúa: "Một người kia trồng một vườn nho, ông rào dậu bôn bề, một hầm ép nho, và xây một tháp canh rồi ông cho các người làm nho thuê mướn và ông khởi hành đi xa." (Mk. 2:1 - Mt. 21:2S).
Thánh Sử Gioan còn mời gọi chúng ta đi xa hơn, và đưa chúng ta đến khám phá mầu nhiệm của cây nho: Nó là biểu tượng và hình ảnh không những của dân Thiên Chúa, mà còn là biểu tượng và hình ảnh của chính Đức Giêsu. Ngài là gốc cây nho, còn chúng ta, môn đệ Ngài, chúng ta là cành. Ngài là "Cây Nho thật", các cành phải kết hơp để được s ống (Jn . 15: 1.. )
Công Đồng Vaticanô II lấy lại hình ảnh Thánh kinh để giải thích máu nhiệm Giáo Hội, cũng đưa ra hình ảnh cây nho và cành: "Cây nho thật chính là Chúa Kitô; chính Ngài ban phát sự sống và sức sinh sản cho các cành là chúng ta. Qua Giáo hội chúng ta sông trong Ngài, và không Ngài chúng ta chẳng làm được việc gì." (Jn. 15.1-5) .(12)
Chính Giáo Hội là vườn nho trong Thánh Kinh. Là nhiệm mầu bởi vì tình thương và sự sống của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, là ân huệ tuyệt đối ban nhưng không cho tất cả những ai được sinh ra bởi nước và Thánh-linh (Jn. 3:5), được gọi để sống chính sự hiệp thông của Thiên Chúa, để tỏ bày và thông truyền sứ mệnh hiệp thông này trong lịch sử. Chúa Giêsu nói: "Trong ngày ấy các con sẽ biêt rõ Thầy Ở trong Cha Thầy, và các con Ở trong Thầy và Thầy Ở trong các con" (Jn. 14:20).
Người giáo dân chỉ nhận diện mình, nhận chân bản tính nguyên thủy của mình bên trong mầu nhiệm của Giáo Hội là mầu nhiệm hiệp thông ơn gọi cũng như sứ mệnh trong Giáo Hội và thế giới của người giáo dân cũng chỉ định nghĩa được bên trong phẩm giá này.
NGUỜl TÍN HỮU GlÁO DÂN LÀ Al?
9. Các Nghị Phụ đã nêu lên một nhận xét chính đáng là phải minh định cách rõ ràng về ơn gọi và sứ mệnh của tín hữu giáo dân, qua việc nghiên cứu sâu xa giáo lý của Công đồng Vaticanô lI, theo ánh sáng của các văn kiện mới của Giáo Hội, và kinh nghiệm sống của Giáo Hội được hướng dẫn do Chúa Thánh Thần. (13)
Để trả lời câu hỏi nguời tín hữu giáo dân là ai. Công Đồng đã đi xa hơn vớí lối giải thích tiêu cực trước đây, bằng một cái nhìn hoàn toàn tích cực. Công Đồng đã đưa ra ý hướng căn bản và đầy đủ thuộc về người giáo dân đối với Giáo Hội và mầu mhiệm của Giáo Hội. Ơn gọi đặc biệt của họ là "Tìm nước Chúa trong khi quản trị các việc trần thế mà họ sắp xếp theo ý Chúa. " (14) Hiến chế ánh Sáng Muôn Dân (Lumengentium) còn thêm: "Danh hiệu Giáo dân có nghĩa là tất cả các Kitô hữul không thuộc thành phần chức thánh hay bậc tu trì được Giáo Hội công nhận, nghĩa là các Kitô hữu đã được rửa tội sáp nhập vào thân thể Chúa Kitô, được nhập tịch Dân Chúa, được trở thành kẻ tham gia theo cách của mình vào chức vụ tư tê, chức vụ rao giảng Lời Chúa và chức vụ vương giả của Chúa Kitô, họ là những người thi hành sứ mệnh của toàn dân Kitô hữu trong Giáo Hội và giữa trần thê theo nhiệm vụ riêng của mình. " (15)
Đức Piô thứ XII đã quả quyết: "Các tín hữu nói một cách rộng hơn, là các giáo dân là kẻ đứng ở mặt trận tiền phong trong đời sống của Giáo Hội. Nhờ họ, Giáo Hội trở nên nguyên lý sự sống cho xã hội loài người. Vì thế, chính họ phải ý thức ngày càng rõ rệt là họ không những thuộc về Giáó Hội mà là Giáo Hội, nghĩa là cộng đồng các tín hữu trên mặt đất, dưới sự hướng dẫn của vị thủ lãnh chung là Đức Giaó Hoàng và các Giám Mục hiệp thông với Ngài. Họ là Giáo Hội".(16)
Theo hình ảnh Thánh kính về cây nho, người tín hữu giáo dân cũng như tất cả các phần thân thể khác của Giáo Hội, là những cành nho tháp nhập vào Đức Kitô là Cây Nho Thật; chính nhờ Ngài mà họ được sống và trổ sinh hoa trái.
Được ghép vào Đức Kitô nhờ Đức Tin và phép Thánh Tẩy, là gốc rễ đầu tiên tạo nên thân phận mới của người Kitô hữu trong mầu nhiệm Giáo Hội, tạo nên sắc thái căn bản, và là nền tảng của tất cả mọi ơn gọi và hoạt động của đời sống Kitô hữu của người tín hữu giáo dân. Trong Đức Kitô chết và sống lại, người đã rửa tội trớ nên một "thụ tạo mới" (Gal. 6.15,2 Cor.5.17), một thụ tạo được thanh tẩy hết tội lỗi và sống ơn nghĩa Chúa.
Như thế "hình ảnh" người giáo dân được phác họa dựa vào kho tàng phong phú nhiệm mầu Thiên Chúa đã ban cho ngườí Kitô hữu trong bí tích Rửa Tội.
PHÉP RỬA TỘl VÀ THÂN PHẬN MỚl CỦA NGƯỜl KlTÔ HỮU"
10. Không phải là quá đáng khi chúng ta quả quyết rằng: toàn cuộc sống của người tín hữu giáo dân chỉ có mục đích là đưa họ đến nhận biết mầu nhiệm chính yếu của họ phát xuất từ phép Rửa Tội, là bí tích Đức Tin, để họ có thể sống nghĩa vụ theo ơn gọi Chúa đã chỉ định. Để phác họa "hình ảnh" người tín hữu giáo dân, chúng ta hãy kiểm xét một cách trực tiếp và rõ ràng các khía cạnh căn bản sau đây: Phép Rửa Tội đã tái sinh chúng ta trong sự sống con Chúa; nó hợp nhất chúng ta với Chúa Giêsu Kltô, với thân thể Ngài là Giáo Hội, xức dầu cho chúng ta trong Chúa Thánh Thần bằng cách làm cho ehúng ta trở nên những đền thờ thiêng liêng.
Con Chúa trong Người Con Một
11. Chúng ta nhớ lại những Lời của Chúa Giêsu nói với Nícôđêmô: "Ta nói rât thật với ông, hễ ai chẳng sinh lại ỏởi nước và Thánh Linh, thì không được vào nước Thiên Chúa"(Jn. 3. 5). Phép Rửa Tội là một sinh hạ mới, một cuộc tái sinh.
Chính khi nghĩ đến khía cạnh này của phép Rửa Tội mà Thánh Phêrô Tông Đồ đã ca lên: "Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả Ngài đã tái sinh chúng ta nhờ sự sông lại của Đức Giêsu Kitô từ trong kẻ chêt, để chúng ta được hưởng gia tài bất diệt, không tì ố, cũng không tàn héo" (1 Pt. 1:3-4), và Người gọí là Kltô hữu những ai Chúa đã "tái sinh, không phải do hạt giông hay hư nát, nhưng do hạt giông bất diệt là Thiên Chúa hằng sống và tồn tại muôn thuở" (1 Pt.1:23)
Nhờ Phép Rửa, chúng ta trở nên con cái nam nữ của Thiên Chúa, trong Con Một của Ngài, là Đức Giêsu Kitô. Khi ra khỏi giếng nước Rửa Tội, mỗi người Kitô hữu đều được nghe tiếng đã phán trước kia trên bờ sông Giođanô: "Con là con ta yêu dấu, rất đẹp lòng ta" (Lk. 3:22). Và như thế họ hiểu là họ được kết hợp với Người Con yêu dấu vì đã trở thành dưỡng tử (Gal. 4:4- 7) và là anh em của Chúa Kitô. Như thế, được thể hiện trong lịch sử cuộc đời của Thiên Chúa: "Những ai Ngài đã nhận biết trước, thì Ngài định cho họ được trở nên hình ảnh Con Ngài, để làm cho Con Ngài trở thành trưởng tử của vô số anh em " (Rom.8:29)
Chính Chúa Thánh Thần làm cho những người đã rửa tội trở nên con cái nam nứ của Thiên Chúa, và đồng thời trở nên chi thể của Thân thể Đức Kitô. Thánh Phaolô đã nhắc lại cho các Kitô hữu thành Cônrintô: "Tất cả chúng ta đã được rửa tội trong một Thánh Thần độc nhất để làm thành một thân thể' (1 Cor. 12:13) đến nỗi vị Tông đồ Cả có thể nói với các tín hữu giáo dân của Ngài: "Anh em là thân thể Chúa Kitô, và mỗi người đều là chi thể " (1 Cor.12:27) ; " Và đây là chứng cớ rõ ràng anh em là con cái, được Thiên Chúa sai đên, Thần Linh của Con Ngài ở trong tâm hồn chúng ta" (Gal.4:6, Rom. 8.15-16).
Một thân thể trong Đức Kitô.
12. Được tái sinh trở thành "con trong người Con", những ai đã chịu phép Rửa Tội đều là "chi thể của Đức Kitô và cũng là thành phần trong nhiệm hề của Giáo Hội" theo như giáo huấn của Công Đồng Florence. (17)
Phép Rửa Tội có ý chỉ và đồng thời phát sinh sự tháp nhập mầu nhiệm nhưng thực sự vào Thân Thể bị đóng đinh và vinh hiển của Đức Giêsu. Nhờ Bí Tích ấy, Chúa Giêsu kết hơp người chịu phép Rửa Tội yới cái ehết của Ngài để kết hơp họ với sự sống lại của Ngài (Rom. 6.3-5), lột bỏ "con người cũ" để mặc cho họ "con người mới", nghĩa là chính Ngài: "Tất cả anh em đã được rửa tội trong Đức Kitô, anh em được mặc lấy chính Đức Kitô" (Gal. 3.27, Eph.4:22-24, Col. 3:9-10). Bởi đó "mặc dầu là số đông, chúng ta chỉ là một thân thể trong Đức Kitô" (Rom. 12:5).
Các lời của Thánh Phaolô là những tiếng vọng trung thực giáo huấn của chính Đức Giêsu, nó đã mặc khải cho chúng ta thấy sự hợp nhất nhiệm mầu của các môn đệ với Ngài và giữa họ với nhau, trình bày sự hơp nhất ấý như là hình ảnh và sự nối tiếp của sự thông hiệp nhiệm mầu giữa Chúa Cha với Chúa Con, và Chúa Con với Chúa Cha trong môí giây tình thương của Chúa Thánh Thần (Jn. 17.21). Chính Chúa Giêsu đã đề cập đến sự hơp nhất này khi Ngài dùng hình ảnh cây nho và cành nho: "Ta là cây nho, chúng con là cành " (Jn. 15. 5) . Một hình ảnh nói lên không những sự mật thiết sâu xa của các môn đệ với Chúa Giêsu, mà cũng biểu lộ sự thông hiệp sinh động giữa các môn đệ: tất cả đèu là cành của một Cây Nho duy nhất.
Đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần.
13. Trong một hình ảnh so sánh khác là hình ảnh của một ngôi nhà, Thánh Phêrô Tông Đồ đã định nghĩa các người đã chịu phép Rửa Tội như những "viên đá sống động" xây trên Đức Kitô là "viên đá góc" . Vì thế, các người đã chịu phép Rửa Tội được dành riêng "xây đên thờ thiêng liêng" (1 Pt. 2:5).
Hình ảnh này đưa chúng ta vào một khía cạnh mới lạ khác do phép Rửa Tội đem lại, mà Công đồng Vaticanô II trình bày qua những lờị sau đây: "Vì chưng những kẻ đã rửa tội, nhờ sự táì sinh và ơn xức dầu của Chúa Thánh Thần, họ được hiên dâng để trở nên một tòa nhà thiêng liêng." (18)
Chúa Thánh Thần "xức dầu" kẻ chịu phép Rửa Tội, đóng trên họ ấn tín không thể xóa bỏ (2 Cor. l:21-22), làm cho họ trở thành đên thờ thiêng lìêng, nghĩa là thông ban tràn đầy sự hiện diện của Thiên Chúa nhờ kết hơp và nên giống Đức Giêsu Kitô.
Người Kitô hữu, nhờ ơn "xức dầư" này làm cho mạnh dạn, có thể lặp lại những lời của Chúa Giêsu theo cách của mình "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài dã xức dầu thánh hiên tôi; sai tôi đem Tin Mừng cho kẻ nghèo khổ, loan tìn giải phóng cho kẻ bì cầm tù, đem sự sáng cho kẻ đui mù, đem tự do cho kẻ bị áp bức, và loan báo năm Hông ân của Chúa" (Lk. 4:lS-19, Is. 61:1-2).
Như thế, nhờ ơn Chúa đổ tràn xuống qua phép Rửa Tội và phép Thêm Sức, người đã được rửa tội tham gia vào sứ mệnh của Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên sai cứu Thế.
THAM GlA VÀO CHỨC TƯ TẾ, RAO GIẢNG VÀ VƯƠNG GIẢ CỦA ĐỨC KITÔ
14. Khi nóí với những ngườl đá chịu phép Rửa Tội, Thánh Phêrô Tông Đồ xem họ như "những người con mới sinh", Người viết: "Chúng con hãy lại gần Ngài, Ngài là tảng đá hằng sống, mà loài người loại bỏ nhưng Thiên Chúa đã chọn vì Thiên Chúa đã thẩm định giá trị. Chúng con cũng thế, chúng con hãy trở nên những viên đá sông động dùng để xây dựng Đền Thờ Thiêng Liêng, dâng lên những của lễ thiêng liêng mà Thiên Chúa có thể chấp nhận nhờ Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, chính chúng con là dòng dõi dược lựa chọn, và hàng tư tế vương giả, là một dân tộc thánh, một dân thuợc về Thiên Chúa, như thế chúng con có trách nhiệm rao giảng những kỳ vọng của Đấng đã gọi chúng con từ bóng tôí đên ánh sáng lạ lùng của Ngài" (1 Pt. 2:4-5-9)
ĐÓ là một khía cạnh mớí mẻ của ân sủng và của phẩm giá phẻp Rửa Tội. Người tín hữu gíáo dân về phần nêng họ cũng tham gla vào ba chưc vụ cúa Đức Kltô là chức tư tế rao giảng và vương gíả. Đây là khía cạnh mà truyền thống Giáo Hội khống bao giờ lãng quên, như thánh Augustinô đã trình bày khi chú glải Thánh Vịnh 26; "Đavít nhận lãnh nghi lễ xức dầu làm Vua. Trong thời ấy chỉ có Vua và Tư Tế được xức dầu. Hai vị này tiên báo hình ảnh vị Vua Thượng Tế độc nhất - Đức Kitô (tiếng Kitô bởi chữ "Chrisma" có nghĩa là xức dầu). Không chỉ vị thủ lãnh của chúng ta, là thân thể cua Ngài, chúng ta cũng đuợc xức dầu với Ngài... Vì thế mọi Kitô hữu đêu được xưc dầu, trái với thời Cựu Uớc chỉ có hai người được xức dầu. Nêú chúng ta là thân thể Đức Kito, vì tất cả chúng ta được xức dầu trong Ngài và trở thành những Kỉtô, bởi vì đầu và thân thể làm thành một Đửc Kitô toàn vẹn." (19)
Theo đường lốl của Công đồng Vaticanô II,(20) ngay từ khi mới bắt đầu công việc mục vụ, Ta đã lưu ý ca tụng phẩm chức tư tế rao giảng và vương giả của toan dân Thiên Chúa. Ta nói: "Đâng đã sinh ra bởi Trinh Nữ María, Con của bác thợ mộc theo người đời ấy nghĩ tưởng, nhưng là Con Thlên Chúa Hằng Sống như Thánh Phêro tuyên bố, đã đến để làm cho chúng ta tất cả trở nên "một vương quốc lình mục". Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở cho chúng ta về mầu nhiệm của quyền bính này, và về sứ mệnh của Đưc Kltô là Linh Mục, là Thầy rao gìảng, là Vua vẫn tiếp tục trong Gíao Hôi. Tát cả mọi ngườỉ, toàn dân Thíên Chúa tham gia vào ba sứ mệnh nay" (21)
Với bưc Tông Huấn này, Ta muốn kêu mời một lần nữa tất cả mọi tỉn hữu gỉáo dân đọc lạỉ và suy ngắm, để lãnh hội một cách tường tận và yêu mến say mê giáo huấn súc tích và phong phú của Công Đồng đề cập đến việc họ tham gia vào ba chức vụ của Đức Kitô.(22). Và đây là một tổng hợp những căn bản của giáo huấn ấy.
Các tín hứu giáo dân tham gia vào trách vụ tư tê, đó là trách vụ Chúa Giêsu đã dùng để hiến tế mình trên Thánh Giá và còn tiếp tục hiến tế mình trong nghi lễ Phép Thánh Thể để làm vinh danh Đức Chúa Cha và cứu rỗi nhân loại. Được ghép vào Đức Giêsu Kitô, những ai đã chịu phép Rửa Tội đều được kết hợp với Ngài bằng việc dâng hiến chính mình và các hoạt động của mình (Rom. 12:l-2). Khi nói đến người tín hữu giáo dân, Công Đồng tuyên bố. "Tât cả những hoạt động của họ, nhữg lời cầu nguyện cũng như các hoạt động tông đồ, đời sông hôn nhân, gia đình, những công việc lao động hằng ngày, cả việc giải trí, tinh thần thể xác, nêú tất cả đều dược hướng dẫn do Thần Linh Thiên Chúa, ngay cả những thử thách của cuộc đời, miễn là chịu đựng một cách nhẫn nại, tất cả trở thành của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô (1 Phêrô.2:5). Trong Thánh Lễ, các của lễ này hiêp với Mình Chúa được dâng lên cho Đức Chúa Cha với tâm hồn sất sắng. Như thế người giáo dân thánh hiến cho Thiên Chúa chính cả trần thê này. Nhờ lòng phụng thờ Chúa khắp mọi nơi bằng một đời sống thánh thiện." (23)
Việc tham gia vào trách vụ rao giảng của Đức Kitô "là Đấng lấy cả cuộc sông mình cũng như lấy sức mạnh của lời nới để tuyên bố vương quốc Chúa Cha", (24) sự tham gia này làm cho người giáo dân có đủ năng-cách và dấn thân để nhận lãnh Phúc âm trong Đức Tin, để rao giảng bằng lời nói và hành động, và để tố cáo một cách bạo dạn không do dự những gì là điều ác. Người tín hữu giáo dân hợp nhất với Đức Kitô "vị Đại Tiên Tri" (Lk. 7.16) và được đặt làm "chứng nhân" của Đức Kitô Phục Sinh trong Chúa Thánh Thần họ trở thành những người tham dự vào ý thức Đức Tin siêu nhiên của Giáo Hội "không thể sai lầm trong Đức Tin" (25) cũng như tham gia vào ân sủng của lời nói (Acts. 2:17-18, Ap. 19:10). Hơn nữa họ được gọi để chiếu sáng sự mới lạ và sức mạnh của Phúc âm trong đời sống thường ngày, trong đời sống gia đình và xã hội của họ, cũng như để diễn tả niềm hy vọng vinh quang "ngay cả trong những cơ cấu của cuộc sống trần thê ' (L.G. 35) với một tâm hồn nhẫn nại và can đảm giữa những khó khăn của thời hiện đại. (26)
Người tín hữu giáo dân thuộc về Đức Kitô là Chúa tể là Vua vũ trụ, nhờ đó họ được tham gia vào trách vụ vương giả của Ngài, và được Ngài kêu gọi để phục vụ và phổ biến Ngài trong hch sử. Họ sống vương quyền Kìtô hữu trước tiên bằng cách chiến đấu để chiến thắng thế gian tội lỗi (Rom 6. 12) ngay trong chính mình họ, rồi hiến dâng mình để phục vụ trong đức bác ái và trong công bằng. Chính Đức Kitô hiện diện trong mọi người anh em, nhất là trong những người thấp hèn nhất (Mt. 25.40).
Nhưng người tín hữu giáo dân được gọi đặc biệt để đem lại cho các tạo vật những giá trị nguyên thủy của nó. Khi hoạt động trong ơn nghĩa Chúa, người giáo dân liên kết mọi thụ tạo vào lợi ích chân thật của con người. Làm như thế, họ được tham gia vào việc thi hành quyền bính của Đức Kitô Phục Sinh là Đấng đã lôi kéo mọi sự về Ngài, và đặt mọi sự và chính mình dưới quyền Đức Chúa Cha, để Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người (Jn. 12:32, 1Co r. 18: 28).
Sự tham gia của giáo dân vào ba chức vụ của Chúa Giêsu Linh Mục, rao giảng và Vua bắt nguồn từ việc xức dầu của phép Rửa Tội, được phát triển nhờ phép Thêm Sức, được nâng đỡ và kiện toàn trong phép Thánh Thể. Đây là một sự tham gia ban cho mỗi tín hữu giáo dân, nhưng với tư cách là họ tạo thành một thân thể duy nhất của Chúa Kitô. Bởi vì Chúa Giêsu làm cho Giáo Hội được sung túc bằng các ân huệ của mình, vì Giáo Hội là Thân thể và là Hiền thê của Ngài. Như thế mỗi người được tham gia vào ba sứ vụ của Đức Kitô chỉ vì họ là phần thân thể của Giáo Hội, như Thánh Phêrô Tông đồ đã dạy khi gọi những người đã chịu phép rửa tội "là dòng giông được lựa chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, là dân tộc thuợc về Thiên Chúa" (1 Pt. 2:9). Và cũng vì nó bắt nguồn từ sự thông hiệp trong Giáo Hội nên việc tham dự của các tín hữu giáo dân vào ba chức vụ của Đức Kitô đòi hỏi phải sống và thực hiện trong sự thông hiệp, và để cho sự thông hiệp ngày càng tăng trưởng. Thánh Augustinô viết: "Cũng như chúng ta tât cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể ủa Linh Mục duy nhât." (27)
NGƯỜl TÍN HỮU GlÁO DÂN VÀ TÍNH CÁCH TRẦN THẾ
15. Tính chất mới lạ của đời sống Kitô-hữu là nền tảng và tước hiệu của sự bình đẳng giữa tất cả những ai đã chịu phép Rửa Tội trong Đức Kitô, giữa tất cả những thành phần của Dân Chúa: "Phẩm giá của tât cả mọi thành phần đều giống nhau vì mọi thành phần đều cùng được tái sinh trong Đức Kitô; ơn làm nghĩa tử cũng như nhau; mọi người cùng (đêu được kêu gọi đên sự trọn lành, chỉ có một ơn cứu rỗi, một đức cậy trông, một đức ái không phân chia" (28). Nhờ phẩm giá chung do phép Rửa Tội này, người tín hữu giáo dân là người đồng trách nhiệm với tất cả các vị thừa-tác-viên đã được phong chức thánh, với các tu sĩ nam nữ, đối với sứ mệnh của Giáo Hội.
Nhưng phẩm giá chung do phép Rửa Tội nơi người tín hữu giáo dân có một hình thái làm cho họ khác biệt, nhưng không chia cách họ khỏi linh-mục và tu-sĩ nam nứ. Công Đồng Vaticanô II đã diễn tả hình thái này chủ tại trong tính cách trần thế. "tính cách trần thế là đặc tính riêng biệt của giáo dân." (29)
Muốn hiểu rõ một cách đầy đủ vị trí chuyên biệt của người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội, phải đào sâu tầm mức thần học của tính cách trần thế theo ánh sáng của chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, và mầu nhiệm của Giáo Hội.
Như Đức Phaolô VI quả quyết, Giáo Hội "mang tính chất trần thế chính tông, bẫm sinh trong bản tính thâm sâu và sứ mệnh của mình, gơc rễ nó nằm trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể và thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau đôí với các thành phần của mình." (30)
Tuy Giáo Hội sống giữa trần thế, mà không thuộc về trán thế (Jn. 17.16). Giáo Hội được sai đi để tiếp nôi công trình Cứu Chuộc của Đức Giêsu Kitô; công trình này "chính là lo cứu rỗi con người, nhưng cũng bao gồm việc canh tân những trật tự thế giới." (31)
Dĩ nhiên mọi thành phần của Giáo Hội đều phải tham gia vào lãnh vực trần thế của Giáo Hội, nhưng bằng những cách thế khác nhau. Đặc biệt sự tham gia của người giáo dân có một hình thái thực hiện và chức vụ "riêng rẽ và đặc biệt" theo như Công Đồng phân tích. Chính những hình thái này đã được gọi là "tính cách trần thế." (32) Trong thực tế, khi Công Đồng nói về thân thế của các tín hứu giáo dân, thì trước tiên chỉ thân thế ấy như nơi chỗ họ được Thiên Chúa gọi: "Đó là nơi họ được gọi" .(33) Đó là "nơi" được trình bày với từ ngữ có nghĩa hoạt động, các tín hứu giáo dân "sống giữa đời, nghĩa là dấn thân vào đủ mọi nghĩa vụ và công tác của trần thế, trong những điều kiện thường nhật của đời sống gia đình và xã hội đã tạo nên." (34). Đó là những con người đang sống một đời sống thông thường giữa thế giới, đang học hành, đang làm việc, đang tạo nên những tình bạn, những tương giao xã hội, nghề nghiệp, văn hóa. Công Đồng không nhìn thân phận của họ một cách đơn giản do khuôn mẫu những điều kiện và môi trường bên ngoài, nhưng tìm gặp đầy đủ ý nghĩa của nó trong Đức Giêsu Kitô. (35) Công Đồng lại qủa quyết: "Ngôi Lời nhập thể đã muốn đích thân chia xẻ tình liên đới nhân loại. Người thánh hóa những môi liên hệ của con người, nhất là những liên hệ gia đình là ngưồn gốc phát sinh những liên hệ xã hội. Người đã tự nguyện tuân theo luật lệ quốc gia của Người . Người đã muôn sống cuộc sống thợ thuyền với người đương thời trong quê hương mình." (36)
Như vậy, "thế giới ", đã trở nên môi trường và phương thế cho ơn gọi Kitô-hữu của người tín hữu giáo dân, vì chính trần thế được chỉ định để tôn vính Chúa Cha trong Đức Kitô. Với ý nghĩ này, Công Đồng có thể giải thích ý nghĩa nêng tư và đặc biệt ơn gọi của Thiên Chúa muốn kêu mời các tín hữu giáo dân. Họ không phải được kêu gọi để bỏ vị trí của mình giữa thế giới. V phép Rửa Tội không kéo họ ra khỏi thế giới như Thánh Phaolô Tông Đồ đã nhấn mạnh: "Hơĩ; anh chị em, mỗi người hãy ở trươc mặt Chúa, trong vị thế mình đang ở khi được kêu gọi" (1 Cor. 7.24). Trái lại, phép Rửa Tội trao phó cho họ một ơn gọi liên quan mật thiết với tình trạng của họ giữa thế giới. Các tín hữu giáo dân "được gọi, để nhờ sự hướng dẫn của tinh thần Phúc âm, họ hành động như men dậy từ bên trong, để thánh hóa thế giới bằng việc thực thi các nhiệm vụ của mình. Như thế họ có thể đem Chúa Kitô đến cho kẻ khác bằng chứng tá của một đời sông sáng chói Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến." (37). Vì Vậy, sống và hành động giữa thế giới đôí với các tín hữu giáo dán, không chỉ là một thực tại nhân-sinh-xã-hội, mà còn là một thực tạí chuyên-biệt-thần-học giữa trần thê. Thiên Chúa muốn biểu lộ ý định của Ngài và thông ban cho họ ơn gọi đặc biệt là "tìm nước Thiên Chúa bằng cách quản lý các thực tại trần thế mà họ phải sắp xếp theo ý Thiên Chúa." (38)
Theo ý hướng này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã tuyên bố. "Tính cách trần thế của người tín hữu giáo dân không chỉ được định nghĩa theo quan niệm xã hội, mà theo ý nghĩa thần học. Tính cách trần thế phải hiểu theo ánh sáng của tác động tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa, Đâng đã trao phó trần thế này cho con người cả nam lẫn nữ để họ tham gia vào việc tạo dựng, dể họ giải thoát thụ tạo khỏi ảnh hưởng của tội lỗi, để họ tự thánh hóa mình trong đối sông hôn nhân hoặc độc thân, trong gia đình, trong chức nghiêp và trong các hoạt động xã hội". (39)
Vị trí của người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội được minh định rõ ràng từ gốc rễ, bắt nguồn từ những mới lạ của đời sống Kitô-hữu và đặc tính trần thế của nó. (40)
Các hình ảnh trong Phúc âm nói về muôi mặn, ánh sáng và men bột, mặc dầu có ý nói về tất cả mọi tín đồ của Đức Giêsu , nhưng áp dụng cách nêng cho người tín hữu giáo dân. Đó là những hình ảnh mang nặng ý nghĩa tuyệt vời, bởi vì không những nó diễn tả việc hội nhập sâu xa và tham gia toàn diện của các người tín hữu giáo dân trên mặt đất, vào sự sống của thế giới, của cộng đồng nhân loại, nhưng nhất là nói lên nét mới mẻ và độc đáo của một sự hội nhập và tham gia để phổ biến Tin Mừng Cứu Độ.
ĐUỢC KÊU GỌl ĐỂ NÊN THÁNH
16. Chúng ta sẽ thấy rõ ràng trọn vẹn phẩm giá của người tín hữu giáo dân nếu chúng ta khảo sát ơn gọi đầu tiên và căn bản mà Chúa Cha kêu mời mỗi người trong Đức Giêsu Kitô qua trung gian của Chúa Thánh Thần: ơn gọi nên Thánh nghĩa là ơn gọi đạt đến sự trọn lành của Đức ái. Thánh nhân là người đã sống cuộc đời làm chứng nhân phẩm giá của tín hữu Đức Kitô một cách sáng lạn.
Công Đồng Vaticanô II đã nói rất rõ ràng về ơn gọi mọi người phải nên Thánh. Có thể qủa quyết đó là đường hướng chính đã được vạch ra cho con cái nam nứ của Giáo Hội do Công Đồng, một Công Đồng đã được triệu tập để canh tân đời sống Kitô hữu theo ánh sáng Phúc âm.(41) Đường hướng này không chỉ đơn giản là một lời khích lệ luân lý, nhưng đó là một đòi hỏi mầu nhiệm của Giáo Hội: Giáo Hội là một cây nho được tuyển chọn, nhờ Giáo Hội các cành nho sinh trưởng nhờ nhựa sống của chính Đức Kitô, nhựa sống vừa thánh thiện vừa có sức thánh hóa; Giáo Hội là Nhiệm Thể, các phần thân thể của Giáo Hội thông phần sự sống thánh thiện của đầu là Đức Kitô; Giáo Hội là Hiền thê khả aí của Chúa Giêsu, là Đầng đã hiến thân để thánh hóa Giáo Hội (Eph. 5. 25). Chúa Thánh Thần là Đấng đã thánh hóa nhân-tính Chúa Giêsu trong lòng Trinh Nứ Maria (Lk. 1:35) thì cũng chính Chúa Thánh Thần ấy cư ngu và hoạt động trong Giáo Hội để thông ban cho Giáo Hội sự thánh thiện của Con Thiên Chúa làm người.
Ngày nay hơn bao giờ hết, mọi người Kitô-hữu phải đi lại con đường canh tân theo tinh thần Phúc âm, đại độ chấp nhận lời mời của vị Tông Đồ "phải nên thánh trong mọi tác phong của mình" (1 Pt. 1:15). Thượng Hội Đồng ngoại lệ năm 1985, hai chục năm sau Công Đồng, đã nhấn mạnh kịp thời về tình trạng khẩn cấp này: "Giáo Hội trong Đức Kitô là mầu nhiệm, vì thế Giáo Hội phải được xem như là dấu chỉ, và phương thế của sự thánh thiện. Các vị Thánh nam, nữ, đã luôn luôn là nguồn gốc canh tân trong Giáo Hội và những giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử Giáo Hội. Ngày hôm nay chúng ta cần có những vị Thánh lớn, chúng ta hãy khẩn khoản cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta những vị Thánh như vậy." (42)
Mọi người trong Giáo Hội, vì là phần thân thể Giáo Hội, nên nhận được và chia sẻ ơn gọi nên thánh chung của mọi người. Ngườl tín hữu giáo dán được mời gọi nên thánh, và họ có quyền được gọi giống như mọi thành phần khác của Giáo Hội: "Tất cả những ai tin vào Đức Kitô, không phân biêt bậc sống, địa vị, đều được kêu gọi tiên đến sự sung mãn của đời sống Kitô hữu và sự trọn lành của Đức ái" .(43) "Tất cả những tín hữu của Đức Kitô đều được mời gọi và có bổn phận nên thánh và nên trọn lành theo địa vị của mình .(44)
Ơn gọi nên thánh bắt ngùôn từ phép Rửa Tội và được các bí tích khác thêm sinh lực, nhất là phép Thánh Thể. Được mặc lấy Chúa Kitô và được hướng dẫn bởl Thánh Linh Ngài, các Kitô hữu là những "thánh nhân" và vì thế, có năng cách để dấn thân hầu biểu lộ sự thánh thiện của hành động mình. Thánh Phaolô Tông ĐỒ luốn luôn khuyến khích các Kỉtô hữu sống "như những vị thanh" (Eph.5. 3).
Sống theo Thảnh Linh đem lại kết qủa là sự thánh thiện (Rom. 6.22, Gal. 5.22). Sự sống này khởi dậy trong tầm hồn mọi ngườl và mỗi ngươi đã chịu phép Rửa Tội, ước muốn và đòi hỏỉ phải theo và bắt chước Đức Giêsu Kitô, bằng cách chấp nhận các Mốt Phúc Thật của Ngài, bằng việc lắng nghe và suy niệm Lờì Chúa, bằng cách tham gia mốt cách ý thức và linh động vào đời sống phụng vụ và bí tích của Gỉáo Hộỉ, bằng việc cầu nguyện cá nhần, trong gia đình hay trong cộng đồng, bằng tâm hồn đói khát sự công chính, bằng việc thực hành giới răn yêu thương trong mọi hoàn cảnh của đời sống, và bằng việc phục vụ anh em, đặc bíệt nhưng người khó hèn, nghèo túng và đau khồ.
Thánh Hóa bản thân giứa thế giới.
17. ơn gọi nên thánh của người tín hữu giáo dán đòi hỏi sống theo tác động của Thánh Linh một cách đặc biệt trong việc hội nhập của họ vao thực tại trần thế, và trong việc tham gia vào các hoat động trần gian. Chính vị Tông Đồ Cả đã khuyên khích chúng ta như vậy: "Những gì chúng ta nóí, những gì chúng ta làm đêu phải thực hiện với danh nghĩa Đức Giêsu Kitô, nhờ Ngài để cảm tạ Thiên Chúa Cha" (Col. 3:17). Áp dụng lời của Thánh Tông Đồ cho tín hữu gíáo dân, Công Đồng qủa quyết một cách cứng rắn: "Họ không được để cho việc gia đình việc trần thế lấn át đời sống thiêng liêng của mình".(45)
Sau Công Đồng, các Nghí Phụ Thượng Hội Đồng tuyên bố. "Sự thống nhất đời sống của người tín hữu giáo dân rất quan trọng: vì họ phải tự thánh hóa trong cuộc sống hằng ngày, cuộc sống nghề nghiệp và xã hội. Để đáp lại ơn gọi của mình, người tín hữu giáo dân phải xem đời sông thường nhật như một cơ hội kêt hiệp với Chúa và thực hiện ý muôn của Ngài, như một cơ hội phục vụ tha nhân bằng cách đưa họ tới hiệp thông với Thiên Chúa trong Đức Kitô" (46)
Ơn gọi nên thánh phải được người tín hữu giáo dân nhận thức và sống, không phải như một bổn phận đòi hỏi và không thể lẫn tránh, nhưng một dấu chỉ chói sáng của tình yêu vô biên của Chúa Cha là Đấng đã tái sinh họ trong đời sống thánh thiện. Một ơn gọi như thế, trong những điều kiện ấy, phải được định nghĩa như yêú tố căn bản và không thể phân lìa của đởi sống mới do phép Rửa Tội, và vì thế, như một yếu tố cấu tạo nên phẩm giá của họ. Đồng thời, ơn gọi nên thánh lại được líên kết mật thiết với sứ mệnh và trách nhiệm được trao phó cho người tín giáo dân trong Giáo Hội và giữa thế giới. Bởi vì, sự thánh thiện đang sống trong tín hữu phát xuất từ việc tham gia vào đời sống thánh thiện của Giáo Hội, tự nó cũng biểu tượng sự đóng góp tiên khởi và căn bản vào việc xây dựng Giáo Hội như là "việc các thánh thông công". Trước cặp mắt Đức Tin đang mở ra một cảnh tượng lạ lùng: đó là bao nhiêu tín hữu giáo dân, nam và nữ trong cuộc sống và sinh hoạt hằng ngày, không ai hay biết tới họ, đôi khi cũng không ai hiểu được họ, các kẻ quyền hành trần thế không đếm xỉa tới họ nhưng Chúa Cha nhìn họ đầy vẻ trìu mến, họ là nhưng người thợ đang mài miệt làm việc t.rong vườn nho của Chúa, là những kẻ thấp hèn nhưng cao sang vì nhờ sức mạnh của ân sủng Thiên Chúa, họ đang mở rộng Nước Thiên Chúa trong dòng lịch sử.
Phải nhìn nhận sự thánh thiện cũng là nền tảng căn bản và là điều kìện tuyệt đôí không thay thế được để hoàn thành sứ mệnh của Giáo Hội. Chính sự thánh thiện của Giáo Hội là nguồn gốc sâu nhiệm và là mực thước không sai lầm của hoạt động tông đồ, và nghị lực truyền giáo của Giáo hội. Giáo hội Hìên thê của Đức Kitô càng được Ngàì yêu mến và đáp lạỉ Tình yêu Ngài bao nhiêu, thì Giáo Hội càng trở nên người Mẹ phong phú trong Thánh Linh bấy nhiêu.
Một lần nữa, chúng ta hãy lấy lại hình ảnh của Thánh Kính: sự sinh trưởng của cành nho tùy thuộc vào việc kết hơp với cây nho: "Cũng như cành nho không tụ nó sinh hoa kêt qủa nếu nó khồng ở trong cây nho, cũng thế chúng con sẽ không đem lại hoa trái nêú chúng con không ở trong Thầy, Thầy là Cây Nho, chúng con là cành. Aí ở trong Thầy và Thầy ở trong ngươì ấy, họ sẽ mang lại nhiều hoa trái, bởi vì, ngoài Thầy, chúng con không làm gì được" (Jn. 15. 4-5).
Ở đây cần phải nhắc lại việc tôn phong chân phúc hay hiển thánh cho các tín hữu nam, nữ trong thởi gian Thượng Hội Đồng. Toàn dân Thiên Chúa, nhất là các tín hữu gìáo dân có thể tìm ở họ, những vị mô phạm mới cho việc nên thánh, những chứng nhân mới của các nhân đức anh hùng, được thực hiện trong những hoàn cảnh thông thường hằng ngày. Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng quả quyết: "Các Gián Hội địa phương nhất là các Gíáo Hộỉ trẻ trung phải lưu ý tìm xem trong con cái mình, những giáo dân nam nử gìữa những cánh đông như thê (cảnh sống thường nhật ở trần thế và bậc sống vợ chồng) đã sông chứng nhân thánh thiện và có thể trở nên gương mẫu cho người khác, để đề nghị phong Chân Phườc hoặc Hiển Thánh". (47)
Suy nghĩ đên đây, để định vai trò người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội, Ta nhớ lại lời kêu mời của Thánh Lêô Cả: "Hỡi người tín hữu hãy nhận chân phẩm giá của mình" (48). Đó cũng là điều mà Thánh Maxime, Giám Mục thành Turin nói với những người đã chịu phép Rửa Tội: "Anh em hãy nhìn nhận vình dự anh em đã được trong mầu nhiệm này". (49) Tất cả những ai đã chịu phép Rửa Tội đêu được mời gọi lắng nghe một lần nữa những lời của Thánh Augustinô: "Chúng ta hãy vui mừng và tạ ơn: Không những chúng ta đã được trở nên những Kitô-hữu, mà là trở nên Chúa Kitô... Chúng ta hãy vui sướng hân hoan, chúng ta đã trở nên Chúa Kitô!" (50)
Phẩm giá người Kitô hữu, nguồn phát sinh sự bình đẳng của mọi thành phần Giáo Hội, bảo đảm và cổ võ tinh thần hiệp thông và huynh đệ, và đồng thời trở nên nguồn sức mạnh âm thầm của nghị lực tông đồ truyền giáo của người tín hữu giáo dân. Tuy nhiên là một phẩm giá đòi hỏi nhiều tước vị khác nhau của những người thợ được Chúa gọi vào làm vườn nho của Ngài, Công Đồng nói: "Bởi vậy, nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tđi tât cả mọi người, ở mọi nơi và mọi thời đại ". (51)
Chương 2
TẤT CẢ LÀ CÀNH NHO CỦA MỘT CÂY NHO DUY NHẤT
Sự tham gia của tín hữu giáo dân vào đời sống của Giáo Hội Hiệp Thông
MẦU NHlỆM CỦA GlÁO HỘl THÔNG HlỆP
18. Chúng ta hãy nghe lại lời của Đức Giêsu: "Ta là Cây Nho Thật, và Cha Ta là Người trồng nho... các con hãy ở trong Ta, như Ta ở trong các con" (Jn 15:l-4).
Chỉ mấy lời đơn sơ này cũng đã mặc khải cho chúng ta thấy sự thông hiệp mầu nhiệm kết hợp Chúa và các môn đệ Ngài, nối kết Đức Kitô với các người đã chịu phép Rửa Tội trong sự hơp nhất toàn vẹn: một sự thông hiệp linh động và chuyển ban sinh lực, nhờ đó người Kitô-hữu không còn thuộc về mình nữa, nhưng trở thành sở hưu của Đức Kitô, như cành nho hợp nhất với cây nho.
Sự thông hiệp của người Kitô-hữu với Đức Giêsu, lấy sự thông hiệp của Chúa Con với Chúa Cha trong ơn Chúa Thánh Thần làm kiểu mẫu, nguồn gốc và cùng đích: Người Kltô-hữu hiệp nhất với Chúa Con trong mỗi giây ràng buộc tình yêu của Chúa Thánh Thần cũng được hiệp nhất với Chúa Cha. Chúa Giêsu còn tiếp: "Ta là cây nho, chúng con là cành" (Jn. 15.5). Người Kitô hữu hiệp thông với Đức Kitô nên họ cũng hiệp thông với nhau. Tất cả đều là cành nho của Cây Nho duy nhất là Đức Kitô . Trong sự hiệp thông huynh đệ này, Chúa Giêsu phản ảnh lạ lùng việc tham dự nhiệm mầu vào đời sông tình yêu thâm sâu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Để thực hiện sự thông hiệp này, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: "Cho hết thảy được hợp nhất, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha vậy, để họ cũng được liên hiệp cùng Ta, cho thiên hạ tin rằng Cha đã sai con đến."
Sự thông hiệp này, chính là mầu nhiệm của Giáo Hội như Công Đồng Vaticanô II đã dùng những lời của Thánh Cypnanô để nhắc lại: "Giáo Hội phố quát xuất hiện như một dân tộc được hợp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánk Thần".(52) Mầu nhiệm Giáo Hội hiệp thông này được nhắc nhở ở mỗi đầu Thánh Lễ khi vị chủ tế đón mời chúng ta bằng lời chào của Thánh Phaolô Tông Đồ: "Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha và ơn Thông Hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em " (2 Cor. 13:13).
Công Đồng và Giáo-Hội-Học Hiệp Thông
19. Đây là tư tưởng chính mà Giáo Hội đã đưa ra ánh sáng để tự định-nghĩa mình trong Công Đồng Vaticanô II, cũng như Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại lệ năm 1985, đã nhắc lại: "Giáo-hộì-học về hiệp thông là tư tưởng trung tâm căn bản của các văn kiện Công Đồng. Giáo Hội Hiệp Thông (koinonia - Communion) dựa trên Thánh Kinh, đã được tôn trọng trong Giáo Hội thời sơ khởi, và trong Giáo Hội Đông phương cho tới ngày nay. Công Đồng Vaticanô II đã nỗ lực làm việc, khảo sát để Giáo Hội được hiểu một cách rõ ràng như là một sự hiệp thông và để khái mệm này được thực thi một cách cụ thể trong đời sống. "Thông Hiệp", tiếng phức tạp này có nghĩa gì? Từ nguồn gốc nó có nghĩa là sự hiệp thông với Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô trong Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông này chúng ta. nhận được nhờ Lời Chúa và các phép Bí Tích. Phép Rửa Tội là cánh cửa và cũng là nền tảng của sự hiệp thông trong Giáo Hội. Phép Thánh Thể là nguồn và đỉnh cao của sự sống người Kitô hữu. Sự hiệp thông với Mình Thánh Chúa Kitô là dấu chỉ và phát sinh, hay nói cách khác, xây dựng sự hiệp thông mật thiết của mọi tín hữu trong Thân Xác của Chúa Kitô là Giáo Hội". (53)
Công Đồng vừa bế mạc, Đức Phaolô VI đã nói với tín hữu: "Giáo Hội là một sự hiêp thông. Tiêng hiệp thông ở đây có nghĩa gì? Ta mời chúng con đọc lại giáo lý nói về việc các Thánh Thông Công - và các Thánh Thông Công mang hai nghĩa: Người Kitô hữu được thông công vào sự sông Đức Kitô và sự lưu thông của chính đức ái này trong toàn thể cộng đồng các tín hữu ở trần gian, và bên kia thế giới. Hợp nhất với Đức Kitô và trong Đức Kitô, hợp nhất các Kitô hữu với nhau trong Giáo Hội. (54)
Các hình ảnh Thánh Kinh Công Đồng đã dùng để giúp chúng ta suy niệm mầu nhiệm Giáo Hội, đã đưa ra ánh sáng cho chúng ta thầý thực tại Giáo Hội hiệp thông khăng khít giữa các Kitô hữu với Đức Kitô, và hiệp thông các Kitô hữu với nhau. Đó là hình ảnh chuồng chiên, đàn chiên, cây nho, toà nhà thiêng hêng, và hình ảnh thành Thánh. (55) Nhưng trên tất cả, hình ảnh về nhiệm thể của Thánh Phaolô được Công Đồng lưu ý nhiều hơn cả vì giáo lý của Người dạy luôn luôn sống động và hấp dẫn .(56) Công Đồng dựa theo lịch sử Cứu Rỗi cũng trình bày Giáo Hội như là Dân Thiên Chúa: "Thíên Chúa đã không muốn cho con người nhận lãnh sự thánh hóa và ơn Cứu Độ một cách rìêng rẽ, không một giây liên lạc ràng buộc, nhưng Ngài muốn làm cho họ trở thành một dân tộc nhận bỉết Ngài theo sự thật và phụng sự Ngài trong sự thánh thiện" (57). Ngay từ hàng chữ đầu, Híến Chế "ánh Sảng Muôn Dân" đã tóm lược tín lý này một cách tuyệt diệu: "Giáo Hội Ở trong Chúa Kitô như là Bí Tích, nghĩa là vừa là dấu chỉ, vừa là phương tiện đưa đến sự kết hợp mât thiết với Thỉên Chúa và hợp nhất của toàn thể nhần loại." (58)
Thưc tại Giáo Hội Hiệp Thông như thế là phần tất yếu hay nói đúng hơn, nó là nội dung trung điểm của "Mầu Nhiệm", nghĩa là của ý định Thiên Chúa trong vỉệc Cứu Rỗi nhân loại. Vì thế sự hiệp thông trong Gỉáo Hội không chỉ nói về phương diện xã hội hay tâm lý. Giáo Hội Thông Công là dân tộc "mới", là dân tộc "thời đại Đấng Thiên Sai" dân tộc "mà vị thủ lãnh là Đức Kitô..." và sự hiệp thông của nó là phẩm gỉá và sự tự do của con cái Chúa... Luật của dân này là giới răn mới yêu thương như chính Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta... Cứu cánh của họ là Nước Thiên Chúa... và dân tộc này đã được Chúa Kitô thiết lập như một Cộng Đồng sống hiệp thông trong đức ái và chân lý" (59). Môí dây liên kết các phần tử của Dân Mới này lại với nhau - và trước tiên với Đức Kitô - không phảỉ là những môí giây "xác thit" và "máu mủ" mà là giây tinh thần, nói rõ hơn là các mối giây của Thánh Thần mà những ai chịu phép Rửa Tội đã nhận lãnh (Jl. 3:l).
Bởi vì chính Chúa Thánh Thần tự đời đời đã là sợi giây liên kết của Thiên Chúa Ba Ngôi, một và không phân chia được Thánh Thần này khi thời gían đến" (Gal. 4:4) đã vĩnh viễn kết hơp máu thịt con người với Con Thiên Chúa, là Thánh Thần qua suốt các thế hệ của đạo Chúa Kitô đã trở nên nguồn suốt vô tận đem lại sự hiệp thông trong Giáo Hội.
Một sự Hiệp Thông có cơ cấu:
khác biệt nhưng bổ túc
20. Sự thông hiệp trong Giáo Hội là một sự thông hiệp "có cơ cấu", giống như một thần thể sống động. Nó bao gồm các thành phần khác biệt và bổ túc nhau theo ơn gọi và địa vị, gồm các thừa-tác-vụ, các ơn đoàn-sủng (charismes), và các trách nhiệm khác nhau. Nhờ có sự khác biệt và bổ túc này, mỗi tín hữu giáo dân có liên hệ với toàn thần và đem lại phần đóng gúp cho toàn thân.
Thánh Phaolô Tông Đồ đã đặc biệt nhấn mạnh về sự thông hiệp cơ cấu của Nhiệm Thể Đức Kitô. Chúng ta hãy lắng nghe lại một lần nữa giáo huấn súc tích của Người trong bản đúc kết Công Đồng Hiến Chế "ánh Sáng Muôn Dân" quả quyết: "Đức Giêsu Kitô khi thông ban Thánh Thần cho anh em mình mà Ngài đã triệu tập từ các dân các nước lại, đã liên kết họ một cách nhiệm mầu thành Thân Thể Ngài . Trong Thân Thể này, sự sống của Đức Kitô tràn ra nơi các kẻ tin... tất cả các chi thể" tuy nhiều, nhưng lập thành một thân thể, cũng thế các tín hữu họp thành một thân thể trong Chúa Kitô (1 Cor. 12:12). Trong việc xây dựng Thân Thể Chúa Kitô cần có nhiều chi thể với chức vụ khác nhau. Chỉ có một Chúa Thánh Thần ban những ân sủng khác nhau để làm ích cho Giáo Hội theo sự sung mãn của Ngài và tuỳ nhu cầu của các công tác (1 Cor.12:1-11). Trong các ân sủng ấy, ơn ban cho các Tông Đồ đứng hàng đầu: "Chính Chúa Thánh Thần đặt dưới quyền các Ngài những người lãnh nhận các đoàn sủng (1 Cor.14). Cũng chính Thánh Thần ấy, là nguyên lý hợp nhất trong thân xác nơi đó thần lực của Ngài hoạt động và thể hiện sự liên kết các chi thể, làm phát sinh và khích lệ đức ái giứa các tín hữu. Vì thế, nếu một chi thể nào đau đớn, tất cả các chi thể khác đều bị đau đớn , và một chi thể nào được vinh dự tất cả các chi thể khác cùng chung vui".(60)
Luôn luôn chính cũng một Thánh Thần duy nhất là nguyên lý đầy động lực phát sinh sự khác biệt và sự hiệp nhất trong Giáo Hội. Chúng ta hãy đọc lạì Hiến Chế Muôn Dần: "Để chúng ta được liên lỉ canh tân trong Ngài " (Eph.4:23), Đấng đã ban cho chúng ta Thánh Thần của Ngài để hiện hữu nơi đầu cũng như trong thân thể, là sống động, hợp nhất và thúc đẩy toàn thân. Các Thánh Giáo Phụ đã so sánh tác động của Chúa Thánh Thần như công việc của linh hồn là nguyên lý sự sông, hoàn thành trong thân xác,(61) Trong một bản văn khác đặc biệt súc tích và hiếm có để giải thích không những "tính chất cơ cấư" riêng biệt của sự hiệp thông trong Giáo Hội, mà hiệp thông này phải luôn luôn trưởng thành cho đến ngày hiệp thông toàn vẹn, Công Đồng viết: "Chúa Thánh Thần ngự trong Giáo Hội và trong tâm hồn các tín hữu như ngự trong Đền Thánh (1Cor.3:16, 6.19). Trong họ, Ngài cầu nguyện và chứng nhận họ là dưỡng tử của Thiên Chúa (Gal. 4:6, Rom. 8:15-6, 26). Ngài thông đạt cho Giáo Hội toàn bộ chân lý (Jn.16.13). Ngài thống nhất Giáo Hội trong sự hiệp thông và phục vụ. Ngàỉ xây dựng và dẫn dắt Giáo Hội bằng nhiều ân hụê khác nhau theo phẩm trật và ơn đoàn sủng, tô điểm Giáo Hội bằng hoa trái ân sủng của Ngàl (Eph. 4:11-12,1 Cor.12:4, Gal.5:22). Nhờ sức mạnh Phúc âm, Ngài làm cho Giáo Hội được phát triển, luôn luôn đổi mới, và hướng dẫn Giáo Hội ngày kết hơp với vị Phu quân của mình. Cả Chúa Thánh Thần và Hiền Thê cũng mời gọi Chúa Giêsu rằng: "Xin hãy đến".(62)
Sự hiệp thông trong Giáo Hội là một ân huệ, một đại ân huệ của Chúa Thánh Thần, các tín hữu đươc mời gọi nhận lãnh ơn này với lòng biết ơn và đồng thời sống ơn này bằng tinh thần trách nhiệm. Việc này thực hiện một cách cụ thể khi họ tham gia vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội, và để phục vụ Giáo Hội các tín hữu giáo dân thi hành các thừa-tác-vụ, và các đoàn sủng của mình.
Người tín hữu giáo dân "không được quyền tự cô lập mình với cộng đoàn, nhưng họ phải luôn sống trong sự chia xẻ với anh em khác trong tình huynh đệ sâu đậm, trong niềm vui vẻ bình đẳng, và hợp tác với nhau để kho tàng gia tài mênh mông đã được nhận lãnh được sinh hoa kết qủa. Thánh Thần Thiên Chúa ban cho họ cũng như ban cho kẻ khác nhiều ơn đòan sủng, Ngài gọi họ lãnh nhận nhiều thừa-tác-vụ và nhiều trọng trách khác nhau. Ngài nhắc lại cho họ cũng như cho kẻ khác biết rằng trong mối tương quan với nhau điều làm cho họ nổi bật, không phải là thăng tiến chức phận, mà chính họ là được trao quyền năng đặc biệt và bổ túc để phục vụ.... Vì thế, các ơn đoàn sủng, các thừa tác vụ, các trọng trách các dịch vụ của người tín hữu giáo dân nếu có là có trong sự hiệp thông. Đó là những kho tàng bổ túc lẫn nhau dùng để tạo lợi ích cho mọi người dưới sự hướng dẫn khôn nguan của các vị Chủ Chăn".(63)
THỪA-TÁC-VỤ VÀ ĐOÀN SỦNG LÀ ƠN CỦA CHÚA
THÁNH THẦN BAN CHO GlÁO HỘl
21. Công Đồng Vaticanô II trình bày các thừa-tác-vụ và các ơn đoàn sủng như là ơn Chúa Thánh Thần ban để xây dựng Thân Thể Chúa Kitô, và để truyền giáo hầu để cứu rỗi thế giới.(64) Vì Giáo Hội được hướng dẫn điều hành do Chúa Thánh Thần là Đấng ban phát mọi sự khác nhau theo phẩm trật và có tính cách đoàn sủng, Ngài ban cho hết mọi người đã chịu phép Rửa Tội, và kêu gọi họ phải hoạt động và đồng chịu trách nhiệm mỗi người theo cách thế của mình.
Giờ đây chúng ta hăy xem xét các thừa-tác-vụ và các ơn đoàn sủng đôl với các tín hữu giáo dân, và việc tham gia của họ vào đời sống Giáo Hội Hiệp Thông.
Thừa-tác-vụ, Nhiệm-vụ và Chức-vụ
Các thừa tác vụ hiện tại đang tác động trong Giáo Hội, mặc dầu có khác biệt nhau trong cách thế, nhưng tất cả là đều tham gia vào thừa tác vụ của Chúa Giêsu Kitô là vị Chủ Chăn đã liều mạng sống vì đàn chiên (Jn. 10.11), là người đầy tớ hèn mọn và hoàn toàn hy sinh để cứu rỗi mọi người (Mk. 10:45). Thánh Phaolô nói rất rõ ràng về sự thiết lập các thừa-tác-vụ trong Giáo Hội đời các Thánh Tông Đồ. Trong thư thứ nhất gỉn các tín hữu thành Côrintô, Ngài viết: "Thiên Chúa đặt để trong Giáo Hội, trước tiên có các Tông Đồ, thứ đên các vị rao giảng, rồi đến những kẻ nhận trách nhiệm dạy dỗ... " (Cor. 12.28). Trong thư gởi cho giáo hữu thành Ephêsô Ngài viết: "Mỗi người trong chúng ta đã lãnh nhận ơn nghĩa thánh như Chúa Kitô đã phân chia... và các ơn Ngài ban cho con người, trước tiên là các Tông Đồ, đến các vị rao giảng, các nhà Thừa Sai Phúc âm, các chủ chăn và những người lo việc dạy dỗ. Như thế, dân thánh Chúa được tổ chức để các thừa-tác-vụ được hoàn thành và để Thân Thể của Đức Kitô được xây dựng. Cuối cùng, tất cả chúng ta cùng nhau hiệp nhất trong Đức Tin và trong sự hiểu biết chân chính Con Thiên Chúa, để tiên tới tình trạng trưởng thành, và sung mãn trọn vẹn của tầm vóc con người Đức Kitô" (Eph.4:7-11-13, Rom.12:4-8). Các bản văn này cũng như các văn bản khác của Tân ước cho chúng ta thấy là các thừa-tác-vụ, cũng như các ơn huệ và các công tác trong Hội Thánh, có rất nhiều và khác nhau.
Các thừa-tác-vụ phát sinh từ
Phép Truyền Chức Thánh
22. Trong Giáo Hội , chúng ta thấy trước tiên các thừa-tác-vụ được truyền phong nghĩa là phát nguồn từ Phép Truyền Chức Thánh. Chúa Giêsu đã chọn và đặt các Tông Đồ "như là hạt giống nảy sinh dân Israel mới và đồng thời cũng là nguồn gốc của phẩm trật trong Giáo Hội" (65) , và truyền cho họ phải huần luyện và đào tạo những môn đệ trong khắp các dân tộc (Mt. 28:19), và đĩeu khiển hàng tư tế. Sứ vụ của các Tông Đồ mà Chúa Giêsu tiếp tục giao phó cho các vị Chủ chăn dân Ngài, là một chức vụ mà Thánh Kinh gọi là "diakonia" nghĩa là phục vụ hay mục vụ. Các vị này nhận lãnh nơi Đức Kitô Phục sinh, ơn đoàn sủng của Chúa Thánh Thần được truyền thụ không ngừng từ đời các Tông Đồ, nhờ bí tích Truyền Chức Thánh: Từ Đức Kitô họ nhận lãnh trách nhiệm và quyền năng linh thiêng để phục vụ Giáo Hội, họ hành động nhân danh Chúa Kitô là Đầu (66) và để hơp nhất Giáo Hội lại trong Chúa Thánh Thần nhờ Phúc âm và phép Bí Tích.
Các thừa-tác-vụ được truyền phong là một ân sủng được ban cho toàn thể Giáo Hội, chứ không chỉ là ân sủng riêng cho cá nhân người lãnh nhận. Các thừa-tác-vụ này là sư thực thi và biểu lộ việc được tham dự vào chức linh mục của Chúa Kitô; sự tham dự này khác biệt ngay trong bản tính, chứ không chỉ trong mức độ tham dự đã được ban cho mọi tín hứu nhờ phép Rửa Tội và phép Thêm Sức. Đàng khác, chức linh mục thừa-tác-vụ, như Công Đồng Vaticanô II đã gọi hướng về chưc tư-tê-vương-giả cộng đồng của mọi tín hữu, và cùng đích cốt yếu của nó nằm ở trong chức tư tế này.(67)
Vì thế, để bảo đảm và làm tăng trưởng sự hiệp thông trong Giáo Hội, đặc biệt về những gì có lỉên quan đến các thừa-tác-vụ khác nhau và bổ túc cho nhau, các vị chủ chăn phải xác tín chắc chắn rằng chức linh mục của mình là để phục vụ toàn dần Thiên Chúa (Heb. 5.1). Các tín hữu giáo dân cũng phải nhìn nhận rằng chức linh mục thừa-tác-vụ tuyệt đối cần thiết cho cuộc sống của chính mình trong Giáo Hội, và cho mình được tham dự vào sứ mệnh của Giáo Hội.(68)
Thừa tác vụ, nhiệm vụ và chức vụ của giáo dân
23. Sứ mệnh cứu rỗi của Giáo Hội giữa thế giới được thực hiện không chỉ nhờ các vị thừa hành đã nhận lãnh bí tích Truyền chức Thánh, nhưng cũng nhờ các tín hữu giáo dân; vì họ đã được chịu phép Rửa Tội và được kêu gọi đặc biệt, để tham dự theo mức độ của mỗi người vào chức vụ tư tế, rao giảng và vương giả của Đức Kitô.
Bởi thế, các vị chủ chăn phải thừa nhận và cổ võ các thừa-tác-vụ, nhiệm vụ và chức vụ của các tín hữu giáo dân, những nhiệm vụ và tác vụ này có nền tảng bí tích trong phép Rửa Tội, phép Thêm Sức và hơn nữa trong phép Hôn Phối đối với nhiều người trong giáo dân.
Hơn nữa, khi cần thiết hoặc vì lợi ích của Giáo Hội đòi buộc, các chủ chăn có thể theo quy chế dự định trong bộ luật chung, giao phó cho tín hữu giáo dân một số nhiệm vụ hay chức vụ. Những nhiệm vụ hay chức vụ này vẫn (tuỳ thuộc) với thừa-tác-vụ chủ chăn của các Ngài, nhưng không cần chức Thánh mới thi hành đuược. Giáo Luật xác định: "Nơi nào nhu cầu Giáo Hội đòi hỏi và thiếu thừa-tác-viên, thì các giáo dân dù không có chức tác-vụ đọc sách và giúp lễ, cũng có thể thay thế họ làm một số việc như đọc Lời Chúa, chủ tọa các buổi cầu nguyện, rửa tội và cho rước lễ theo các quy tắc luật định".(69)
Tuy nhiên, việc thi hành chức vụ này không làm cho người tín hữu giáo dân trở thành vị chủ chăn: Thật ra, điều tạo nên một thừa-tác-vụ, không phải là chính tác động mà là bí tích Truyền Chức. Chỉ có phép Truyền Chức Thánh mới ban cho vị thừa-tác-viên nhận chức sự tham gia vào chức tư tế của Đức Kitô.(70) Chức vụ thi hành với tư cách là kẻ thay thế được xem là hơp pháp, là vì các chủ chăn đã lãnh nhận một cách công khai sự đại diện chính thức. Vậy khi thi hành chức vụ này, người thay thế phải lệ thuộc vào quyền lãnh đạo của Giáo-quyền.(71)
Thượng Hội Đồng Giám Mục vừa qua đã trình bày cho thấy một cái nhìn bao quát tình trạng Giáo Hội về các thừa-tác-vụ, nhiệm-vụ và chức-vụ của những người đã chịu phép Rửa Tội. Các Nghị Phụ đã hết lòng thán phục những sự cộng tác tông đồ của các tín hữu giáo dân nam nữ để làm cho Giáo Hội được sống và tăng trưởng bằng các ơn đoàn sủng, bằng các hoạt động nâng đỡ việc truyền giáo, việc thánh hóa và sống đạo. Đồng thời các vị Nghị Phụ cũng rất quý mến sự tận tâm sẵn có của họ để phục vụ các cộng đồng trong Giáo Hội, và việc chuẩn bị sẵn sàng của họ để thay thế các vị chủ chăn trong những trường hơp khần cấp hoặc trong các nhu cầu nhất thời.(72)
Sau khi Công Đồng cổ võ việc canh tân Phụng vụ, các tín hữu giáo dân cũng ý thức rõ ràng về nhiệm vụ của họ trong khi chuẩn bị tham dự các nghi thức Phụng vụ; vì thế họ đã tỏ ra rất quan tám: Vì việc cứ hành Phụng vụ là một việc Thánh của cộng đồng dân Chúa chứ không riêng gì của hàng giáo sĩ. Lẽ dĩ nhiên việc nào không phảí dành riêng cho các vị có chức Thánh thì phải do các tín hữu giáo dân đảm trách.(73) Một khi chấp nhận việc tham gia thật sự của người tín hữu giáo dân trong việc phụng sự, tự nhiên cũng để chấp nhận họ tham gia vào việc rao truyền Lời Chúa và trách nhiệm mục vụ.(74)
Trong buổi Đại Hội Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, ngoài những phán đoán tích cực ủng hộ, cũng không thiêú những lời chỉ trích bài bác việc dùng từ ngữ "thừa-tác vụ, , việc lẫn lộn chức linh mục cộng đồng với chức linh mục thừa hành, việc bỏ sót không áp dụng luật lệ và định chế của Giáo Hội, việc giải thích tự tiện khái mệm về việc thay thế, chỉ trích xu hướng giáo-sĩ-hóa, các tín hữu giáo dân có nguy tạo nên một cơ cấu phục vụ trong Giáo Hội song song với cơ cấu đã được xây dựng trên nền tảng của phép Truyền Chức Thánh.
Để ngăn ngừa các hiểm họa ấy, các Nghị Phụ lưu tâm đến việc cần thiết phải giải thích rõ ràng bằng cách quy định một từ ngữ chính xác, diễn tả hai điểm quan trọng này (75), sự duy nhất sứ mệnh của Giáo Hội là sứ mệnh tất cả những người đã chịu phép Rửa Tội phải tham gia, và sự khác biệt bản chất mà thừa-tác-vụ của các vị chủ chăn được xây dựng trên nền tảng của phép Truyền Chức Thánh, với các thừa-tác-vụ, nhiệm vụ và chức vụ khác được xây dựng trên nền tảng của phép Rửa Tội và phép Thêm Sức.
Vì thế, trước khi thừa nhận hay trao ban cho các tín hữu giáo dân các thừa-tác-vụ, nhiệm vụ hay chức vụ, các chủ chăn phải thận trọng cho họ hiểu là các nhiệm vụ này phát sinh từ phép Rửa Tội . Thứ đến các vị chủ chăn không nên dễ dãi viện cớ trường hợp khẩn trương hoặc thay thế khẩn cấp, khi thật sự không có hoặc lúc có thể sắp đặt một chương trình mục vụ hữu hiệu hơn. .
Các nhiệm-vụ và chức-vụ người tín hữu giáo dân có thể thực thi hơp pháp trong Phụng vụ, trong việc truyền bá Đức Tin và trong các cơ cấu mục vụ của Giáo Hội, phải được thực thi phù hơp với ơn gọi đặc biệt của họ, một ơn gọi khác biệt với các thừa-tác-vụ Thánh. Chính bức Tông Huấn "Truyền bá Phúc âm" của Đức Phaolô VI đã đề cập đến vấn đề này. Bức Tông Huấn đã đem lại những kết qủa rất lớn lao và tốt đẹp vì đã cảnh tỉnh được người tín hữu giáo dân để họ tham gia bằng nhiều cách vào đời sống, và vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội . Bức Tông Huấn đã nhắc nhở rõ ràng rằng: "Môi trường riêng biệt của các hoạt động tông đồ của người giáo dân là thế giới mênh mông phức tạp của đời sống chính trị, của các thực tại xã hội và kinh tế, của đời sống văn hóa, khoa học và nghệ thuật, của đời sống quôc tế, của các phương tiện truyền thông xã hội. Nó cũng bao gồm các thực tại khác đặc biệt mở rộng cho việc rao truyền Phúc âm như tình yêu, gia đình, giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên, lao động chức nghíệp và đau khổ. Càng có nhiều giáo dân thấm nhuần tinh thần Phúc âm, ý thức trách nhiệm đối với các thực tại ấy và dấn thân một cách tích cực, đủ khả năng trong việc khai triển các thực tại ấy, và đồng thời ý thức được bổn phận buộc mình phải phát huy tiềm năng Công Giáo của mình đã từ lâu bị chôn vùi và bóp nghẹt, chúng ta càng thấy tầm mức siêu việt và hiệu năng trần thế của nó, để được xử dụng trong công cuộc xây dựng nước Thiên Chúa nghĩa là nước Cứu Rỗi trong Đức Giêsu Kitô".(76)
Trong Thượng Hội Đồng, các Nghị Phụ cũng đã khảo sát về chức Đọc Sách và chức Cầm Nến. Ngày xưa, trong Giáo Hội Latinh, hai chức này chỉ là hai giai đoạn thiêng líêng dọn đường đưa đến các Chức Thánh; nhưng Đức Phaolô VI trong Tự Sắc Ministeria quaedam - (15-8-1972) đã quyết định có thể truyền riêng hai chức này cho các nam tín hữu giáo dân.(77) Các Nghị Phụ đã đề nghị phải nghiên cứu lại Tự Sắc Ministeria quaedam đối chiếu với việc thi hành của các Giáo Hội địa phương, và nhất là định rõ các tiêu chuẩn để chọn các ứng cử viên vào các chức vụ ấy."(78)
Để thực hiện điều này, một ủy ban đặc biệt đã được thành lập. Ủy ban này không những có mục đích đáp lại ước nguyện các Nghị Phụ, mà nhất là để nghiên cứu một cách sâu rộng các vấn đề thần học, phụng vụ, pháp lý và mục vụ được nêu ra vì hiện nay quá nhiều thừa-tác-vụ được trao phó cho giáo dân.
Trong thời gian chờ đợi công việc nghiên cứu của ủy ban kết thúc để việc thi hành các thừa-tác-vụ trong Giáo Hội trao cho tín hữu giáo dân cho có trật tự và hữu ích, các Giáo Hội địa phương phải tôn trọng những nguyên tắc thần học đã dẫn giải ở trên, nhất là sự khác biệt căn bản giữa chức linh mục thừa hành và chức linh mục cộng đồng, và do đó, sự khác biệt giữa các thừa-tác-vụ phát sinh từ phép Truyền Chức Thánh và các thừa-tác-vụ phát sinh từ phép Rứa Tội và phép Thêm Sức.
Đoàn Sủng
24. Chúa Thánh Thần trong lúc giao phó cho Giáo Hội Hiệp Thông các thừa-tác-vụ, thì đồng thời cũng làm cho Giáo Hội được sung túc với nhiều ân hụê và ân sủng đặc biệt khác gọi là đoàn sủng. Các ơn này có nhiều hình thức khác nhau vì Chúa Thánh Thần Đấng ban phát nhứng ơn này là Đấng Tự Do tuyệt đối, và vì lịch sử Giáo Hội có nhiều nhu cầu khác nhau. Tân ước đã mô tả và xếp hạng các ơn nàv, như chúng ta thấy có rất nhiều loại khác nhau: "Vì Thánh Linh hiển hiện trong mỗi người hầu mang lại ích lợi. Như người này nhờ Thánh Linh được ơn lợi khẩu, người khác cũng nhờ Thánh Linh được thông thái, bởi một Thánh Linh đó người này được tín ngưỡng và cũng do Thánh Linh ấy người kia được ơn trị bệnh; lại người được làm phép lạ, kẻ nói tiên tri, người phân biệt các tâm kồn, kẻ nói được nhiều ngoại ngữ, người khác có thể thông dịch các thứ tiêng" (Cor. 12: 7-10...)
Các đoàn sủng cao siêu hay giản dị, tất cả đều là ân sủng Chúa Thánh Thần, trực tiếp hay gián tiếp các ơn này đều đem lại lợi ích cho sự sống Giáo Hội, vì Chúa đã sắp xếp cho các ơn này được xử dụng để xây dựng Giáo Hội, để bổ ích cho con người và để đáp ứng lại các nhu cầu của thế giới
Chính trong thời đại chúng ta, chúng ta cũng thấy đó đây nẩy nở những đoàn sủng nơi người tín hữu giáo dân cả nam lẫn nữ. Các ơn này được ban cho một người nhất định, nhưng các người khác cũng được thông phán và rồi được bảo tồn qua thời gian như một gia sản sống động, quý giá để tạo nên môt liên hệ thiêng liêng đặc biệt giữa nhĩeu người. Khi nói đến việc tông đồ giáo dân, Công Đồng Vaticanô II đã viết: "Để thể hiện việc tông đồ này, Chúa Thánh Thần thánh hóa dân Chúa bằng bí tích và tác vụ. Ngài cũng ban cho tín hữu ơn đặc biệt (1 Cor. 12: 7) để "mỗi người tùy theo ơn đã nhận mà giúp đỡ nhau và chính họ trở nên như những người quản lý trung tín các ơn Thiên Chúa" (1 Pt. 4:10) hầu xây dựng Toàn Thân trong Đức ái." (79)
Các ơn Chúa Thánh Thần được phát sinh để tạo thêm sinh lực dồi dào, vì thế nó đòi hỏi những ai lãnh nhận phải thi hành để cho Giáo Hội được lớn lên và phát triển như Công Đồng đã dậy.(80)
Không phải chỉ những ai lãnh nhận các đoàn sủng, mà tất cả các chi thể của Giáo Hội đêu phải tỏ lòng biết ơn. Vì các ơn ấy là một kho tàng kỳ diệu ơn sủng Chúa ban cho Toàn Thân Chúa Kitô để được thánh hóa và hoạt động tông đồ, với đìêu kiện là nó thật bởi Chúa Thánh Thần mà đến và được thực thi hoàn toàn do Chúa Thánh Thần thúc đẩy. Vì thế, chúng ta phải luôn thận trọng phân biệt các đoàn sủng. Thực ra, như các Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng đã tuyên bố. "Hoạt động của Chúa Thánh Thần, là Đấng thổi hơi nơi nào Ngài muốn, thực không phải dễ dàng phân biệt và nhận lãnh . Chúng ta biết Thiên Chúa tác động trong tất cả các tín hữu và chúng ta cũng ý thức được các ơn lành do các đoàn sủng, ban cho mỗi người hoặc cho cả cộng đồng Kitô hữu. Nhưng chúng ta cũng cần ý thức đến sức mạnh của tội lỗi và những cố gắng của nó nhằm gieo rắc rôi loạn trong đời sống của các tín hữu và của các cộng đồng".(81)
Vì thế mọi đoàn sủng phải liên hệ và tuỳ thuộc vào các chủ chăn của Giáo Hội. Công Đồng đã công bố rõ ràng: "Những vị hữu trách của Giáo Hội có thẩm quyền phán quyết về tính cách chân thực và việc xử dụng hơp lý các ơn ấy; các Ngài có nhiệm vụ thử thách, không phải để dập tắt ơn Chúa Thánh Thần, nhưng để trắc nghiệm và giứ lại những gì là chính đáng" (82) để tất cả những đoàn sủng, mặc dầu khác biệt nhưng bổ túc cho nhau, đều quy về lợi ích chung.(83)
NGƯỜl TÍN HỨU GlÁO DÂN THAM GlA VÀO ĐỜl SỐNG GlÁO HỘl
25. Người tín hữu giáo dân tham gia vào sự sống của Giáo Hội không chỉ bằng cách thực thi các thừa-tác-vụ hay các đoàn sủng của mình mà còn bằng nhiều cách khác nữa.
Hành động này phải được thực hiện trước tiên và cần thiết trong đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội địa phương là các Giáo phận, là nơi có "sự hiện diện và tác động của Giáo Hội Chúa Kitô duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền." (84)
Giáo Hội địa phương và Giáo Hội hoàn vũ
Để tham dự một cách chính đáng vào đời sống Giáo Hội, các tín hữu giáo dân cần có một cái nhìn sáng suốt và chính xác về Giáo Hội địa phương đôi với Giáo Hội hoàn vũ. Giáo Hội địa phương không phải là một mảnh của Giáo Hội hoàn vũ, và Giáo Hội hoàn vũ không phải chỉ là tổng số các Giáo Hội địa phương hơp lại. Nhưng các Giáo Hội địa phương kết hơp với nhau bằng môt giây linh động, căn bản và trường tồn, vì Giáo Hội hoàn vũ hiện hữu và biểu lộ trong các Giáo Hội địa phương. Vì thế, Công Đồng qủa quyết là các Giáo Hội địa phương "được hình thành theo hình ảnh của Giáo Hội hoàn vũ; chính trong các Giáo Hội địa phương và từ các Giáo Hội này mà một Giáo Hội Công Giáo duy nhất hiện hữu." (85)
Công Đồng còn khích lệ các tín hữu giáo dân sống linh động trong Giáo Hội địa phương, đồng thời ngày càng hướng đến Giáo Hội hoàn vũ công giáo. Sắc lệnh Tông Đồ giáo dân tuyên bố. "Giáo dân phải luôn luôn phát triển ý thức về giáo phận và giáo xứ, vì giáo xứ là một tế bào của giáo phận. Họ phải luôn mau mắn đáp lại tiếng gọi của chủ chăn và tuỳ sức tham gia vào những sáng kiến chung của giáo phận . Hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu nơi thành thị cũng như ở thôn quê, họ không chỉ giới hạn sự cộng tác của mình trong phạm vi giáo xứ hay giáo phận, nhưng cố gắng mở rộng phạm vi tới các lãnh vực liên xứ, liên giáo phận, quốc gia và quốc tế. Hơn nữa, việc di dân mỗi ngày một gia tăng, những mối tương giao lại càng mở rộng và việc giao thông thêm dễ dàng, đã không để một thành phần xã hội nào sống đóng kín cho riêng mình. Vì thế người giáo dân phải quan tâm đến những nhu cầu của Dân Chúa rải rác khắp trên thế giới." (86)
Thượng Hội Đồng Giám Mục 1987 theo các ý kiến trên đã yêu cầu nên lập các Hội Đồng Mục Vụ Giáo Phận để phục vụ khi cần. Thực ra, đây là một hình thức chính để hợp tác và đối thoại và đồng thời để kiểm thảo trên bình diện giáo phận. Sự tham gia của các tín hữu vào các Hội Đồng này mở rộng môi trường thăm dò ý kiến và như thế nguyên tắc hợp tác, trong một vài trường hợp cần hơp tác để quyết định, sẽ được áp dụng một cách rộng rãi và chắc chắn hơn. (87)
Việc tham gia của người tín hứu giáo dân vào các đại hội đồng giáo phận hay vào các hội đồng địa phương như hội đồng tỉnh đã được Giáo Luật dự định (88). Việc này làm cho sự thông hiệp được gia tăng và giúp cho sứ mệnh thuộc Giáo Hội của các Giáo Hội địa phương vừa trong ranh giới giáo phận cũng như đối với các giáo hội địa phương khác của giáo tỉnh hay của Hội Đồng Giám Mục.
Các Hội Đồng Giám Mục cũng được mời gọi nghiên cứu phương thế thực tiễn nhất để phát triển, trên bình diện quốc gia hoặc bình diện vùng, việc thăm dò ý kiến và việc hơp tác của các tín hữu giáo dân nam, nữ để mọi người ý thức được các vấn đề chung và để biểu lộ sự hiệp thông Giáo Hội của mọi hạng người.(89)
Giáo Xứ
26. Việc hiệp thông của Giáo Hội mặc dầu có tầm vóc bao quát hoàn vũ, nhưng nó được diễn tả một cách rõ ràng và gần gũi nhất ở trong Giáo xứ. Giáo xứ là đơn vị địa phương của Giáo Hội. Nói một cách khác chính là Giáo Hội sống giữa con cái nam nữ của mình. (90)
Tất cả chúng ta phải dùng Đức Tin để khám phá bộ mặt thật của Giáo xứ, nghĩa là "mầu nhiệm" của Giáo Hội hiện diện và tác động trong Giáo xứ. Mặc dầu đôi lúc Giáo xứ không có nhiều người cũng không đầy đủ phương tiện, có khi Giáo xứ lại tản mác trên những địa hạt rộng lớn, hay lẩn khuất giữa những khu phố tân thời đông đúc và lộn xộn. Nhưng Giáo xứ không phải là một cơ cấu, một địa hạt, hay một ngôi nhà, nó là "một gia đình của Chúa, một cộng đoàn huynh đệ chỉ có một linh hồn" (91) là "mái gia đình, đầy tình huynh đệ và mở rộng đón tiếp mọi người" (92) là "cộng đồng các tín hữưu.(93) Tóm lại, Giáo xứ được đặt nền tảng trên một thực tại thần học, vì đó là một cộng đồng thánh thể.(94) Nghĩa là một cộng đồng có tư cách cứ hành Bí Tích Thánh Thể, nguồn gốc cấu tạo nên cộng đồng và đem lại cho cộng đồng sức sống và giầy liên kết bí tích thông hiệp với toàn thể Giáo Hội. Nói rằng cộng đồng có tư cách cử hành Bí Tích Thánh Thể là vì Giáo xứ là một cộng đồng đức tin và là một cộng đồng có cơ cấu, nghĩa là được tạo nên bởi các vị thừa hành có chức Thánh và các Kitô hữu khác dưới quyền trách nhiêm của một Cha sở vừa đại diện cho Giám Mục Giáo phận (95) vừa là môí giây của hàng giáo phẩm liên kết Giáo xứ với toàn Giáo Hội địa phương.
Công việc của Giáo Hội trong thời đại chúng ta thật mênh mông, một Giáo xứ tự mình không thể cáng đáng nổi. Vì thế, Giáo Luật đã dự liệu những hình thức hợp tác giữa các Giáo xứ trong hạt (96) và yêu cầu Giám Mục giáo phận phải lưu tâm đến tất, cả mọi thành phần tín hữu, ngay cả nhữngrgười không ở dưới quyền cai quản mục vụ của các Ngài.(97) Cần phải tạo nên những nơi gặp gỡ, đìêu kiện để Giáo Hội có thể hiện diện và hoạt động hầu đem lại ân sủng và lời Phúc âm vào trong những môi trường sống phức tạp của con người hôm nav. Một cách tương tự có nhiều cách thế chiếu rọi ảnh hưởng thiêng liêng hoặc làm tông đồ trong phạm vi văn hóa, xã hội, giáo dục, chức nghiệp v.v...không thể lấy Giáo xứ làm trung tâm hoặc khởi điểm. Nhưng Giáo xứ hôm nay đang sống một giai đoạn mới đầy hứa hẹn. Đức Phaolô VI, khi mới lên ngôi Giáo Hoàng đã tuyên bố với hàng giáo sĩ Rôma: "Ta tin tưởng là cơ cấu cổ kính của giáo xứ có một sứ mệnh khán thiết rất hơp thời; chính Giáo xứ là cộng đồng tiên khởi của Dân Chúa, chính giáo xứ phải khai trương đời sống phụng vụ và tập hợp Dân Chúa trong việc cử hành phụng vụ; giáo xứ có bổn phận phải bảo tồn và nung nấu đức tin của đoàn lũ dân chúng hôm nay; giáo xứ còn là trường dạy dỗ giáo lý Cứu Rỗi của Đức Kitô; nơi tích cực thực thi các công tác bác ái huynh đệ".(98)
Các Nghị Phụ đã để tâm nghiên cứu thực trạng hiện tại của nhiều giáo xứ và đã yêu cầu các giáo xứ này phải canh tân rộng rãi: "Nhiều giáo xứ ở thành thị cũng như tại các xứ truyền giáo, đã không thể sinh hoạt một cách kết qủa vì thiếu phưưng tiện vật chất hay thiếu các vị thừa hành có chức Thánh, hoặc vì điều kiện sinh sống của một số giáo dân (chắng hạn các người phải lưu đày hay di dân). Để cho các giáo xứ này trở thành những cộng đồng thật sự giáo quyền địa phương cần:
a) Giúp đỡ để thích nghi cơ cấu giáo xứ một cách uyển chuyển như Giáo Luật cho phép, nhất là để cho các giáo dân tham gia vào trọng trách mục vụ.
b) Giúp đỡ các cộng đồng cơ bản cũng gọi là cộng đồng sống, trong đó người tín hữu có thể truyền thông cho nhau Lời Chúa cũng như yêu thương, giúp đỡ nhau. Các cộng đồng này diễn tả trung thực sự hiệp thông trong Giáo Hội và những trung tầm truyền bá Phúc âm trong sự hiệp thông với các vị chủ chăn." (99) Để canh tân các giáo xứ và để các giáo xứ sinh hoạt có kết qủa, phải tạo nên những hình thức hơp tác, ngay cả trong phạm vi thể chế giữa các giáo xứ trong một địa hạt.
Hoạt động tông đồ trong Giáo xứ
27. Giờ đầy chúng ta hãy nhìn rõ sự hiệp thông và sự tham dự của các tín hữu giáo dân vào sinh hoạt của giáo xứ. Ở đây cũng nên lưu ý các tín hữu giáo dân nam cũng như nữ, một lời nói rất xác thực đầy ý nghĩa và đầy khích lệ của Công Đồng: "Trong các cộng đồng trong Giáo Hội, hoạt động của họ cần thiết đến nỗi không có thì việc tông đồ của các vị chủ chăn lắm lúc không đạt được kết qủa mỹ mãn. (100)
Đây là lời xác nhận căn bản phải được hiểu theo ý nghĩa của "khoa giáo-hội-học hiệp thông". Các thừa-tác-vụ cũng như các đoàn sủng, dù khác biệt nhưng bổ túc cho nhau, nên tất cả đêu cần thiết cho sự trưởng thành của Giáo Hội .
Các tín hữu giáo dân mỗi ngày phải xác tín hơn ý nghĩạ dấn thân tông đồ của mình trong giáo xứ. Chính Công Đồng đã có ý nhấn mạnh điều này: "Giáo xứ là một hình thức tông đồ cộng đồng kiểu mẫu, vì đó là nơi quy tụ đủ mọi hạng người thành một cộng đoàn và đưa họ vào tinh thần đại đồng của Giáo Hội. Giáo dân nên tập thói quen cộng tác chặt chẽ với các linh mục của mình để hoạt động trong giáo xứ. Họ cũng nên có thói quen trình bày với cộng đoàn giáo hội những vấn đê riêng của mình hay của cả thế giới hoặc những vấn đề liên quan tới phần rỗi mọi người, để cùng nhau góp ý kiến nghiên cứu và giải quyết. Họ cũng phải tuỳ sức mà cố gắng đóng góp vào mọi công cuộc tông đồ và truyền giáo của gia đình giáo hội địa phương mình." (101)
Công Đồng nói đến việc "cùng nhau góp ý kiến" để cứu xét và giải quyết các vấn đề mục vụ, được các Nghị Phụ nghiên cứu và giải thích rộng rãi theo một cơ cầú tương xứng gọi là Hôi Đồng Muc Vụ Giáo Xứ. (102)
Trong hiện tình, các tín hữu giáo dân có thể và phải nổ lực làm sao cho việc hiệp thông giáo hội được nẩy nở trong lòng giáo xứ có một nghị lực truỳên giáo cho những người chưa tin, và cho những ai đã tin mà lại bê tha trong đời sống đạo của mình. Nếu giáo xứ là Giáo Hội ở trong một phạm vi địa dư, thì Giáo Hội sống và sinh hoạt trong lòng xã hội loài người và liên đới thâm sâu với các ước vọng và thảm kịch của nó. Nhiều khi trong nhiều môi trường sống, tình cảm xã hội bị giao động bởi vũ lực và làm cho con người mất hết phẩm giá. Con người bị lạc lỏng mất hết phương hướng, nhưng trong tâm hồn họ vẫn nuôi ước vọng được cảm nghiệm và tài bồi môl tương giao đầy tình huynh đệ, và đầy tình người. Ước vọng này, giáo xứ có thể làm thỏa mãn cho họ, nếu các tín hữu giáo dân hăng hái tham gia để họ đạo trung thành ơn gọi và sứ mệnh nguyên thủy của mình, đó là trở thành "nơi " hiệp thông của những kẻ có lòng tin và đồng thời trở nên "dấu chỉ" và là "phương thể" của ơn gọi mọi người sống hiệp thông. Tóm lại, giáo xứ là căn nhà mở rộng đón tiêp mọi người và phục vụ mọi người, hay như Đức Gioan XXIII thường nói là "giếng nước của thôn xóm" để mọi người đến giải khát.
HÌNH THỨC THAM DỰ CỦA NGƯỜl TÍN HỮU GlÁO DÂN VÀO ĐỜl SÔNG GlÁO HỘl.
28. Các tín hữu giáo dân hợp với các linh mục, với tu sĩ nam nứ, làm thành Dân Thiên Chúa duy nhất, một Thân Thể của Đức Kitô.
Là "phần thân thể" của Giáo Hội, nhưng mỗi Kitô hữu vẫn là "một hữu thể cá biệt không thay thế được". Ngược lại, điều này cho chúng ta thấy ý nghĩa sâu xa của tính chất duy nhất của mỗi người, vì chính nó là nguồn mạch của sự phong phú muôn mặt của toàn thể Giáo Hội. Vì thế mà Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô đã gọi mỗi người trong chúng ta bằng tên riêng của họ, không lẫn lộn người này với người kia. Lời mời gọi của Chúa: "Các con cũng hãy vào làm việc trong vườn nho của Ta" , lời mời gọi này dành riêng cho từng người một có nghĩa là: con, chính con, con hãy vào làm việc trong vườn nho của Thày."
Như thế, mỗi người trong chúng ta, mặc dù vẫn giữ đặc tính duy nhất của mình, vẫn được trọng dụng để làm cho sự hiệp thông Giáo Hội tăng trưởng bằng sinh hoạt và sự hiện diện thực tế của mình, cũng như mỗi người chúng ta nhận lãnh và đồng hóa theo cách thế của mình, cho sự phong phú của toàn thể Giáo Hội . Đó chính là ý nghĩa "Các Thánh Thông Công" mà chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Ích lợi của mọi người là ích lợi của mỗi người, và ích lợi của mỗi người là ích lợì của mọi người. Thánh Grêgôriô Cả nói: "Trong Giáo Hội, mỗi người lo nâng đỡ từng người.(103)
HìNH THỨC THAM GlA CÁ NHÂN CỦA MỖl NGƯỜl
Điều tuyệt đối cần thiết là mỗi tín hữu giáo dân phải ý thức sâu xa mình là "phần thân thể của giáo hội " và nhiệm vụ đặc biệt được giao phó cho mình, một nhiệm vụ không thể thay thế được cũng không thể nhờ ai làm thay, một nhiệm vụ chính mình phải chu toàn vì lợi ích chung của mọi người. Theo cái nhìn này chúng ta mới hiểu được hết ý nghĩa của Công Đồng khi quả quyết rằng mỗi người bắt buộc phải làm việc tông đồ: "việc tông đồ mà mỗl người phải thực hiện bắt nguồn từ mạch sống phong phú đích thực Kitô giáo" (Jn.4:14). Là căn bản và điều kiện của mọi hoạt động tông đồ giáo dân, kể cả việc tông đồ giáo dân tập thể và không có gì có thể thay thế việc đó được! Việc tông đồ cá nhân này rất hiệu quả ở bất cứ nơi nào và thời đại nào. Hơn nữa, trong một số hoàn cảnh, chỉ có hoạt động tông đồ này mới thích hơp và mới có thể thực hiện được. Mỗi người giáo dân, dù thuộc thành phần nào đi nữa, dù không có cơ hội hay khả năng để cộng tác trong các hội đoàn, đều được kêu gọi, và hơn nữa phải làm việc cá nhân. (104)
Việc tông đồ cá nhân chứa đựng nhiều kho tàng phong phú cần được khai thác, để người giáo dân thấy mà thêm lòng hăng say trong việc truyền giáo. Nhờ hình thức làm tông đồ này mà ánh sáng Phúc âm được tỏa sáng trên các khu vực và môi trường sống, trong đó cuộc sống hằng ngày của giáo dân phải tiếp xúc. Đây là một sự chiếu giãi ánh sáng Phúc âm trường kỳ liên lỉ, vì cuộc sống cá nhân phải tương đồng với Đức Tin. Đây cũng là một sự chiếu giãi Phúc âm quyết liệt thâm sâu. Bởi vì người tín hữu giáo dân cũng chung một điều kiện sinh sống, cùng chung một việc làm, cùng chia sẻ những khó khãn, những niềm hy vọng của anh em mình, họ có thể cảm kích tâm hồn người bên cạnh, các bạn hữu, các đồng nghiệp, và mở rộng cho họ thấy một chân trời toàn diện, ý nghĩa trọn hảo của cuộc sống. Đó là sự hiệp thông với Thiên Chúa và với mọi người.
Hình thức tham gia tập thể.
29. Sự hiệp thông Giáo Hội đã sẵn có và đang linh động trong sinh hoạt của mỗi người, lại mang thêm một ý nghĩa riêng biệt khi các tín hữu giáo dân hơp tác sinh hoạt chung, nghĩa là khi họ đoàn kết để hoạt động và tham gia với một tinh thần trách nhiệm vào đời sống và sử mệnh của Giáo Hội .
Trong thời gían sau này, người ta thấy có rất nhiều hiệp hội giáo dân ra đời và hoạt động rất hăng hái đắc lực. Trong lịch sử Giáo Hội các hiệp hội tín hữu đã phát sinh và tiếp nối liên tục cho đến ngày hôm nay như các hội đoàn, các Dòng Ba, các cộng đồng huynh đệ. Nhưng trong thời đại ngày nay hiện tượng này đã bùng phát một cách đặc biệt, đây đó phát sinh và lan tràn nhiều hình thức tập thể như: hiệp hội, nhóm, cộng đồng, phong trào. Nói được đây là một mùa gặt mới của các hội đoàn tín hữu giáo dân. Bởí vì "bên cạnh các nhóm cổ truyền, mọc lên những phong trào và nhóm mới có khi bắt nguồn từ nhóm cổ truyền, nhưng lại có bộ mặt và mục đích riêng. Nguồn mạch và ơn Chúa Thánh Thần càng phong phú và muôn mặt trong cơ cấu Giáo Hội, thì khả năng sáng tạo và tâm hồn đại độ của người giáo dân càng lớn lao." (105)
Các nhóm giáo dân thường có vẻ khác biệt nhau trong nhiều khía cạnh, như hình thức bên ngoài, cách sinh hoạt, phương pháp giáo dục và môi trường hoạt động. Nhưng tất cả đều quy về một mục đích chung đã thúc đẩy họ, là tham gia một cách có trách nhiệm vào sứ mệnh của Gíáo Hội, để đem Phúc âm Chúa Kitô đến như là nguồn hy vọng cho con ngườì, một sinh lực canh tân cho xã hội.
Tín hữu giáo dân qui tụ thành đoàn thể vì lý do thiêng liêng hay tóng đồ, là do nhiều nguồn mạch thúc đẩy và cũng để đáp ứng lại nhiều nhu cầu đòi hỏi. Thực ra, bản tính xã hội của con người và vì con người muốn đạt được hiệu qủa sâu rộng và quyết liệt trong hành động của mình. Trong thực tế, hiệu lực văn hóa, ngùôn mạch và khích lệ, cũng là kết qủa và là dấu hiệu biến đổi xã hội đã không thể đạt được do công việc của từng cá nhân, mà nhờ vào hoạt động của một "chủ thể xã hộí" nghĩa là của một nhóm, một cộng đoàn, một hiệp hội, một phong trào, đặc biệt trong một xã hội muôn mặt và phân hóa như trong nhiều nước trên thế giới ngày nay, và trước vấn đề đã trở thành quá phức tạp và khó khăn. Nhất là trong một thế giới đã bị tục hóa, nhiều người thấy rằng những sinh hoạt hội đoàn có thể giúp họ sống đời sống đạo trung thành với các đòi hỏi Phúc âm vàdấn thân vào việc truyền giáo tông đồ một cách đắc lực.
Ngoài các lý do trên, lý do sâu xa đòi hỏi các tín hữu giáo dân phải tụ tập nhau thành nhóm, chính là lý do thần học xây dựng trên khoa giáo-hội-học như Công Đồng Vaticanô II đã công nhán. Công Đồng nhận thầý trong việc tông đồ tập thể là "một dấu hiệu của sự hiệp thông và tính cách hơp nhất của Giáo Hội trong Chúa Kitô." (106)
Đây là "một dấu hiệư" phải biểu lộ trong môí tương giao "hiệp thông" đôí nội và đôi ngoại của các hội đoàn hay đoàn thể, nằm trong khuôn khổ rộng rãi của Cộng Đồng Kitô hữu. Chính do khoa giáo-hội-học mà người tín hứu giáo dân có "quyền" qui tụ thành đoàn thể. Cũng vì lý do này mà cần phải có "tiêu chuẩn" phân biệt hình thức hiệp hội nào chân chính, đích thực thuộc về Giáo Hội.
Trước tiên phải công nhán là người tín hứu giáo dân có quyền tự do thành lập hội đoàn trong Giáo Hội. Quyền tự do này là một quyền lợi thật, nó không phải chỉ là một hình thức "nhân nhượng" của giáo quyền mà là hậu qủa đương nhiên của phép Rửa Tội. Là một bí tích, Phép Rửa Tội kêu gọi các tín hữu giáo dân phải tích cực tham gia vào sự hiệp thông và sứ mệnh của Giáo Hội. Công Đồng đã nói rõ ràng về điều này: "Giáo dân có quyền thành lập các hội đoàn; điều khiển và ghi tên vào các đoàn thể đã có sẵn. miễn là phải giữ môí liên lạc cần thiết với giáo quyền".(107) Giáo Luật lại qủa quyết: "Các tín hữu có quyền tự do thiết lập và đlêu khiển các hội đoàn nhằm mục đích từ thiện hay đạo đức, hoặc nhằm cổ võ ơn gọi của người Kitô trong thế giới; họ cũng có quyền nhóm họp để cùng theo đuổi đạt tới các mục đích đó ". (108)
Đây là một quyền tự do được công nhận và bảo đảm do giáo quyền, nhưng phải luôn luôn thi hành trong sự hiệp thông với Giáo Hội. Do đó, quyền lợi của người tín hữu giáo dân được tự do hội họp là một quyền lợi nôí kết mật thiết với đời sống chung và sứ mệnh chính của Giáo Hội.
Tiêu chuẩn để nhìn nhận tính cách Giáo Hội đối với các Hiệp Hội giáo dân
30. Cần phải có các tiêu chuẩn rõ ràng và chính xác để phân biệt và nhìn nhận các hội đoàn giáo dân, có thể gọi là "tiêu chuẩn có tính cách giáo hội". Đó không phải là để hạn chế quyền tự do hiệp hội mà chính là để cho các đoàn thể ấy thực hiện được sự hiệp thông và sứ mệnh của Giáo Hội. Những tiêu chuẩn nền tảng để phân biệt các Hội đoàn giáo dân trong Giáo Hội là những tiêu chuẩn sau đây:
*** Ơn gọi nên Thánh của người Kitô-hữu, đó là mục đích tiên quyết. Điều này phải được biểu lô trong ơn Chúa Thánh Thần phát sinh nơi người tín hữu (109) để họ lớn lên cho đên tuổi trưởng thành sung mãn của đời sống đạo và đến mức trọn lành của đức ái.(110)
Vì thế tất cả các hội đoàn công giáo được kêu gọi để ngày càng trở nên phương tiện thánh hóa trong Giáo Hội. Một phương tiện giúp đỡ và khích lệ "sự hiệp nhất thâm sâu giữa cuộc sống thường nhật với Đức Tin của các hội viên."
*** Sự dấn thân tuyên xưng đức tin công giáo trong việc nhận lãnh và rao truyền chân lý về Chúa Kitô, về Giáo Hội, và về con người, đúng theo giáo huấn của Giáo Hội là Thầy dạy chân chính. Tất cả các hiệp hội của người tín hữu giáo dân phải trở nên "một nơi rao truyền và thông đạt Đức Tin và giáo dục sống Đức Tin này trọn vẹn." (111)
*** Phải chứng minh một đời sống hiệp nhất kiên cường vưng chắc, trong tình nghĩa phụ tử đối với Đức Giáo Hoàng, trung tâm muôn thuở và hữu hình của sự hiệp nhất trong Giáo Hội hoàn vũ (112) đối với Giám Mục "Nguyên lý hiển hiện và nền móng của sự hơp nhất" (113) của Giáo Hội địa phương và "tất cả các hình thức tông đồ khác của Giáo Hội" (114)
Sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng và với Giám Mục phải tỏ ra bằng cách sẵn sàng, ngay thẳng nhận lãnh các giáo dân tín lý và chỉ giáo mục vụ của các Ngài. Hiệp thông với Giáo Hội còn đòi hỏi phải chấp nhận hình thức đa diện hợp pháp của các tín hữu giáo dân trong Giáo Hội và đồng thời sẵn sàng hơp tác chung với nhau.
*** Thỏa thuận và cộng tác để thực hiện sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội, là "rao truyền Phúc âm và Thánh hoá nhân loại, và đào tạo cho con người một lương tâm Công Giáo đích thực để họ có thể đem tinh thần Phúc âm thấm nhuần mọi cộng đồng cũng như mọi lãnh vực của đời sống". (115)
Theo viễn tượng này, tất cả mọi hình thức hiệp hội của người tín hữu giáo dân phải có một tinh thần truyền giáo hăng say để trở thành dụng cụ ngày càng sinh động cho việc truyền bá Phúc âm.
*** Dấn thân hiện diện trong xã hội loài người để phục vụ nhân phẩm toàn diện con người, đúng theo học thuyết xã hội của Giáo Hội.
Như thế, các hội đoàn giáo dần phải trở nên những trào lưu mạnh mẽ thu hút nhỉều người và lỉên đới để tạo nên những điều kìẹn công bình và huynh đệ hơn cho đời sống xã hội.
Những tiêu chuẩn nền tảng vưa trình bày trên đã được chứng mình rõ ràng trong nhứng kết qủa cụ thể tốt đẹp trong đời sống và hoạt động của các hình thức hiệp hội, chẳng hạn việc ưa thích cầu nguyện, suy ngắm, đời sống phụng vu và bí tích; việc tổ chức để giúp đỡ thanh thíêu niên ý thức ơn gọi hôn nhân, ơn goỉ linh mục, ơn gọỉ đơi sống tận híên, sẵn sàng tham gia vào các chương trình và hoạt động của Giáo Hộỉ trên bình dỉện quốc gia và quổc tế; dần thân vao viêc day giáo lý và trao đổi khả năng sư phạm để đào tạo ngươỉ Kitô hữu; tìm cách thực hiện sự có mặt của ngườỉ Kitô hữu trong các lãnh vưc xã hội; thanh lập và làm linh động các cống tác từ thiện, văn hóa và thiêng liêng tạo tinh thần vô vị lợi và nghèo khó Phúc âm để thực hiện lòng bác ái đại độ với mọi người, giúp kẻ đa chíu phép Rửa Tội nhưng lại "bê tha" trở lại đơi sống Kitô hưu.
Phận sự của vị Chủ Chăn để thực hiện vỉệc hiệp thông
31. Trong trường hợp các hiệp hội gặp phải khó khăn và có nhiều hình thức mới xuất hiện, các vi Chủ Chăn trong Giáo Hôi phải dung quyền bính của mình, vì lợi ích của Giáo Hội, và cũng vì lợi ích của chính các hội đoàn giáo dân, các Ngài phải phán đoán, phân bỉệt để hướng dần nhất là khích lệ cho các hiệp hội ấy trưởng thành trong sự hiệp thông và trong sứ mệnh của Giáo Hộỉ.
Điều thuận lợi nên làm là các hội đoàn và các phong trào mới khi đã phổ biến rộng rãi trong nước và ngpài nước phải được Giáo quyền có thầm quyền chính thức công nhận. Chính Công Đồng đã qủa quyết về điểm này như sau: "Có nhiều hình thức liên hệ giữa việc tông đồ giáo dân với hàng Giáo phẩm, tuỳ theo hình thức và mục đích của mỗi hoạt động... Một số tổ chức tông đồ giáo dân, dưới hình thức này hay hình thức khác, đã được Giáo quyền công khai chấp nhận. Ngoài ra vì lợi ích chung của Giáo Hội, Giáo quyền có thể lựa chọn và cổ võ cách đặt biệt một vài tổ chức trong số những tổ chức hay hiệp hội tông đồ sẵn có, trực tiếp nhằm mục đích thiêng hêng, và Giáo quyền cũng nhận trách nhiệm đặc biệt đối với những tổ chức ấy" (116)
Trong những hình thức tông đồ giáo dân có mối liên hệ đặc biệt với Hàng Giáo phẩm, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã kê rõ các phong trào hay hội đoàn Công Giáo Tiến Hành, trong đó "người giáo dân tự nguyện tổ chức có cơ cấu và cố định theo ơn soi sáng của Chtía Thánh Thần, trong sự hiệp thông với các Giám Mục và linh mục để có thể hoạt động một cách hăng say và trung thành theo đường hướng ơn gọi của riêng mình, để mở rộng Cộng Đồng Kitô hữu, và để thực hiện các chương trình mục vụ, cũng như để tất cả các môi trường sống của con người được thấm nhuần tinh thần Phúc âm." (117)
Hội Đồng Giáo Hoàng phụ trách giáo dân có bổn phận phải soạn thảo một danh sách các hiệp hội được Tòa Thánh chính thức chầp nhận và phôí hợp với Văn Phòng Hiệp Nhất Kitô-hữu, để định rõ điều kiện chấp nhận hay không thể chấp nhận cho một hiệp-hội-liên-tôn gồm những người Công Giáo và một thiểu số không Công Giáo. (118)
Tất cả chúng ta, Chủ Chăn cũng như tín hữu phải tìm mọi cách để duy trì giữa các đoàn thể giáo dân mối giây huynh đệ để mọi người mến chuộng, yêu thương và hơp tác với nhau. Chỉ có cách này thì kho tàng ơn Chúa ban cho chúng ta là các ân huệ, các đoàn sủng, mởi có thể đóng góp một cách dồi dào và trật tự vào việc xây dựng ngôi nhà chung của chúng ta: "Để xây dựng chắc chắn ngôi nhà chung, chúng ta phải khưởc từ óc chia rẽ bè phái; ngược lại chúng ta phải tôn trọng và sẵn sàng cộng tác với nhau bằng môt tâm hồn nhẫn nại, sáng suốt và sẵn sàng hy sinh". (119)
Một lần nứa chúng ta hãy đọc lại lời của Chúa Giêsu: "Tá là Cây Nho chúng con là cành" (Jn. 15.5), để cảm tạ Chúa ban cho chúng ta ơn hiệp thông trong Giáo Hội; đó là tia sáng chiếu vào thời gỉan, tia sáng của sự thông hiệp tình yêu đời đời không thể diễn tả được của Thiên Chúa Ba Ngôi. Y thức được ơn Chúa thì phải ý thức trách nhiệm: Bởi vì đó là một ơn, như nén bạc trong Phúc âm, nó đòi hỏi phải biến thành sự sống thông hiệp ngày mỗi lớn lên.
Nhận lãnh trách nhiệm về ơn thông hiệp, trước tiên có nghĩa là phấn đấu để thắng chia rẽ và đôí lập; chính hai cám dỗ này đe dọa sự sống và sự dấn thân làm tông đồ của các người Kitô-hữu. Thánh Phaolô đã đau đớn kêu lên: "Ta nghe mỗi người trong anh em nói: Tôi thuộc về Phaolô, và tôi thuộc về Apolló, còn tôi thuộc về Cepha và tôi thuộc về Chúa Kitô; thế thì Chúa Kitô bị chia năm xẻ bảy sao?" (Cor. 1:12-13). Lời này vẫn còn vang vọng như một trách móc trước cảnh "nhiệm thể Chúa Kitô bị xâu xé." Ngược lại chúng ta hãy lắng nghe dư âm của lời mời gọi cũng của Thánh Phaolô sau đây: "Thưa anh em, nhân danh Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin toàn thể anh em hãy nhất tâm đừng chia rẽ, nhưng hãy hợp nhất và đoàn kết với nhau trong tinh thần, và trong tư tưởng" (1 Cor.1:10)
Như thế sự sống thông hiệp của Giáo Hội trở nên một dấu chỉ cho thế giới và là một hấp lực thu hút mọi người tới niềm tin vào Chúa Kitô: "Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con Ở trong Cha, xin cho họ trở thành một trong chúng ta để thế gian tin rằng Cha đã sai Con" (Jn. 17.21).
Như thế sự hiệp thông hướng về truyền giáo và chính sự hiệp thông là truyền giáo.
Chương III
THẦY ĐÃ SAI CHÚNG CON RA ĐI VÀ MANG LẠI KẾT QUẢ
Tinh thần đồng trách nhiệm của Tín hữu giáo dân trong Giáo hội Truyền giáo
Sự Thông Hiệp Truyền Giáo
32. Chúng ta hãy lấy lại hình ảnh Thánh Kinh của cây nho và cành nho. Nó giúp chúng ta nhận xét về sự phong phú và sức sống một cách dễ dàng tự nhiên. Các cành cây dính liền với thân cây và sống do nhựa sống của thân cây, dĩ nhiên phải sinh hoa kết quả: "Ta là cây nho, chúng con là cành. Cành nào ở trong Ta và Ta Ở trong nó, nó sẽ trổ sinh nhiều hoa trái" (Jn. 15.5). Trổ sinh hoa trái là một đòi hỏi căn bản của đời sống Kitô hữu trong Giáo Hội. Ai không trổ sinh hoa trái thì không Ở trong sự hiệp thông: "Bất cứ cành nào ở trong Ta mà không trổ sinh hoa trái, (Cha Ta) sế chặt nó đi" (Jn. 15.2).
Thông hiệp với Chúa Giêsu, nguồn hiệp thông giữa các Kitô-hũu với nhau, là một điều kiện không thể không có để trổ sinh hoa trái: "Ngoài Ta, chúng con không thể làm được gì,, (Jn. 15.5). Và sự hiệp thông với tha nhân là hoa trái đẹp nhất của cành nho. Đó là ơn của Đức Kitô và của Thánh Thần Ngài.
Sự thông hiệp phát sinh hơp nhất và bản chất nó là hiệp thông truyền giáo. Vì Chúa Giẽsu đã nói với môn đệ Ngài rằng: "Không phải các con chọn Thầy, chính Thầy đã tuyển chọn các con và sai các con đi mang lại kêt quả và để kết qủa âý tồn tại" (Jn.15.16).
Sự hiệp thông và việc truyền giáo gắn liền với nhau, xâm nhập và quấn quít nhau và đã trở nên như nguồn mạch, và là hoa trái của việc truyền giáo. Hiệp thông là truyền giáo, và truyền giáo có mục đích thể hiện sự hiệp thông. Chính một Chúa Thánh Thần kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội và sai Giáo Hội đi rao giảng Phúc âm "khắp trên mặt đất" (Acts. 1:8). Còn Giáo Hội, Giáo Hội biết sự hiệp thông là ơn Chúa, nó có sứ mệnh đôí với mọi người. Như thế Giáo Hội cam thấy mắc nợ đã nhận lãnh từ Chúa Thánh Thần, Đấng đã ban tràn đức ái của Chúa Cha trong lòng các kẻ tin tưởng, là sức mạnh nôí kết bên trong và cũng là sức mạnh bành trướng bên ngoài. Sứ mệnh của Giáo Hội nằm ngay trong bản tính của mình như Chúa Kitô đã muốn: đó là sứ mệnh phải trở nên "dấu chỉ và phương thế... làm cho toàn thể nhân loại được hợp nhất." (120) Sứ mệnh này có mục đích làm cho mọi người biết và sống sự hiệp thông "mới" ; sự hiệp thông đí vào lịch sử thế giới nhờ con Thiên Chúa làm người. Chính theo nghĩa này, Thánh Gioan Thánh Sử đã minh định một cách quyết liệt cứu cánh "hạnh phúc" mà sứ mệnh Giáo Hội phải đạt tới: "Điều mà chúng tôi đã chiêm ngường, đã nghe thấy, chúng tôi đã loan truyền cho anh em, để anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi. Và chúng tôi, chúng tôi được hiệp thông với Chúa Cha và với Con Ngài là Đức Giêsu Kitô" (1 Jn. 1:3).
Cũng trong sứ mệnh của Giáo Hội, Chúa đã giao phó cho người tín hữu giáo dân, trong sự thông hiệp tất cả các thành phần của Dân Chúa, một phần trách nhiệm rất lớn. Các Nghị Phụ Công Đồng Vaticanô II đã ý thức rõ ràng về việc này: "Các chủ chăn biết rõ giáo dân giúp ích rất nhiều cho toàn thể Giáo Hội. Các Ngài biết rằng Chúa Kitô không đặt các Ngài lên để một mình lãnh lấy tất cả sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội đôí với thế giới, nhưng nhiệm vụ cao cả của các Ngài là hướng dẫn tín hữu và nhận biết các phận sự và ơn sủng riêng của họ, để mọi người cùng góp phần vào công cuộc chung, tùy theo cách thức của họ trong sự hơp nhất ". (121) Tiêp theo trong Thượng Hội Đồng Giám Mục, sự xác tín của các Ngài về vấn đề này được nhắc lại một cách rõ ràng và mạnh mẽ hơn nữa.
RAO TRUYỀN PHÚC ÂM
33. Các tín hữu giáo dân, vì thuộc thành phần của Giáo Hội nên được mời gọi và nhận lãnh sứ mệnh rao truyền Phúc âm: Họ đã được chuẩn bị để dấn thân chu toàn hoạt động này bằng các Bí Tích của đời sống Kitô hữu và ơn Chúa Thánh Thần.
Một văn bản rõ ràng và súc tích của Công Đồng Vaticanô II nói: "Giáo dân góp phần tích cực vào đời sống và hoạt động của Giáo Hội, nhờ được tham dự vào chức vụ của Chúa Kitô là tư tế, tiên tri và là vua... Được nuôi dưỡng nhờ tham dự vào đời sống phụng vụ của cộng đoàn, chính họ nhiệt thành góp phần vào những hoạt động tông đồ của chính cộng đoàn đó; họ đem những người có lẽ đang xa lạc trở về với Giáo Hội. Họ cộng tác đắc lực vào việc rao truyền Lời Chúa, nhất là bằng việc dạy giáo lý. Họ đem khả năng của mình làm cho việc coi sóc các hnh hồn, và cả việc quản trị tài sản của Gìáo Hội sinh hiệu qủa hơn".(122)
Tất cả sứ mệnh của Giáo Hội quy tụ và biểu dương trong việc rao truyền Phúc âm. Con đường lịch sứ của Giáo Hội được ơn Chúa che chở và đi theo mệnh lệnh của Đức Giêsu Kitô: "Chúng con hãy đi khắp thế giới, rao giảng Tin Mừng cho mọi người". (Mk.16. 15) "Và Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thê" (Mt. 28.20). Đức Phaolô VI lại viết: "Rao truyền Phúc âm, đó là ân sủng và là lời mời gọi riêng của Giáo Hội, là bản tính sâu xa của Giáo Hội." (123)
Nhờ rao giảng Phúc âm, Giáo Hội được xây dựng và trở thành cộng đồng Đức Tin, nói rõ hơn là trở thành cộng đồng của một Đức tin bằng Lời Chúa, một Đức Tin cử hành trong các Bí Tích và sống trong Đức ái là linh hồn của đời sống luân lý Kitô-hữu. Vì "tin mừng" thức tỉnh con người trong cuộc sống, sự ăn năn trở lại và kết hơp với Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế và Chúa tể; chuẩn bị cho con người nhận lãnh phép Rửa Tội, phép Thánh Thể và trở nên vững chắc khi quyết tâm thể hiện một đời sống mới theo ơn soi dẫn của Chúa Thánh Thần.
Mệnh lệnh của Chúa "Chúng con hãy đi và rao giảng Phúc âm", chắc chắn vẫn luôn giữ giá trị linh động và cần phải được thi hành. Tình thế hiện tại của thế giới cũng như của nhiều địa hạt trong Giáo Hội, càng đòi hỏi lời Đức Kitô phải được tuần theo một cách sẵn sàng, mau chóng, và đại độ Mỗi người được gọi nêng và không ai được quyền từ chối trả lời : "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc âm" (1 Cor. 9:16).
Đã đến giờ phải đổi mới việc rao giảng Phúc âm
34. Có những nước, những quốc gia xưa kia hoàn toàn Công giáo và đời sống Kitô hữu rất nhiệt thành, từng nẩy sinh những cộng đồng Đức Tin sống động và linh hoạt; nhưng ngày nay lại bị thử thách trầm trọng và có khi lại bị biến đổi tận gốc rễ vì các học thuyết vô thần, tình trạng tục hóa và vô đạo. Nhất là những nước, những quốc gia được gọi là Nhất Thế Giới, nơi đó con người chỉ biết hưởng thụ và chạy đua tiêu thụ, mặc dầu bên cạnh họ còn có những tình trạng nghèo đói và khốn cùng ghê gớm; họ sống một đời sống "như thể không có Thiên Chúa". Trước tình trạng thờ ơ đôi với tôn giáo và coi rẻ Thiên Chúa một cách trầm trọng của cuộc sống, còn đáng lo ngại và nguy hại hơn cả học thuyết vô thần. Đức Tin Công Giáo mặc dầu còn được giứ lại trong những nghi lễ cổ truyền, cũng đang từ từ bị loại bỏ khỏi những giờ phút rất nghiêm trọng của đời sống như lúc sinh sản, khi gặp đau khổ, và giờ phút lìa đời. Do đó, có những vấn đề và những bí ẩn ghê gớm chưa giải đáp được và con người ngày nay cảm thấy thất vọng ê chề, hoặc có khi bị cám dỗ tiêu diệt sự sống đã tạo nên.
Ngược lại, tại nhiều nước, nhiều quốc gia tuy còn bảo tồn được truyền thống đạo đức sống động và tâm tình Công giáo, nhưng gia sản luân lý thiêng liêng ấy cũng đang bị nguy cơ biên dần vì nhiều ảnh hưởng xấu, nhất là ảnh hưởng phong trào tục hóa và các giáo phái đang lan tràn khắp nơi. Chỉ có cách đổi mới việc truyền bá Phúc âm mới bảo đảm được Đức Tin trưởng thành, sáng suốt và sâu xa, có khả năng làm cho những truyền thống ấy trở thành một sức mạnh tự do thật.
Chắc chắn rằng việc tái lập cho xã hội loài người một cơ cấu căn bản Công Giáo là việc làm cấp bách. Nhưng đìêu kiện tiên quyết, là phải tái lập cơ cấu căn bản của cộng đồng Giáo Hội đang sống trong các nước, các quốc gia ấy.
Ngày nay, người tín hữu giáo dân nhờ tham gia vào chức vụ rao giảng của Chúa Kitô, nên được dấn thân đầy đủ vào công việc này của Giáo Hội. Đặc biệt họ phải chứng tỏ cho mọi người biết là chỉ có Đức Tin mới có câu trả lời đáng giá cho các ván đề, cho niềm hy vọng do cuộc sống tạo nên cho mọi người và cho xã hội, một câu trả lời mà mọi người nhiều hay ít đang thoáng thấy xa xa và chờ đợi. Điều này có thể thực hiện được nếu người tín hữu giáo dân thắng vượt tình trạng chia rẽ giữa Phúc âm với đời sống, nghĩa là biết tạo nên trong các hoạt động thường ngày, trong gia đình, nơi sở làm, trong xã hội, sự hiệp nhất theo tinh thần Phúc âm và nhờ sức mạnh của Phúc âm để thực hiện.
Một lần nữa Ta lập lại với tất cả mọi người đang sống thời đại hôm nay, tiếng kêu cầu tha thiết khi Ta khai mạc đời phục vụ các linh hồn của Ta: "Các con đừng sợ, các con hãy mở, hãy mở rộng cửa cho Đức Kitô! Ngài là Đáng cứu độ quyền năng, các con hãy mở rộng cho Ngài biên giới quốc gia, các hệ thống kinh tế chính trị, các lãnh vực mênh mông của văn hóa, của văn minh, của phát triển. Các con đừng sợi Đức Kitô biết rõ "tất cả những gì đang ầp ủ trong lòng người". Chỉ có Ngài mới biết được mà thôi. Hôm nay, nhiều lần con người không biết được những gì họ đang mang trong mình, họ đang ấp ủ tận đáy lòng, trong thâm cung của linh hồn mình. Vì thế nên họ không rõ được ý nghĩa cuộc sống trần gian. Họ bị ám ảnh nghi ngờ rồi đâm ra thất vọng. Ta yêu cầu các con, Ta van nài các con với tất cả lòng khiêm nhượng và cậy trông, các con hãy cho phép Đức Kitô nói với các con. Chỉ có Ngài mới có lời ban sự sống. Phải, chỉ có Ngài mới có lời hằng sống." (124)
Mở rộng cửa cho Chúa Kitô, đón rước Ngài vào cuộc sống riêng tư của mình, làm như vậy con người không bị một điều gì đe dọa. Trái lại, đây là con đường độc lộ phải đi qua nếu chúng ta muốn nhìn nhận tất cả sự thực về con người và tôn vinh các giá trị của nó.
Người tín hữu giáo dân biết đem Phúc âm vào đời sống nghĩa vụ hằng ngày đó là chứng tá đẹp nhất và hữu hiệu nhất, để cho mọi người thấy rằng không phải sợ hãi, mà là tìm kiếm Đức Kitô, để bám chặt lấy Ngài, là yếu tố quyết định cho con người được sống và trưởng thành, và để tạo nên những mẫu sống phù hợp với phẩm giá con người.
Con người được Thiên Chúa yêu thương! Đó là điều rất đơn giản và cũng là rất táo bạo mà Giáo Hội phải loan truyền cho mọi người. Lời nói và đời sống của mỗi người Kitô hữu phải là dư âm của sứ điệp này: Thiên Chúa yêu thương con. Đức Kitô đã đến vì con, vì con mà Đức Kitô trở nên "Đường, Sự Thật và Sự Sống" (Jn. 14:6).
Việc rao giảng Phúc âm không phải chỉ cho từng người, mà cho toàn thể các dân tộc tùy theo tình trạng, cảnh vực và văn hóa riêng của họ. Mục đích là cố ý tạo nên sự thông hiệp Giáo Hội trưởng thành, nghĩa là sống Đức Tin, là theo sát con người của Chúa Kitô và Phúc âm của Ngài, là gặp gỡ và hiệp thông với Ngài nhờ các Bí Tích, là sống Bác ái và phục vụ. Đó là ý nghĩa nguyên thủy của Đức Tin.
Vai trò của tín hữu giáo dân là tạo nên những cộng đồng Giáo Hội, không phải chỉ bằng cách tích cực tham gia với tinh thần trách nhiệm vào đời sống cộng đồng, một việc chúng ta không thể thay thế được, mà còn bằng cách hăng say làm việc tông đồ cho nhứng người chưa có Đức Tin hoặc không sống theo Đức Tin đã nhán lãnh trong phép Rửa Tội.
Đối với các thế hệ trẻ, người tín hữu giáo dân còn phải đóng góp, một sự đóng góp quý giá cần thiết hơn bao giờ hết, là cố gắng dạy giáo lý cho họ. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã tỏ lòng biết ơn công việc của các người dạy giáo lý, nhìn nhận "vai trò của họ rất có giá trị trong việc làm cho các cộng đồng Giáo Hội thêm sức sống" (125) Các bậc phụ huynh Công Giáo nhờ phép Hôn Phối đã trở nên những người dạy giáo lý trước hết cho con cái không ai thay thế được. Nhưng tất cả chúng ta đồng thời cũng phải xác tín là mọi người đã chịu phép Rửa Tội đều có "quyền lợi" phải được dạy dỗ, được giáo dục, và được theo dõi trong Đức Tin và trong đời sống Công Giáo.
Chúng con hãy đi khắp thế giới
35. Trong khi nhận xét và kinh nghiệm tình trạng khẩn cấp thúc đẩy phải rao giảng Phúc âm theo một đường lôí mới, Giáo Hội không thể tránh né sứ mệnh thường trực của mình là đem Phúc âm đên cho từng triệu triệu ngườí cả nam lẫn nữ chưa nhận biết Chúa Kitô, Đâng Cứu Rỗi con người. Đó là công việc đặc biệt truyền giáo mà Đức Kitô đã trao phó và còn trao phó mỗi ngày cho Giáo Hội.
Công việc của các tín hữu giáo dân, mặc dầu luôn luôn đã đóng góp trong phạm vi này, nhưng ở giai đoạn này lại cần thiết và quý giá hơn. Thực ra, mệnh lệnh của Chúa "Chúng con hãy đi khắp thế giới" - vẫn có những giáo dân đại độ hưởng ứng; họ sẵn sàng từ bỏ nơi sinh sống của mình, bỏ công việc, bỏ làng xóm quê hương để lao mình vào các xứ truyền giáo, ít nữa trong một thời gian hạn định - cũng có những cặp vợ chồng Công Giáo theo gương ông bà Aquila và Priscilla xưa (Acts. 18, Rom. 16.3) đã nêu gương chứng nhân tình yêu say sưa đôí với Chúa Kitô và Giáo Hội bằng đời sống hy sinh trong các xứ truyền giáo. Ngoài ra còn có sự hiện diện truyền giáo đích thực khác do những người Kitô hữu vì nhiều lý do phải sống làm chứng Đức Tin trong các nước hay những nơi Giáo Hội chưa được thiết lập.
Nhưng ngày nay vấn đề truyền giáo của Giáo Hội đã trở nên quá rộng lớn và khẩn thiết, vì thế chỉ khi nào tất cả mọi thành phần Giáo Hội từng cá nhân hay từng nhóm đồng liên đới chịu trách nhiệm trong việc truyền giáo, mới có hy vọng đem lại kết qủa mỹ mãn.
Lời mời gọi của Công Đồng Vaticanô II kêu cầu các Giáo Hội địa phương vẫn còn nguyên giá trị: "Vì Giáo Hội địa phương có nhiệm vụ phản ảnh Giáo Hội hoàn vũ một cách hết sức hoàn hảo, nên phải thành thực nhận định mình cũng được sai tới những kẻ chưa tin Chúa Kitô" . (126)
Giáo Hội hôm nay phải tiến tới trong việc rao truyền Phúc âm, phải bước vào một giai đoạn lịch sử mới của tiềm thức truyền giáo. Trong một thế giới không còn khoảng cách và ngày càng trở nên nhỏ bé, các cộng đồng Giáo Hội càng phải hơp nhất với nhau và cùng nhau dấn thân trong cùng một sứ mệnh độc nhất là rao truyền và sống Phúc âm. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng tuyên bố. "Các Giáo Hội trẻ cần sức mạnh của các Giáo Hội trưởng thành, và đồng thời các Giáo Hội này cũng cần chứng tá và sự thúc đẩy của các Giáo Hội trẻ; như thế Giáo Hội này hưởng nhờ kho tàng của các Giáo Hội kia".(127)
Trong giai đoạn mới này, việc đào tạo hàng giáo sĩ địa phương cũng như đào tạo hàng giáo dân trưởng thành và có tinh thần trách nhiệm, đôí với các Giáo Hội trẻ, là môt yếu tố cơ bản và cần thiết cho việc thiết lập Giáo Hội. (128) Và như thế các cộng đồng đã nhận được Phúc âm lại rao truyền cho các nước khác trên thế giới để đáp lại sứ mệnh rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô và làm chứng nhân.
Các tín hữu giáo dân nhờ gương sáng và hoạt động của mình có thể cải thiện được những môí tương giao với các tín đồ thuộc các tôn giáo bạn như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã lưu ý: "Ngày nay Giáo Hội hoạt động khắp nơi giứa những người theo tôn giáo khác nhau... Tất cả các tín hữu, nhất là giáo dân đang sống giữa các dân tộc theo tôn giáo khác hoặc ở trong nước mình cư ngụ, các giáo dân này phải trở nên chứng nhân cho Chúa và Giáo Hội đôí với người dân bản xứ một cách thích nghi với hoàn cảnh sống riêng biệt. Việc đôí thoại giữa các tôn giáo rất quan trọng vì nhờ đó họ biết yêu thương và kính trọng nhau, hay ít nữa xóa bỏ xoa dịu các thiên kiến giữa các tín đồ các đạo, và cổ võ được sự hiệp nhất và tình bằng hứu giũa các dân tộc (129)
Muốn Phúc-âm-hóa các dân tộc, cần phải có các tông đồ. Muốn thế, tất cả chúng ta, bắt nguồn từ các gia đình công giáo, chúng ta phải ý thức trách nhiệm của chúng ta là tìm cách làm nẩy nở và chín mùi ơn kêu gọi, đặc biệt ơn thừa sai, bằng lời cầu nguyện, theo lời Chúa Giêsu dạy: "Lúa chín đầy đồng, thợ gặt lại ít. Chúng con hãy cầu xin Chủ Nhà sai thêm thợ gặt" (Mt. 9:37-38).
SỐNG PHÚC ÂM BẰNG CÁCH PHỤC VỤ CON NGUỜl VÀ XÃ HỘl
36. Giáo Hội vừa nhận lãnh vừa loan truyền Phúc âm trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần; như thế Giáo Hội trở nên một cộng đồng được phúc-âm-hóa, đồng thời phúc-âm-hóa kẻ khác, và trở nên đầy tớ của mọi người. Trong Giáo Hội các tín hữu giáo dân tham gia vào sứ mệnh phục vụ con người và xã hội. Cùng đích cao cả của Giáo Hội là Nước Thiên Chúa; Giáo Hội là "hạt giống và là khởi điểm của Nước Thiên Chúa trên mặt đất",(130) vì thế Giáo Hội hoàn toàn tận hiến để làm vinh danh Chúa Cha. Nhưng Nước Chúa là nguồn mạch giải phóng toàn diện và cứu độ của mọi người. Giáo Hội tiến bước với con người và sống với lịch sử con người trong một tình liên đới toàn diện và thân mật.
Giáo Hội đã nhận lãnh trọng trách biểu lộ cho thế giới Mầu Nhiệm Thiên Chúa sáng chói trong Đức Giêsu Kitô, thì đồng thời Giáo Hội cũng mặc khải con người cho con người, dạy họ biết ý nghĩa cuộc sống, và bày tỏ cho con người biết chân lý toàn diện và về vận mạng của Giáo Hội.(131) Theo viễn tượng này, vì có sứ mạng rao giảng Phúc âm, nên Giáo Hội được gọi để phục vụ con người. Việc phục vụ này bắt nguồn từ sự kiện lạ lùng và chấn động là "Con Thiên Chúa đã nhập thể và kết hợp với mọi người ". (132) Vì thế con người "là con đường thứ nhất Giáo Hội phải theo để hoàn thành sứ mệnh của mình: Là con đường căn bản thứ nhất của Giáo Hội, đã được Chúa Kitô vạch ra, con đường xuyên qua Mầu Nhiệm Nhập Thể Yà cứu chuộc." (133)
Theo ý nghĩa này, mà Công Đồng Vaticanô II đã đề cập đên nhiều lần trong nhiều văn kiện một cách rõ ràng và mạnh mẽ. Chúng ta hãy đọc lại bản văn đặc biệt ý nghĩa của Hiên Chế Vui Mừng và Hy Vọng: "Trong khi theo đuổi mục đích cứu rỗi cá biệt của mình, Giáo Hội không phải chỉ truyền thông sự sống Thiên Chúa cho con người, nhưng còn chiêú giãi ánh sáng đời sống ấy trên toàn thế giới. Giáo Hội làm công việc này trước hết bằng cách chữa trị và nâng cao phẩm giá nhân vị, củng cố tình đoàn kết xã hội nhân loạì, và thấm nhuần cho hoạt động thường nhật của con người một chiều hướng và một ý nghĩa sâu xa hơn. Như thế nhờ từng phần tử và tất cả cộng đoàn, Giáo Hội tin tưởng có thể đóng góp nhiều vào việc biên đổi gia đình nhân loại và lịch sử của nó để trở thành nhân đạo hơn". (134)
Trong việc đóng góp này cho gia đình nhân loại mà Giáo Hộì phải chịu trách nhiệm, các tín hữu giáo dân chiếm một chỗ đứng đặc biệt, lý do là "đặc tính trần thê" của họ bắt buộc họ dấn thân "đem đạo vào đời" theo cách thế cá biệt của họ mà không ai thay thế được.
Thăng tiến phẩm giá con người
37. Khám phá và giúp khám phá phẩm giá bất khả xâm phạm của mọi con người, đó là bổn phận chính yếu, là trung tâm căn bản có mãnh lực hiệp nhất mà Giáo Hội và con cái của Giáo Hội được kêu gọi để chu toàn đôí với gia đình nhân loại
Trong các thụ tạo trên mặt đất, chỉ có con người là "một nhân vị, một chủ thể hiểu biết và tự do", và vì thế nó là "trung tâm điểm và là cao điểm" của tất cả tạo vật khác sống trên mặt đất. (135)
Phẩm giá nhân vị là tài sản quý hóa nhất của con người, nhờ đó mà nó trổi vượt trên cả thế giới vật chất này. Lời của Chúa Giêsu phán: "Được lợi lãi cả thế gian mà phải mất linh hồn nào có ích chi?" (Mk. 8:36), hàm chứa một lời qủa quyết rõ ràng và đầy khích lệ. Giá trị con người không chủ tại nơi tài sản nó có, cho dù nó chiếm hữu trọn cả thế giới này, nhưng chủ tại nơi "bản chất" của nó. Của cải thế gian không đáng giá bằng của cải nhân vị vì nhân vị chính là của đáng quý.
Nếu chúng ta nhìn phẩm giá con người từ nguồn gốc và vận mạng của nó, chúng ta sẽ thấy nó rực rỡ sáng chói: Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và được Máu châu báu của Chúa Kitô Cứu Chuộc nên nó được kêu gọi trở thành "Những người con trong Đức Chúa Con " và trở nên đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần, và được hưởng sự sống dời đời thông hiệp hạnh phúc với Thiên Chúa. Vì lý do này nên mọi xúc phạm đến nhân phẩm con người đều bị báo oán trước mặt Thiên Chúa và là sự xúc phạm đên Đấng Tạo Hoá đã dựng nên con người.
Nhờ có nhân phẩm, con người luôn luôn tự nó là một giá trị cho chính nó, và nó phải được nhìn nhận và đôí xử với giá trị ấy, ngược lại, nó không thể bị nhìn nhận và đôí xử như một vật để xử dụng, một phương tíện, hay một đồ vật
Chính nhân phẩm con người là nền tảng của sư bình đẳng với nhau. Bởi đó tuyệt đôí phải loại bỏ tất cả mọi hình thức kv thị. Tiếc thay, nạn kỳ thị đã và vẫn tiếp tục chia rẽ và làm ô nhục gia đình nhân loại, nào là kỳ thị chủng tộc, kỳ thị kinh tế, kỳ thị xã hội, kỳ thị văn hoá, kỳ thị chính trị, kỳ thị địa dư... Mỗi hình thức kỳ thị là một sự bất công không thể chấp nhận, không phải vì nó tạo nên những căng thẳng, những tranh chấp xã hội, nhưng vì nó làm nhục cho phẩm giá con người: không chỉ phẩm giá của nạn nhân bị nhục, mà phẩm giá của thủ phạm lạí càng bị hổ nhục hơn.
Phám giá con người không chỉ là nền tảng của sự bình đẳng giữa mọi người , nó còn là nền móng của việc tham gia và liên đới giữa con người với nhau: Đôí thoại và thông cảm được bắt nguồn từ bản tính con ngừơi, chứ không phải do cái con người "có".
Nhân phẩm là một tư sản không thể hủy diệt của mọi người. Lời qủa quyết này có một sức mạnh phi thường, nó dựa trên đặc tính thuần nhất không thay thế được của mọi nhân vị. Vì đó, mà con người đã chống lại một cách bất khuất tất cả mọi toan tính đè bẹp, tiêu diệt họ bằng cách đặt họ vào tình trạng vô danh của tập thể, của thể chê, của cơ cấu hay hệ thông. Nhân vị trong cá tính của nó không phải là một con số, nó cũng không phải là một vòng tròn trong một dây xích, hay một bánh xe trong một hệ thống. Lời qủa quyết căn bản và đầy ý nghĩa về giá trị của con người đã thể hiện bởi con Thiên Chúa khi Ngài nhập thể trong cung lòng của một trinh nữ. Lễ Giáng Sinh luôn luôn nhắc nhở chúng ta về lời qủa quyết này. (136)
Tôn trọng quyền sống bất khả xâm phạm
38. Sự nhìn nhận nhân phẩm con ngườl đòi hỏi chúng ta phải tôn trọng, bênh vực và thăng tiến các quyền lợi của con người . Đáy là quyền tự nhiên, phổ quát và bất khả xâm phạm. Không một ai, cho dù là cá nhân, đoàn thể, ngay cả quyền bính quốc gia, không một ai có thể sửa đổi và càng không thể loại bỏ các quyền lợi ấy, vì nó từ Thiên Chúa mà đến.
Bản chất bất khả xâm phạm của nhân vị này là phản ảnh của bản chất không thể xúc phạm tuyệt đôi của Thiên Chúa; và vì thế không ai có thể phạm đến mạng sống con người. Nói đến nhân quyền, thí dụ quyền được sức khỏe, quyền có chỗ ở, có việc làm, quyền lập gia đình, quyền học hành, nhưng thật sai lầm và hảo huyền khi nói đến nhân quyền như người ta thường nói, mà lại không cương quyết bênh vực quyền sống như một quyền lợi bậc nhất, vì nó là nguồn gốc và điều kiện cho tất cả mọi quyền lợi khác của con người.
Giáo Hội không bao giờ chịu bó tay trước bất cứ xâm phạm nào đên quyền sống là quyền của mọi người, dù bởi tư nhân hay chính quyền. Chủ thể của quyền lợi ấy, chính là con người, con người ở bất cứ thời điểm nào trong cuộc sống từ lúc mới được thụ thai cho đên khi tắt thở; và trong tất cả mọi trạng thái khỏe mạnh cũng như bệnh tật, lành mạnh cũng như tàn phế, giàu có cũng như nghèo hèn. Công Đồng Vaticanô II đã mạnh dạn nói lên: " Tất cả những gì đôl nghịch với sự sống như giết người dưới bất cứ hình thức nào, diệt chủng, phá thai, giết chết cách êm díu, hoặc tự ý tự tử; tất cả những gì xâm phạm đến sự toàn vẹn của nhân vị con người, như cắt bỏ một phần thân thể, hành hạ thân xác hoặc tâm trí, làm áp lực tâm lý; tất cả những gì xúc phạm đến nhân phẩm, như những cảnh sống thấp kém dưới mức độ phải có của con người, giam cầm vô cớ, lưu đày, nô lệ, mãi dâm, buôn bán phụ nứ và trẻ con; kể cả những tình trạng lao động khiến cho nhân công hoàn toàn trở thành công cụ cho lợi lộc, chứ không được coi như con người tự do và có trách nhiệm; tất cả nhứng điều nói trên và những điều tương tự đều được coi là tội lỗi. Trong khi làm thôí nát nền văn minh nhân loại, tất cả nhứng điều trên lại trở thành nguy hại cho chính những kẻ chủ động hơn là đối với những người chịu sự thiệt thòi đó. Hơn nữa nó còn xúc phạm nặng nề đến danh dự của Đấng Tạo Hóa." (137)
Nếu mỗi người chúng ta đều có sứ mệnh và trách nhiệm nhìn nhận nhân phẩm của con người và bênh vực quyền sống của con người, thì đồng thời có một số tín hữu giáo dân được kêu gọi làm việc này với một tước hiệu nêng biệt: đó là các bậc phụ huynh, các nhà giáo dục, bác sĩ và y tá, và tất cả những ai nắm quyền kinh tế và chính trị.
Khi đón tiếp với một lòng yêu mến và đại độ tất cả mọi người, nhất là những người thất thế và đau yếu, Giáo Hội hôm nay đang sống thời điểm quan trọng nhất của sứ mạng mình, một sứ mạng càng khẩn thiết vì mỗi ngày con người càng chạy theo cái gọi là Văn hóa chết. Bởi vì, "Giáo Hội tin chắc chắn rằng sự sống con người, cho dù là yếu đau bệnh tật, luôn luôn vẫn là một ơn lạ lùng của lòng từ bi Thiên Chúa. Để chống với tính ích kỷ và bi quan đang ám ảnh thế giới, Giáo Hội bênh vực sự sống và trong mỗi mạng sống con người, Giáo Hội biết khám phá ra sự sáng chói của tiếng "Vâng" tiếng "Amen" là chính Đức Kitô (2 Cor.1:19, Ap.3:14). Để đáp lại tiếng "không" đang xâm chiếm và gieo sầu khổ cho con người và thế giới, Giáo Hội nói "có" sống động, và như thế Giáo Hội bênh vực con người và thế giới chống lại với những kẻ đe dọa và phạm đến sự sống". (138) Người tín hữu giáo dân, hoặc vì ơn gọi hay vì nghề nghiệp, phải trực tiếp chịu trách nhiệm đón nhận sự sống, phải làm cho tiếng "Vâng" của Giáo Hội chấp nhận sự sống, được thực hiện một cách có hiệu quả.
Nhờ sự phát tnển mau lẹ của các ngành sinh-vật-học và y-khoa, song song với tiến bộ lạ lùng của khoa học, hiện giờ chúng ta phải đương đầu với nhiều vấn nạn mới vì con người có khả năng làm những điều mới lạ đối với sự sống con người. Con người thời nay, không những có khả năng "quan sát", hơn nữa còn có thể nghiên cứu cách kiểm soát sự sống con người ngay từ giây phút đầu tiên và qua các giai đoạn phát triển của nó.
Lương tâm luân lý của nhân loại không thể đứng nhìn như kẻ bàng quan trước những bước tiến dài do một quyền lợi kỹ thuật ngày càng thao túng trong lãnh vực truyền sinh, và trong những giai đoạn đầu của sự phát triển nhân vị con người.
Có lẽ ngày nay hơn bao giời hết trong địa hạt này, sự khôn ngoan là cái neo cứu rỗi độc nhất để con người trong công cuộc sưu tầm khoa học và áp dụng có thể hành động theo lý trí và tình thương, nghĩa là biết tôn trọng nhân phẩm bất khả xâm phạm của con người ngay từ buổi đầu cuộc sống của nó. Muốn được như vậy, khoa học và kỹ thuật với những phương tiện hơp pháp, phải dấn thân bênh vực sự sống và chữa trị các bệnh tật ngay từ ban đầu, và từ chối - vì danh dự của công trình khảo cứu - không can thiệp cách nào để đưa đến hậu quả biến đổi khả năng sinh sản của cá nhân và của nhân loại. (139)
Các tín hữu giáo dân vì chức nghiệp trên nhiều phương diện phải dần thần trong lãnh vực khoa học hay kỹ thuật, cũng như những lãnh vực y khoa, xã hội, lập pháp hay kinh tế, tất cả phải có can đảm đón nhận "sự thách thức" do các vấn đề mới của nền luân lý sự sống gây ra. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã quả quyết: "Người Kitô hữu phải thi hành trách nhiệm như chủ nhân chứ không phải như nô lệ của khoa học và kỹ thuật. Trong viễn tượng "thách đô" về luân lý tung ra do quyền năng ghê gớm của kỹ thuật mới, đang đe dọa không nhứng các quyền lợi căn bản của con người, mà ngay cả bản chất sự sống của nhân loại. Người giáo dân, nhờ sự giúp đỡ của toàn thể Giáo Hội, phải nhận lấy trọng trách để làm cho văn hoá giữ được các nguyên tắc của một nền nhân bản xác thực nguyên vẹn; như thế việc cổ võ và bênh vực nhân quyền mới có được một nền móng đầy sinh lực và vững chãi ngay trong bản chất của nó. một bản chất đã được mặc khải cho con người qua Phúc ấm. (140)
Ngày nay là lúc cấp bách mọi người phải tỉnh thức trước hiện tượng tập trung quyền lực kỹ thuật. Vì sự tập trung này có dụng ý tráo trở không những bản chất của sự sống mà ngay cả nội tại của lương tám con người và cách sống của nó, khiến cho việc kỳ thị và khinh rẻ nhiều dân tộc trở thành trầm trọng.
Tự do kêu cầu danh Chúa
39. Tôn trọng phẩm giá con người đó là bênh vực và cổ võ tôn trọng nhân quyền, và đồng thời đòi hỏi phải nhìn nhận phạm vi tôn giáo của con người. Đây không chỉ đơn giản là một đòi hỏi "tín ngưỡng", nhưng là một đòi hỏi tự nó không thể bị tiêu diệt của thực thể con người. Mối liên quan với Thiên Chúa là một yêú tố cấu tạo nên "bản chất" và "cuộc sống" con người: Chính trong Thiên Chúa mà "chúng ta được sống, được cử động và được hiện hữư' (Acts. 17:28) . Nếu không phải mọi người đều chấp nhận chân lý, thì ít nữa ai chấp nhận đều có quyền buộc kẻ khác phải tôn trọng Đức Tin của họ, tôn trọng sự lựa chọn đời sống của họ, hoặc cá nhân hay đoàn thể. Đó là quyền tự do lương tâm và tự do tôn giáo, công nhận quyền lợi này là cả một lợi ích cao cả nhất và là một trong những bổn phận nặng nề nhất của mỗi dân tộc, nếu dân tộc này muốn bảo đảm lợi ích của cá nhân và của xã hội: "Tự do tôn giáo, một đòi hỏi không thể phá hủy được của phẩm giá con người, là viên đá góc để xây dựng toà nhà nhân quyền, và là một yếu tố không thể thay thế được của lợi ích con người và xã hội, và làm cho con người được phát triển toàn vẹn. Bởi đó tự do tuyên xưng và hành đạo của cá nhân hay của cộng đồng là một yếu tố căn bản để con người chung sống hoà bình... Quyền tự do tôn giáo về mặt dân luật và xã hội, vì nó thuộc phạm vi thâm sâu của tinh thần, nên nó là điểm tham chiếu, một cách nào đó, nó trở nên thước đo lường của các quyền lợi căn bản khác".(141)
Thượng Hội Đồng Giám Mục đã không lãng quên một số đông các anh chị em chưa được hưởng quyền tự do và đang phải đương đầu với bao nhiêu khó khăn, với nạn bỏ rơi, với đau khổ và bắt bớ, và có khi phải chết vì Đức Tin. Một số đông trong họ là giáo dân Truyền bá Phúc âm và làm chứng nhân đời sống Công Giáo trong đau khổ và tử đạo, đó là tột đỉnh của việc tông đồ của các môn đệ Chúa Kitô, cũng như tình yêu của Chúa Giêsu đến hy sinh mạng sống phát sinh nguồn mạch đầy sức sống lạ thường để xây dựng Giáo Hội. Cây nho thần bí như thế tỏ ra rất đầy sinh khí như Thánh Augustinô nói: "Cây nho này như các Tiên Tri và chính Chúa đã loan báo trước, tỏa ra trên khắp thế giới cành cây của nó nặng trĩu hoa trái và nó ngày càng thêm sinh lực nếu càng được tưới thêm bằng máu tử đạo. (142)
Toàn thể Giáo Hội hết lòng biết ơn về thí dụ và ơn này. Kitô-hữu đã hy sinh mạng sống để đem lại một lý do đổi mới nghị lực đời sống thánh thiện và tông đồ. Vì thế các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhận thấy có bổn phận cách riêng "phải cám ơn các người giáo dân đang sống kiên cường chứng nhân Đức Tin, trung thành hợp nhất với Giáo Hội, dầu phải bị chèn ép và thiêú thốn linh mục. Họ liều bỏ tất cả ngay cả mạng sống. Như thế giáo dân đã làm chứng cho đặc tính căn bản của Giáo Hội, là: Giáo Hội sinh bởi ơn nghĩa Chúa và tỏ ra cao cả trong máu tử đạo." (143)
Tất cả những gì chúng ta bàn đến về việc tôn trọng phẩm giá con người, về việc nhìn nhận nhân quyền, mỗi người cũng như mỗi Kitô-hữu đều có trách nhiệm. Nhưng chúng ta cũng phải biết rằng vấn đề này có tầm mức quốc tế vì là một vấn đề liên hệ đên đoàn người đông đảo, có khi cả một dân tộc bị cướp đoạt quyền lợi căn bản. Những hình thức bất bình đẳng này đang phát triển giữa các "thế giới" khác nhau đã bị tố cáo rành mạch trong Thông Điệp "Sol-licitudo rei socialis" (Mối lo ngại về tình trạng xã hội).
Việc tôn trọng nhân vị con người vượt trên đòi hỏi luân lý cá nhân, vì nó là một tiêu chuẩn nền tảng, là cột trụ, là nền móng xây cơ cấu xã hội, vì mục tiêu xã hội là con người.
Như thê, trọng trách phục vụ xã hội có liên quan mật thiết với trọng trách phục vụ con người. Đó là định nghĩa sứ mệnh đem đạo vào đời mà các tín hữu giáo dân được gọi để hoàn thành theo cách thế riêng biệt của mình.
Gia đình: nơi đầu tiên để học dấn thân làm việc xã hội
40. Nhân vị con người đã sẵn có tầm vóc xã hội trong cơ cấu tự nhiên của nó, vì tự thâm tâm, nó được kêu gọi để sống hiệp nhất và hiến thân cho kẻ khác: "Thiên Chúa, lo lắng săn sóc mọi người như một hìên phụ đã muốn cho mọi người thành một gia đình và đôí đãi với nhau như anh em". (144) Như thế, xã hội là kết qủa và là dấu chỉ của đặc tính xã hội của con người, nó chỉ thàmh một thực thể hoàn toàn khì nào nó trở tnành một công đồng nhân vị.
Vì thế người tín hữu giáo dân dấn thân làm việc tông đồ trong trật tự trần thế có nghĩa là phục vụ cá nhân con người, cá nhân duy nhất và không ai có thể thay thế được, cũng có nghĩa là phục vụ tất cả mọi người.
Vợ chồng và gia đình, đó là biểu hiệu đầu tiên, nguyên thủy của tầm vóc xã hội con người. "Nhưng Thiên Chúa không dựng nên con người đơn độc: từ nguyên thủy, "Ngài dựng nên một nam một nữ" (Gn. l:27). Xã hội gồm một nam một nữ đó là biểu lộ đầu tiên của sự hiệp thông người với người". (145) Chúa Gìêsu đã để ý đem lại phẩm giá cho vợ chồng và nền tảng vững chắc cho gia đình (Mt. 9:3-9) Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy mốl liên quan sâu xa giữa hôn nhân với mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội . (Eph.5.22 và 6.4, Col. 3:18-21; 1 Pt. 3:1-7).
Vợ chồng và gia đình là nơi đầu tiên để các tín hữu giáo dân dấn thần vào xã hội. Nhưng hành động dấn thân này chỉ có ý nghĩa khi họ xác tín về giá trị duy nhất và không thay thế được của gia đình trong việc phát huy xã hội và Gíáo Hội. Gia đình là chiếc nôi của sự sống và tình thương, trong đó con người "chào đời" và "lớn lên". Gia đình vì thế là tế bào nền tảng của xã hội. Cộng đồng nhỏ bé này phải được lo lắng săn sóc đặc biệt, nhất là mỗi khi lòng ích kỷ của con người, các chiên dịch chống sinh sản, và tình cảnh khó nghèo khốn khổ về phương diện vật chất, văn hóa và luân lý. Nhất là tâm trạng tìm kiêm lạc thú, chạy đua tiêu thụ làm cho khô cạn các nguồn mạch sự sống, trong lúc các ý thức hệ, các hệ thống khác nhau, cũng như các hình thức bất cần sự sống hay thiêú săn sóc phá hoại vai trò giáo dục riêng của gia đình.
Việc tông đồ của các tín hứu giáo dân trước tiên là làm cho gia đình ý thức được nguyên tính của mình như nền tảng căn bản đầu tiên của xã hội, và ý thức được vai trò của mình trong xã hội, để mỗi ngày mỗi đóng vai trò chủ động và trách nhiệm cho sự trưởng thành của mình và tham gia vào đời sống xã hội. Như vậy gia đình có thể và phải đòi hỏi mọi người, nhất là chính quyền, phải tôn trọng các quyền lợi của mình để cứu vãn mình và cứu vãn xã hội.
Tất cả những điều viết về gia đình có liên quan đến sự phát triển xã hội (146) trong bức Tông Huấn về Gia Đình (Familiaris consortio), và những gì Giáo Hội đã nói trong Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1980 trong "Hiến Chương các Quyền lợi của Gia Đình", đã trở thành một chương trình hoạt động đầy đủ và có cơ cấu cho tất cả các tín hữu giáo dân theo danh nghĩa mỗi người đang lưu tâm cổ võ các giá trị và các đòi hỏi của gia đình.
Chương trình này càng phải cấp tốc thực hiện một cách quyết liệt vì các đe dọa làm lung lạc và phá tan gia đình ngày càng trầm trọng, cũng như ngày càng trở nên nặng nề và hệ thống hóa chiều hướng muốn loại bỏ gia đình và tiêu diệt vai trò quan trọng của nó đối với xã hội.
Như kinh nghiệm cho thấy, văn minh và tình liên đới các dân tộc một phần lớn tuỳ thuộc ở phẩm cách tốt xấu của gia đmh. Như thế việc tông đồ gia đình mang một giá trị xã hội không thể so sánh được. Giáo Hội rất xác tín về đìêu này, vì biết rằng "tương lai của nhân loại phải đi qua gia đình". (147)
Đức ái là linh hồn, là sự nâng đữ của tình liên đđi
41. Việc phục vụ xã hội diễn tả và thực hiện bằng nhiều cách thế khác nhau, có những cách tự do riêng tư hoặc được quy định theo một thể chế, có việc nhằm phục vụ từng nhóm người hoặc từng cộng đồng.
Toàn thể Giáo Hội từ bản chất của mình đã được trực tiếp kêu gọi phục vụ đức ái: "Giáo Hội thánh thiện đặt bữa ăn thân tình "Agape" đi liền với bữa Tiệc Thánh Thể để biểu lộ sự hợp nhất hoàn toàn trong tình yêu thương chung quanh Chúa Kitô. Như vậy, bất cứ thời đại nào, người ta cũng nhận ra Giáo Hội nhờ tình yêu này, và Gláo Hội đã tự đảm nhận những công tác bác ái như là nhiệm vụ và quyền lợi bất khả di nhượng của mình, dầu Giáo Hội vẫn hân hoan trước những sáng kiến của người khác. Vì thế, Giáo Hội đặc biệt đề cao lòng thương xót đối với người nghèo đói bệnh tật, cũng như những công tác mệnh danh là từ thiện và tương trợ để xoa dịu nỗi thống khổ của nhân loại". (148) Đức bác ái đôí với anh em, thực hiện dưới hình thức các việc từ thiện thể xác hay tinh thần, hình thức đã có từ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ, đó là nội dung cấp thời thường xuyên của hoạt động đem đạo vào đời của các tín hữu giáo dân. Khi thi hành bác ái đôl với anh em, người tín hữu giáo dân sống và nêu cao sự tham gìa vào vương quyền của Đức Kltô, nghĩa là tham gia vào quyền năng của Con Người là Đấng "không đến để hưởng thụ nhưng để phục vụ" (Mk. 10. 45). Họ sống và nêu cao vương quyền một cách rất đơn giản, theo tầm mức của mọi người và mọi thời đại, vì Đức ái là một ơn huệ cao cả nhất Chúa Thánh Thần ban để xây dựng Giáo Hội (1 Cor. 13:13) và để đem lại lợi ích cho nhân loại. Đức ái đem lại sinh lực và nâng đỡ cho tình liên đới sống động, lưu tâm đến mọi nhu cầu của con người.
Một Đức ái như thế không chỉ được nhận thức do riêng cá nhân mà còn cần thiết phải được nhận thức do các đoàn thể, và các cộng đồng nứa. Không một ai cũng không một cái gì có thể thay thế nó được, cho đến cả các thể chế hay sáng kiến công cộng, là những tổ chức chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu của một dân tộc thôi, những nhu cầu thường rất trầm trọng và lớn lao trong thời đại này. Ngược lại, Đức ái này càng khẩn thiết hơn, khi mà các thể chế từ thiện đã trở nên qúa phức tạp trong tổ chức và có tham vọng nắm trong tay quyền quản lý hết tất cả mọi phạm vi. Cuôí cùng trở nên vô hiệu bởi tổ chức quan liêu, bởi tinh thần làm việc quan lại, bởi lòng tham lợi quá đáng, và rồi không còn ai lưu tâm đến nứa.
Chính trong hoàn cảnh này đã xuất hiện và lan tràn nhất là trong xã hội có tổ chức, những hình thức tự nguyện phục vụ công tác. Tự nguyện là cách làm tông đồ mà người tín hữu giáo dân, nam cũng như nữ, đóng vai trò chính yếu. Họ xả thân quên mình cho những người anh em từng bị các tổ chức tự cho mình là vì xã hội bỏ rơi họ.
Đời sống xã hội: Cho mọi người và vì mọi người
42. Đức ái để yêu thương và phục vụ con người không được tách rời khỏi công lý. Cả hai theo cách riêng biệt của mình đòi buộc mọi người phải hoàn toàn công nhận thực sự các quyền lợi của con người, vì xã hội với các cơ cấu và thể chế được đặt ra vì con người.(149) Để đem đời sống Kitô hữu vào trật tự trần thế, nghĩa là "đem đạo vào đời" theo ý nghĩa là phục vụ con người và xã hội, các tín hữu giáo dân tuyệt đôl không thể từ chôl tham gia vào "chính trị", nghĩa là vào các hoạt động nhiều sắc thái, kinh tê, xã hội, lập pháp, hành chánh văn hóa, có mục đích cổ võ công ích một cách có cơ chế. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhiều lần qủa quyết điều này là mọi người và mỗi người có quyền lợi và bổn phận phải tham gia vào chính trị dưới nhiều hình thức khác nhau và bổ túc cho nhau, trên nhiều mức độ khác nhau cũng như trong các bổn phận và trách nhiệm khác nhau. Chúng ta thường nghe những nhà cầm quyền, quốc hội, giai cầp cai trị và các đảng phái chính trị bị tố cáo là nhứng kẻ lợi dụng thời cơ, tôn thờ quyền bính, ích kỷ tham nhũng. Chúng ta cũng thấy dư luận quần chúng đó đây bảo chính trị chỉ là nơi vô luân lý. Tất cả lời khinh khi này không cách nào bào chữa được cho người Công Giáo trốn tránh chính trị hay nghi ngờ việc chung.
Ngược lại, những lời sau đây của Công Đồng Vaticanô II rất có ý nghĩa: "Giáo Hội ca ngợi và quý trọng việc làm của nhứng người, vì công ích mà dấn thân phục vụ con người và lãnh nhận gánh nặng của trách nhiệm này". (150)
Một đường lôí chính trị vì dân vì nước luôn luôn lấy công ích làm tiêu chuán căn bản, vì công ích là ích lợi của mọi người và của từng người, ích lợi cung ứng và được bảo đảm để mọi cá nhân cũng như đoàn thể tự do chấp nhận với tinh thần trách nhiệm: "Vì thế các tổ chức chính trị chỉ hiện hữu vì công ích. Chính công ích là lý do tồn tại, ý nghĩa và là căn bản pháp lý cho các tổ chức chính trị. Công ích nơi đây bao gồm tất cả nhứng điều kiện của đời sống xã hội; nhờ những điều kiện này, cá nhân, gia đình và đoàn thể có cơ hội phát triển trọn vẹn và dễ dàng hơn".(151)
Hơn nữa, một đường lối chính trị vì dân vì nước phải chọn một tôn chỉ thủy chung là bênh vực và cổ võ công lý, được hiểu như một "đức tính" mọi người phải có, và cũng là một "sức mạnh" luân lý nâng đỡ bất cứ ai cố gắng hổ trợ các quyền lợi và nghĩa vụ của con người và mỗi người trên nền tảng nhân phẩm.
Kẻ thi hành quyền bính chính trị phải lấy tinh thần phục vụ làm nền tảng. Tinh thần phục vụ này với khả năng và hiệu năng trong việc lãnh đạo là điều rất cần thiết để làm cho các hoạt động của các nhà chính trị được "sáng suốt" và "trong sạch" như dân chúng thường đòi hỏi một cách rất hợp lý. Muốn thế cần phải thẳng thắn tranh đấu điệt trừ hết mọi dụng ý toan tính như vận động xoay trở, gian trá, nói láo, thụt công quỹ để trục lợi hay mua chuộc, xử dụng các phương cách mờ ám và bất hợp pháp để chiếm đoạt bằng mọi giá duy trì và mở rộng quyền hành.
Các tín hữu giáo dân dấn thân vào chính trị phải thẳng thắn tôn trọng sự tự lập của các thực tại trần thế theo nghĩa của Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng: "...Điều rất quan trọng là cần nhận thức chính xác về môí tương quan giữa cộng đồng chính trị và Giáo Hội, nhất là trong một xã hội gồm nhiều thành phần. Cũng cần phải phân biệt minh bạch giữa hành động của các tín hữu hoặc cá nhần hoặc đọàn thể với danh nghĩa công dân dưới sự hướng dẫn của lương tâm Công Giáo, và những hành động của các tín hữu khi họ nhân danh Giáo Hội và hợp nhất với các vị chủ chăn của họ. Vì căn cứ vào vai trò và thẩm quyền của mình, Giáo Hội không cách nào bị đồng hoá với một tập thể chính trị và cũng không hề cầú kết với bất cứ hệ thống chính trị nào vì Giáo Hội vừa là dấu chỉ, vừa là đảm bảo cho tính cách siêu việt của con người".(152)
Đồng thời các tín hữu giáo dân còn có nghĩa vụ cấp bách làm chứng nhân cho các giá trị con người và các giá trị Phúc âm liên kết mật thiết với chính các hoạt động chính trị, như sự tự do và công bình tình liên đới và lòng tận tụy trung thành, vô vị lợi đối với công ích, tình yêu đặc biệt với người nghèo khó và thấp hèn. Muốn thế các tín hữu giáo dân luôn luôn phải tìm nghị lực thiêng liêng trong việc tham gia thực sự vào đời sống Giáo Hội và lấy lý thuyết xã hội của Giáo Hội làm ánh sáng chỉ đạo. Trong công việc nặng nề này họ cần có các công đồng Công Giáo và các vị chủ chăn theo dõi và hổ trợ. (153)
Một đường lôl chính trị nhằm phát triển con người phải cần đến tình liên đới làm phương tiện và kiểu mẫu. Tình liên đới này đòi hỏi sự tham gia tích cực và ý thức trách nhiệm của mọi người vào đời sống chính trị, từ mỗi một người công dân đến các đoàn thể khác nhau, từ các nghiệp đoàn đến các đảng phái; tất cả chúng ta và mỗi người trong chúng ta đèu là kẻ thừa hưởng và là người tham gia tích cực vào chính trị. Trong tình trạng này, như Ta đã viết trong Thông Điệp "Nỗi lo âu về tình cảnh xã hội" (Sol-licitudo), tình hên đới "không phải là một tình cảm thương hại mơ hồ hay là một xúc cảm động lòng trắc ẩn nông cạn trước bao nhiêu khốn khổ của nhiều người xa gần. Ngược lại, đây là một sự dấn thân quyết liệt vững chãi, bền chí để thể hiện công ích. Nói cách khác, để thực hiện lợi ích cho mọi người và mỗi người, để chúng ta tất cả, mang lấy trách nhiệm thực sự cho tất cả." (154)
Trong thế giới hôm nay, tình liên đớì chính trì phải vượt khỏi ranh giới quốc gia hay một khối quốc gia, nó phải bao gồm cả một chân trời mở rộng trên biên cương lục địa hay thế giới.
Kết quả của hoạt động chính trị liên đới là Hoà bình. Đó là đĩều mọi người ước vọng nhưng còn xa vời. Các tín hữu giáo dân không thể khoanh tay ngồi nhìn như kẻ bàng quan lười bịếng trước những gì phá hoại hay làm tổn thương hoà bình: như vũ lực và chiên tranh, tra tấn hay khủng bố, trại tập trung, quân sự hoá chính trị, thi đua võ trang, đe dọa nguyên tử. Ngược lại, là môn đệ Đức Giêsu Kitô "Vua Hoà bình" (Is. 9.5) "Hoà bình của chúng ta" (Eph. 2:14) các tín hữu giáo dân phải nhận lãnh bổn phận làm "kẻ kiến tạo hoà bình" (Mt. 5. 9) bằng một cuộc sống trở về với Chúa và bằng các hoạt động vì chân lý, vì tự do, vì công bình và bác ái là những nền móng vững chắc của hòa bình. (155)
Hợp tác với những người thật lòng đi tìm hoà bình và xử dụng những cơ quan riêng biệt và các thể chế quốc gia và quốc tế, người tín hữu giáo dân phải cổ võ một nền giáo dục căn bản để chống lại với một nền văn hoá ích kỷ ,hận thù để phát huy nền văn hoá liên đới trên mọi bình diện. Vì sự liên đới này "là con đường của hoà bình và của phát triển".(156) Trong viễn tượng này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã kêu mời người Công Giáo phải tống khứ mọi hình thức vũ lực, cổ võ thái độ đôl thoại, hoà bình và kêu mời họ dấn thân để kiến tạo một trật tự xã hội và quôc tế công bình. (157)
Đặt Con người vào trung tâm điểm của đời sống kinh tế xã hội
43. Điểm hoạt động căn bản của việc phục vụ xã hội của tín hữu giáo dân, nằm tại vấn đề kinh tế xã hội; chìa khóa của vấn đề này là tổ chức lao động.
Tính cách trầm trọng hiện tại của vấn đề này, theo cái nhìn chung của sự phát tnển và dựa trên đề nghị giải quyết của học thuyết xã hội của Giáo Hội, mà Ta mới nhắc lại trong thông điệp "Nỗi lo âu về tình cảnh xã hội" (Sol- licitudo). Ta ước ao tất cả mọi người hãy tham khảo lại nhất là các tín hữu giáo dân.
Trong các điểm quan trọng của học thuyết xã hội của Giáo Hội, có nguyên tắc này: mọi người đều được quyền hưởng của cải trần gian theo ý định của Thiên Chúa. Những thứ này được ban cho con người và mỗi người làm phương tiện để phát triển một đời sống làm người đúng mức. Tư sản là sự thể hiện mục đích ấy và còn có công dụng xã hội tự trong bản tính nó. Một cách cụ thể, lao động của đàn ông hay đàn bà là dụng cụ rất thông thường, rất cấn thiết để phát triển đời sống kinh tế, dụng cụ này là một quyền lợi và một nghĩa vụ đôí với mỗi người. Tất cả những điều này thuộc về sứ mệnh của người tín hữu giáo dân một cách đặc biệt. Mục đích và tiêu chuẩn của sự hiện diện và hoạt động của họ được Công Đồng Vaticanô II đúc kết như sau: "Ngay trong đời sống kinh tế xã hội, phẩm giá cũng như ơn gọi toàn diện của con người và lợi ích của toàn thể xã hội phải được tôn trọng và thăng tiến. Vì con người là tác giả, là tâm điẽm và mục đích của tất cả đời sống kinh tế xã hộl " (158)
Giữa bao nhiêu biên đổi của thế giới lao động và kinh tế đang bị đảo lộn, anh em tín hữu giáo dân phải là kẻ tiền phong đứng ra tìm các giải pháp cho nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng, tranh đấu để chấm dứt các bất công do các tổ chức bất công của lao động, cố gắng làm cho nơi làm việc trở thành một nơi sống của cộng đồng nhân vị được kính trọng vì đặc tính và quyền lợi tham gia của các nhân vị, và phải hết mình phát triển những môí giây liên đới mới giữa những anh em cùng làm chung một việc, giúp sáng kiên về hình thức kinh doanh mới, và thúc đẩy duyệt lại các hệ thống thương mại, tài chánh và trao đổi kỹ thuật.
Để thực hiện điều này, các tín hữu giáo dân phải chu toàn bổn phận theo khả năng nghề nghiệp một cách ngay thắng, với tinh thán công giáo như là phương tiện thánh hóa bản thân, (159) theo lời chỉ dạy của Công Đồng: "Nhờ việc làm, con người theo lệ thường là có ý nuôi sống mình và gia đình, liên kết với anh em và phục vụ họ, có thể thực thi bác ái đích thực và góp công vào việc kiện toàn công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Hơn nữa chúng tôi cho rằng nhờ việc làm của mình, con người cộng tác vào chính công cuộc cứu rỗi của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã nâng cao giá trị của việc làm khi Ngài làm việc với chính hai bàn tay của mình tại Nagiarét".(160)
Đi đôi với đời sống kinh tế xã hội, ngày nay lại xuất hiện thêm vấn đề ngày càng gay go, đó là vấn đề "Môi sinh" (Ecological). Không ai chối cãi được là con người đã nhận lãnh bởi Thiên Chúa trách nhiệm "chế ngư" các tạo vật và "vun trồng mảnh vườn" thế giới. Những nghĩa vụ này con người phải chu toàn với một lòng tôn trọng hình ảnh của Thượng Đế mà họ đã lãnh nhận với tình yêu và lý trí, phải có trách nhiệm về các ơn Chúa đã ban tràn trề và còn tiếp tục ban cho họ. Con người làm chủ một ơn mà họ phải truyền lại cho các thế hệ mai sau, ơn ấy phải làm cho nó tất đẹp hơn nữa nếu có thể. Vì các thế hệ này cũng là những người được quyền nhận lãnh các ân huê của Chúa: "Việc chế ngự thụ tạo Thiên Chúa đã ban cho người ... không phải là một quyền độc đoán, và chúng ta không thể nói đến tự do "xử dụng và lợi dụng" hoặc sắp đặt sự vật như ý mình muốn. Khi Thiên Chúa cấm Adong và Evà "ăn trái cá'm" (Gn. 2:16-17), điều ấy có nghĩa là trong khuôn khổ các tạo vật hiện hữu... Chúng ta không phải chỉ vâng theo luật lệ luân lý không thể bỏ qua các nhận xét liên quan đến việc xử dụng các yếu tố thiên nhiên, đến việc phải tái tạo các nguồn tài nguyên và hậu quả của một nền kỹ nghệ vô trật tự. Một lần nữa các nhận xét này đề nghị với lương tâm chúng ta phải lưu ý đến bình diện luân lý của phát triển ". (161)
Phúc âm hóa vãn hóa và các nền văn hóa của con người
44. Việc phục vụ con người và xã hội được diễn tả và thực hiện qua việc tạo nên và truyền thông văn hóa, một trong những nghĩa vụ nặng nề cho con người sống chung và tiến hóa của xã hội ngày nay. "Văn hóa" được Công đồng hiểu nghĩa như sau: "Theo nghĩa tổng quát, chữ "văn hóa" ám chỉ bao gồm tất cả những gì con người dừng để trau giồi các tài năng của tâm hồn và thể xác; cố gắng chế ngự trái đất bằng hiểu biết và lao động; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình cũng như đời sống chính trị trở thành nhân đạo hơn nhờ sự tiến bộ trong các tập tục và định chế, sau hết diễn tả, thông truyền và bảo tồn những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của các thời đại, để giúp cho nhiều người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn" (162) Theo nghĩa này, văn hóa phải được xem như là của chung của mỗi dân tộc, là sự diễn tả phầm giá, tự do và óc sáng tạo của họ, và là chứng tá chặng đường lịch sử. Chỉ khi nào nó đi vào lòng văn hóa và qua một nền văn hóa, thì Đức tin Công giáo mới thực sự tham dự vào lịch sử và kiên tạo lịch sử. Trước môt nền văn hóa xem ra lạc xa đức tin công giáo và có khi trái ngược với các giá trị nhần bản,(163) cũng như đứng trước một thứ văn hóa khoa học và kỹ thuật là văn hóa bất lực để trả lời cho những khát vọng chân lý và điều thiện đang nung nầú tâm hồn con người, Giáo Hội rất ý thức bổn phận cấp bách, nhất là về phương diện mục vụ, phải lưu tâm đặc biệt đến văn hóa.
Vì thế Giáo Hội yêu cầu các tín hữu giáo dân phải hiện diện một cách can đảm và với óc sáng tạo thông minh, trong các chức vụ quan trọng của văn hóa như học đường, đại học, trung tâm nghiên cứu nhân bản. Sự hiện diện này không chỉ có mục đích nhìn nhận hay thanh lọc các yếu tố của văn hóa hiện có bằng những phê bình khôn ngoan, mà còn có ý làm tăng giá trị của nó nhờ kho tàng phong phú của Phúc âm và Đức Tin công giáo. Những điều Công Đồng Vatican II viết về môl liên lạc giữa Phúc âm và văn hóa đều đúng với sự kiện lịch sử không thay đôi và đồng thời là một lý tưởng hoạt động thức thời và khẩn thiêt. Đây là một chương trình quan trọng Giáo Hội phải đặc biệt chịu trách nhiệm nhất là các tín hữu giáo dân. "Tin Mừng của Chúa Kitô không ngừng đổi mới đời sống và văn hóa của con người đã sa ngã, chống lại và loại bỏ những sai lầm và tai họa phát sinh từ sức quyến rũ thường xuyên của tội lỗi luôn luôn đe dọa. Phúc âm không ngừng tinh luyện và nâng cao phong hóa các dân tộc. Những đức tính của mọi thời đại và mọi dân tộc được Phúc âm làm cho phong phú từ bên trong, được củng cố, bổ túc và tái tạo trong Chúa Kitô nhờ những ân huệ bởi Trời. Như thê, trong khi chu toàn bổn phận riêng, Giáo Hội cũng đồng thời thúc đẩy và góp phần vào công cuộc phát triển văn hóa nhân loại, và nhờ hoạt động của mình, ngay cả trong các nghi lễ phụng vu Giáo Hội giáo dục cho con người đạt tới tự do nội tâm".(164)
Ở đây cũng nên nhắc lại những lời thật ý nghĩa Tông Huấn của Đức Phaolô VI "Phải rao truyền Phúc âm" (Evangehi nuntiandi) khi nhờ thần lực Sứ điệp của Thiên Chúa, mà Giáo Hội rao truyền (Rom.11:16, 1 Cor.1:18, 2:4), Giáo Hội tìm cách cải hóa lương tâm cá nhân và lương tâm con người, cải hóa hoạt động, đời sống và cảnh vực thực tại của con người. Hiện giờ sinh hoạt của nhân loại biến đổi. Đối với Giáo Hội, ván đề không có nghĩa là rao giảng Phúc âm cho từng vùng đất môi ngày càng rộng lớn, hoặc cho các dân tộc ngày càng đông đảo, nhưng là đạt đến và nhờ sức mạnh Phúc âm chưyển hướng tiêu chuẩn phán đoán, các giá trị quyết định, các trọng tâm sinh hoạt, các đường hướng tư tưởng, các nguồn cảm hứng, và lôí sống của nhân loại khi nó đôỉ ngược với Lời Chúa và chương trình cứu rỗi. Tóm lại : Phúc-âm-hóa không phải như một cách trang trí, một lớp sưn bên ngoài, nhưng bằng một cách sống chết, thấm tận xương tủy, nghĩa là Phúc-âm-hóa các nền văn hóa của con người. Sự đổ vỡ giữa Phúc âm và văn hóa đó là thảm kịch của thời đại chúng ta, và cũng đã là thảm kịch của các thời đại xưa. Vì thế phải cố sức để thực hiện Phúc- âm-hóa văn hóa, hay nói đúng hơn các nền văn hóa". (165)
Con đường hiện tại rất thuận lợi cho việc cấu tạo và trao đổi văn hóa là các phương tiện truyền thông xã hội . (166) Thế giới của truyền thông xã hội, nhờ sự phát tnển mau lẹ của các phát minh và nhờ ảnh hưởng của nó bao gồm không gian và đồng thời sâu đậm trên tâm trạng và phong tục con người, nó đã trở thành một ranh giới mới cho sứ mệnh của Giáo Hội. Đặc biệt trách nhiệm nghề nghiệp của các tín hữu giáo dân trong địa hạt này, hoặc là trách nhiệm với danh nghĩa cá nhân hay trách nhiệm với danh nghĩa các thể chế cộng đồng, bất cứ trên danh nghĩa nào, trách nhiệm họ phải được nhìn nhận với toàn giá trị của nó, và phải được nâng đỡ về mặt vật chất, tinh thần và mục vụ liên quan đến việc xử dụng các phương tiện truyền thông. Nghĩa là việc sán xuất chương trình hay việc thâu nhận các chương trình ấy, chúng ta cần phải giáo dục óc phê bình ưa chuộng sự thật và đồng thời hành động nhằm bênh vực tự do và tôn trọng phẩm giá con người, và hổ trợ nền văn hóa chân thực của các dân tộc, bằng cách can đảm khước từ mọi hình thức độc quyền và tráo trở.
Trách nhiệm tông đồ của người tín hữu giáo dân không chỉ dừng lại ở vị thế bênh vực mà thôi: trên khắp mọi nẻo đường thế giới, ngay trên lãnh vực báo chí, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, Phúc âm Cứu rỗi phải được loan truyền cho mọl người.
Chương IV
NHƯNG NGỪƠI THỢ TRONG VƯƠN NHO CỦA CHÚA
Nhũng người quản lý tốt các ân sủng muôn mặt của Thiên Chúa
TíNH CÁCH KHÁC BlỆT CỦA CÁC ƠN GỌl
45. Theo dụ ngôn của Phúc âm, "người chủ vườn nho" mời những người thợ đến vườn nho của mình vào những giờ khác nhau trong ngày: nhiều người đến vào lúc bình minh, một số vào khoảng chín giờ sáng, số khác nữa đên vào lúc gần trưa và ba giờ, những kẻ cuối cùng vào khoảng năm giờ chiều (Mt. 20:1 và kế tiếp). Khi chú giải trang Phúc âm này, Thánh Grêgônô Cả nghĩ rằng những gìờ khác biệt đó tươhg ứng với những giai đoạn của tuổi đời; Ngài nói: "Ta có thể áp dụng sự khác biệt của các giờ vào những giai đoạn của đời sống con người". Theo đó, ban sáng tượng trưng cho tuổi thiếu thơ. Giờ thứ ba tiếp theo đó có thể tượng trưng cho tuổi thanh niên: mặt trời vươn lên, có nghĩa là nhiệt huyết của tuổi trẻ tràn đây. Giờ thứ sáu, là tuổi trung niên: mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu, là tuổi của sức sống sung mãn. Tuổi bắt đầu già tượng trưng cho giờ thứ chín, vào tuổi này nghị lực thanh xuân bắt đầu mòn mỏi không khác hình ảnh mặt trời từ từ ngã về hướng Tây. Giờ thứ mười một chỉ những người đã cận kề ngày cuôí cùng của cuộc đời mình. Như vầy, những người thợ được gọi đến vườn nho vào những giờ khác nhau, là hình ảnh giúp ta hiểu rằng có người được gọi sống cuộc sống hoàn thiện ngay ở tuổi thơ, có người vào tuổi vị thành mên, người khác vào vào thời kỳ trưởng thành, và kẻ khác nữa lúc đã về già. (167)
Chúng ta có thể dùng lời diễn giải của Thánh Grêgôriô Cả để áp dụng rộng rãi hơn vào tính cách đa dạng, phong phú của những người có mặt trong Giáo Hội ; mỗi một người và tất cả mọi người đều được mời gọi để hoạt động cho nước Thiên Chúa tỏ hiện theo cách thức khác nhau tùy theo từng hoàn cảnh, theo những đoàn sủng và những chức vụ khác nhau. Sự khác biệt này không phải chỉ dựa vào tuổi tác, nhưng còn tùy thuộc vào sự khác biệt của phái tính, tài năng, và tư cách, cũng như liên hệ đến những ơn gọi và hoàn cảnh của từng người. Tính chất đa diện này khiến cho đời sống Giáo Hội. linh động và cụ thể hơn.
TUỔl TRẺ, TRẺ EM VÀ NGƯỜl LƠN TUỔI
Tuổi trẻ, hy vọng của Giáo Hộl
46. Thượng Hội Đồng đã đặc biệt lưu ý đên tuổi trẻ. Và thật vậy, tại nhiều quốc gia trên thế giới, giới trẻ chiếm một nửa dân số, và thường cũng là một nửa số của Dân Chúa trong các quốc gia đó. Nhìn vào khía cạnh này, giới trẻ đã tạo được một sức mạnh phi thường và trở thành một thách đố lớn lao cho tương lai của Giáo Hội. Vì qua giới trẻ, Giáo Hội nhìn thấy con đường hướng về tương lai đón chờ mình, và tìm gặp nơi đó hình ảnh nhắc nhở về chính tuổi thanh xuân đầy phấn khởi do thần khí Đức Kitô không ngừng làm phong phú đời sống Giáo Hội. Chính trong ý nghĩa đó Công Đồng đã định nghĩa những người trẻ là "niềm hy vọng của Giáo Hội".(168)
Trong bức thư gửi thanh thiếu niên nam nứ thế giới, ngày 31 tháng 3 năm 1985, Ta nói rằng: "Giáo Hội nhìn lớp người trẻ, đúng hơn, một cách đặc biệt, Giáo Hội nhìn lại tuổi trẻ của mình trong mỗi người và chung toàn giới trẻ. Việc đó đã thể hiện ngay từ đầu vào thời các Tông đồ. Nhưng lời của Thánh Gioan trong thư thứ nhất là một trong những bằng chứng đặc biệt: "Hỡi các bạn trẻ, Cha viêt cho các bạn, vì các bạn đã thắng được sự ác. Hỡi thanh thiêú niên nam nữ, Cha viết lời này vì các con đã biết Chúa Cha..., Cha viết cho các con vì các con là những kẻ dũng cảm, và Lời Chúa cư ngụ trong các con" (1 Jn. 2:13 và tlếp theo...). Trong thế hệ chúng ta, vào những ngày cuối cùng của thế kỷ hai mươi, chính Giáo Hội cũng tự nhìn mình qua hình ảnh giới trẻ. (169)
Đừng nên nhìn giới trẻ như chỉ là đối tượng của môí lo âu cho Giáo Hội về phương diện mục vụ: Thực ra, họ là những "chủ nhân tích cực, tham dự vào công việc truyền bá Phúc âm và canh tân xã hội;(170) họ cần được khuyến khích để trở thành như thể' . Tuổi trẻ là thời kỳ khám phá đặc biệt sâu đậm về "bản ngã" cá biệt và về một "dự án cuộc đời riêng của mình". Đó là thời kỳ tăng triển phải được thực hiện trong "khôn ngoan, già dặn và ân sủng trước Thiên Chúa và trước người đời" (Lk. 2:52).
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng đã nói rằng: "Cảm thức của những người trẻ thâu nhận một cách sâu xa những giá trị của công bằng, bất bạo động và hoà bình. Tâm hồn họ bao dung tình huynh đệ, thân hữa và đoàn kết. Họ tận tụy hết mình cho những công cuộc đấu tranh bảo vệ phẩm chất đời sống và bảo vệ thiên nhiên. Nhưng họ cũng mang nặng những lo âu, ê chề, ưu tư và kinh hoàng của thê giới, và thêm vào đó những cám dỗ đặc biệt liên quan đến tuổi họ."(171)
Giáo Hội phải làm sống lại tình yêu đặc biệt mà Chúa Giêsu đã từng tỏ ra cho người thanh niên: "Chúa Giêsu nhìn anh tỏ dạ yêu thương" (Mk. 10.21). Đó là lý do tại sao Giáo Hội không ngừng loan báo Chúa Giêsu Kitô, tuyên xưng Phúc âm của Ngài như câu trả lời duy nhất và thỏa đáng cho những khát vọng căn bản nhất của người trẻ, như một đề nghị thiết tha kêu gọi từng người tự dấn thân: "hãy đến theo Ta" (Mk.10.21), một lời đề nghị nói lên sự thông phần vào tình yêu Cha Con của Chúa Giêsu đôí với Chúa Cha và việc tham gia vào sứ mệnh Cứu Chuộc nhân loại của Ngài .
Giáo Hội có nhiều điều phải nói với giới trẻ và giới trẻ có nhiều điều để nói với Giáo Hội. Cuộc đôí thoại song phương này phải được tiến hành một cách đầy nhiệt tâm, rõ ràng, và can đảm, để xúc tiến việc gặp gỡ giữa các thế hệ và những cuộc trao đổi giữa họ với nhau, và sẽ là một nguồn suối trong mát làm phong phú và trẻ trung cho Giáo Hội và xã hội. Trong sứ điệp gửi giới trẻ, Công Đồng tuyên bố rằng: Giáo Hội nhìn các bạn với nìêm tin tưởng và yêu thương... Giáo Hội chính là sự trẻ trung của thế giới... Hãy nhìn Giáo Hội và các bạn sẽ tìm thầý ở nơi đó khuôn mặt của Đức Kitô." (172)
Trẻ thơ và Nước Trời
47. Trẻ thơ là tuyệt đỉnh của tình yêu thương tinh tế và bao dung của Chúa Giêsu. Ngài dành riêng cho các em phúc lành của Ngài và hơn thế nữa, Ngài đã hứa Nước Trời cho các em (Mt. 19:13- 15, Mc. 10.14). Đặc biệt, Chúa đã đê cao vai trò tích cực mà các em đảm nhận trong Nước Chúa. Các em là biểu tượng hùng hồn, và là hình ảnh sáng chói về luân lý và tinh thần, những điều kiện thiết yếu để vào Nước Trời và sống một cuộc đời phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa: "Ta nói thật với các con, nếu các con không cải hóa để trở nên như những trẻ nhỏ, các con sẽ không vào được Nước Trời. Ai khiêm nhường như trẻ này sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời" (Mt. 18:3-5, Lk. 9. 48) .
Trẻ thơ nhắc nhở chúng ta rằng sự tăng triển trong việc truyền giáo của Giáo Hội có nền tảng sống động không phải nhờ vào các phương tiện hay tài năng sức lực của con người, nhưng nhờ vào ân sủng tuyệt đối của Chúa. Đời sống hồn nhiên vô tội và ân sủng của trẻ nhỏ, và ngay cả những khổ đau người ta bắt chúng phải cam chịu, nhờ vào thập giá Đức Kitô, trở thành một nguồn suối làm sung mãn sức sống siêu nhiên cho chính các em, và cho toàn Giáo Hội. Tất cả chúng ta phải cảm tạ và ý thức sâu xa về sự kiện này.
Ngoài ra phải nhận rằng ngay ở tuổi này, những khả năng hành động quí giá đã tnển nở liên quan đến việc xây dựng Giáo Hội, cũng như nhản-bản-hóa xã hội. Tất cả những điều Công Đồng xác nhận khi nói đến ích lợi của con cái trong gia đình là "Giáo Hội tại gia"; "là phần tử sống động của gia đình, trẻ em theo cách của mình giúp cha mẹ được thánh hóa."(173) Điều này cũng có thể lập lại khi nói đến mối tương quan giữa các em và Giáo Hội địa phương cũng như Giáo Hội hoàn vũ. Thần học gia và cũng là nhà mô phạm của thế kỷ 15, Jean Gerson đã nêu lên sự kiện đó như sau: "Trẻ thơ và thanh mên không phải là một thành phần không đáng kể của Giáo Hội." (174)
Bậc cao niên và ơn khôn ngoan
48. Đôi với những người già cả, mà thông thường một cách sai lầm bị xem như là những kẻ vô dụng, có khi còn được xem là một gánh nặng. Ta nhắc nhở những người này rằng Giáo Hội đòi hỏi và chờ đợi nơi họ phải theo đuổi sứ mệnh tông đồ và truyền giáo của họ. Đây không những là một công tác họ có thể làm và phải làm, mặc dầu ở vào tuổi này, nhưng chính vì ỏ tuổi đó mà sứ mệnh của họ mang một hình thái đặc biệt và độc đáo.
Thánh Kinh trình bày cho chúng ta thấy người cao niên như là biểu tượng của những người khôn ngoan và kính sợ Thiên Chúa (Sir. 25.4-6). Với ý nghĩa đó, "ơn huệ" của người già có thể đôí với Giáo Hội và xã hội là tạo thành những chứng tá của truyền thông đức tin. (Ps. 44:2, Ex. 12:26-27), bậc thầy khả kính (Sir. 6. 34, 3:11-12) và là người kiến tạo tình bác ái.
Ngày nay việc gia tăng con số những người lớn tuổi trong nhiều quốc gia trên thế giới, và tình trạng về hưu sớm tạo nhiều cơ hội cho công tác tông đồ của những người lớn tuổi. Đó là một công việc phải chu toàn với nhiều can đảm, phải biết quyết tầm vượt qua cơn cám dỗ muốn thu mình lại, luyến tiếc một dĩ vãng không còn trở lại nữa, và từ chối dấn thân vào thực tại vì những khó khăn gặp phải trong một thế giới không ngừng đổi mới. Ngược lại, luôn luôn cần phải ý thức rõ ràng vai trò mình trong Giáo Hội và xã hội, bởi vì vai trò này không bị ngưng trệ bởi tuổi đời, trái lại, chỉ là những hình thức mới. Thánh Vịnh ca tụng rằng: "Trong tuổi già, họ còn sinh hoa trái, họ còn đầy nhựa sông và sức trai trẻ, tuyên xưng đức công chính của Thiên Chúa" (Ps. 92:15-16). Ta nhắc lại điều Ta đã nói trong ngày Ngân Khánh của các bậc thượng thọ: "Đi vào thời kỳ thứ ba của cuộc đời phải được xem là một đặc ân: không những bởi vì không phải ai cũng may mắn sống đến tuổi này, nhưng nhất là vì đây là thời kỳ mà con người có thể nhìn lại quá khứ một cách cụ thể và rõ ràng, hiểu biết nhiều hơn và sống mãnh liệt hơn mầu nhiệm phục sinh, trở thành một mẫu mực sống trong Giáo Hội cho toàn thể Dân Chúa... Mặc dầu phải đương đầu với nhiều vấn đề phức tạp, phải chứng kiến sự suy nhược dần dần của thể xác, những thiếu sót của các tổ chức xã hội, những trì trệ của luật lệ lỗi thời, những thái độ thiếu thông cảm của một xã hội ích kỷ, vẫn không được nghĩ rằng mình đang đứng ra ngoài lề cuộc sống của Giáo Hội, là những thành phần thụ động của một thế giới quá biên động, nhưng là những chi thể tích cực sinh hoạt của một giai đoạn phong phú của đời sống con người về phương diện nhân loại cũng như về mặt siêu nhiên. Tuổi già vần còn có sứ mệnh phải hoàn thành, còn có nghĩa vụ phải đóng góp. Theo Thánh ý của Chúa, mỗi người là một cuộc sống luôn tiếp nôl, từ ánh loé đầu tiên của cuộc đời mình cho đến hơi thở cuôí cùng." (175)
NỨ GlỚl VÀ NAM GlỚl
49. Các Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng đã lưu tâm đặt biệt đến tình trạng vai trò của phụ nữ, trong một ý hướng song phương: Các Ngài nhìn nhận và thêm một lần nữa kêu gọi mỗi người nhìn nhận sự đóng góp cần thiết của nữ giới trong công cuộc xây dựng Giáo Hội và phát triển xã hội. Ngoài ra, Giáo Hội còn cố tâm khai triển một cuộc phân tích qui mô hơn về việc tham gia của phụ nữ vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội.
Dựa vào giáo huấn của Đức Gioan XXIII, vị Giáo Hoàng đã nhìn nhận việc nữ giới đã ý thức về chính nhân phẩm của mình, và việc gia nhầp của nhiều phụ nứ vào đời sống xã hội như một dấu chứng của thời đại. (176) Trước những hình thức hết sức đa dạng về tình trạng kỳ thị và cho ra ngoài lề mà phụ nữ phải cam chịu, chỉ vì họ là nữ giới, các Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng đã quả quyết nhiều lần và mạnh mê cần phải cấp thời bảo vệ và thăng tiến phẩm giá và sự bình đẳng của nữ giới đối với nam giới.
Nếu đó là công việc của mỗi người trong Giáo Hội cũng như trong xã hội, thì đặc biệt đó hẳn là công việc của chính phụ nứ. Họ phải tự cảm thấy cần dấn thân như những kẻ đấu tranh hàng đầu. Còn có nhiều cố gắng phải thực hiện, ở trong nhiều nơi trên thế giới và trong nhiều môi trường sống khác nhau, để nảo trạng bất công và tàn tệ xem thân phận con người như một đồ vật, một món hàng, một dụng cụ phục vụ cho lợi ích vị kỷ, cho việc tìm kiếm khoái lạc, mà phụ nữ là nạn nhân. Do đó, việc nhìn nhận phẩm giá con người của phụ nứ một cách chân thành và rõ rệt là bước đầu phải thể hiện để cổ xúy việc tham dự đầy đủ của nữ giới vào đời sống của Giáo Hội, cũng như cuộc sống xâ hội và công cộng. Cần phải có một sự đáp ứng dứt khoát hơn cho lời hiệu triệu mà Ta đã kêu gọi trong Tông Huấn Familiaris consortio liên quan đến quá nhiều hình thức kỳ thị mà phụ nữ là nạn nhân: "Ta yêu cầu tất cả mọi người phải dấn thân vào một công tác mục vụ đặc biệt mạnh mẽ hơn và sắc bén hơn để những kỳ thị đó dứt khoát phải được xóa bỏ, và đi đến việc chân nhận đầy đủ hình ảnh của Thiên Chúa sáng chói ra trong toàn thể nhân loại không phân biệt một ai". (177) Trong dòng tư tưởng đó, những Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã quả quyết: "Trong sự biểu lộ sứ mệnh của mình, Giáo Hội phải chống lại một cách mạnh mẽ tất cả các hình thái kỳ thị và lạm dụng mà phụ nữ là nạn nhân". (178) Và các Ngài còn nói: "Phẩm giá phụ nữ, từng bị tổn thương nặng nề trong dư luận quần chúng phải được phục hồi, nhờ vào việc tôn trọng cụ thể các quyền về nhân phẩm con người và nhờ vào việc thực thi giáo lý của Giáo Hội". (179)
Còn điểm liên quan đặc biệt đến việc tham dự tích cực và có trách nhiệm vào đời sống và sứ mạng của Giáo Hội, thì cần lưu ý là Công Đồng Vaticanô II đã nói rất rõ trong lời mời gọi sau: "Ngày nay, phụ nữ càng ngày càng dự phần một cách tích cực vào trong tất cả cuộc sống xã hội, cũng vì thế sự nới rộng việc tham gia của phụ nữ vào các lãnh vực khác nhau trong công cuộc tông đồ của Giáo Hội lại rất quan trọng." (180)
Trong thời kỳ hậu Cộng Đồng này, người ta cũng nhận thức nhiều hơn và sâu xa hơn những tài năng và trách nhiệm riêng của phụ nữ, cũng như ơn gọi đặc biệt của họ, sự nhận thức đó được khởi hứng đặc biệt từ Phưc âm và lịch sử Giáo Hội. Thật thế, đôi với những ai tin vào Phúc âm, nghĩa là lời nói và gương mẫu của Chúa Giêsu Kitô, vẫn là chốt điểm cần thiết và quyết định. Hơn lúc nào hết trong lịch sử, những điều này cần được phong phú và canh tân hơn.
Dầu không được gọi tham dự chức vụ của Mười Hai Tông Đồ, do đó không ở trong chức linh mục thừa tác, nhìêu phụ nữ đã theo Chúa Giêsu trong sứ mạng của Ngài và giúp đỡ các Tông Đồ (Lk. 8.2-3); các bà đã hiện diện bên Thánh Giá (Lk. 23?49) ; các bà đã tham dự trong cuộc an táng Chúa Giêsu (Lk. 23. 55) và sáng Phục Sinh các bà nhận và truyền tin Chúa Sống lại (Lk. 24:l-10); các bà cầu nguyện với các Tông Đồ tại phòng Tiệc Ly để đón chờ Thánh Linh (Acts. 1:14).
Theo dấu chân của Phúc âm, Giáo Hội ngay từ thời khai nguyên đã vượt ra ngoài tập tục văn hoá đương thời và mời gọi phụ nứ vào những công tác liên quan đên việc rao giảng Phúc âm. Trong các thư của Ngài, Thánh Phaolô nêu tên một sổ các bà tuỳ vào các chức vụ đặc biệt của mỗi người trong công cuộc phục vụ bên trong các cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên (Rom. 16.1-15, Pt. 4:2-3, Col. 4:15, 1 Cor.11:5, 1 Tm. 5.16). Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: "Nếu việc làm chứng của các Tông Đồ thành lập ra Giáo Hội, thì việc làm chứng của phụ nữ đã đóng gúp rất nhiều trong việc nuôi dưỡng Đức Tin của các cộng đoàn Kítô hữu đầu tiên." (181)
Cũng như thời khai nguyên và trong tiến trình phát triển Giáo Hội, dĩ nhiên với những khác biệt về hình thức và cách thế đã luôn có những phụ nữ đảm trách những vai trò lắm lúc quyết định và hoàn thành những công tác có giá trị lớn lao cho Giáo Hội. Đó là cả một sinh hoạt rộng lớn, thường rất khiêm tốn và kín đáo, nhưng không kém phần quyết định trong việc phát huy và thánh hóa của Giáo Hội. Lịch sử đó còn cần phải theo đuổi, hơn thế nữa cần phải phổ biên và tăng gia thêm, song song với việc nhận thức về nhân phẩm của nữ giới và ơn gọi của họ một cách rộng rãi và bao quát, đồng thời xúc tiên nhanh chóng một "đường lối mới rao giảng Phúc âm" và một "hình thức nhân bản" rộng rãi hơn trong eác tương quan xã hội.
Tổng hơp các chỉ thị của Công Đồng Vaticanô II phản ảnh sứ điệp Phúc âm, cũng như lịch sử Giáo Hội, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nêu lên "lời khuyên cáo" rõ rệt này: "Bằng chính cuộc sông và bởi sứ mạng của mình, Giáo Hội phải nhìn nhận tất cả các ơn huệ của phái nam cũng như phái nữ, và khai triển áp dụng các ơn huệ đó." (182) Tiêp theo: "Thượng Hội Đồng này tuyên bố rằng Giáo Hội buộc phải nhìn nhận và xử dụng tất cả các ơn huệ kinh nghiệm và khả năng này của nam cũng như nữ để sứ mạng của Giáo Hội được hữu hiệu hơn (Thánh bộ Giáo Lý Đức Tin, Giáo Huấn về sự tự do công giáo và sự giải phóng,72". (183)
Các nền tảng nhân chủng và thần học
50. Nêú muốn bảo đảm cho nữ giới những chỗ đứng trong Giáo Hội và trong xã hội, cần phải tôn trọng điều kiện này: phải nghiên cứu đứng đắn và sâu rộng những nền tảng nhân chủng về nam hay nữ tính của con người, nhằm xác định cá tính của nứ giới trong tương quan dị biệt và hổ trợ với nam giới, và như thế, không những chỉ nhằm truy cứu những vai trò và chức phận đảm đang được, nhưng còn sâu xa hơn thế nữa, nhằm ý thức cơ cấu của nhân vị và ý nghĩa của nó. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã cảm nhận rõ ràng yêu sách đó khi các Ngài qủa quyết rằng "các nền tảng nhân chủng và thần học cán được nghiên cứu sâu xa nhằm đưa đến giải pháp cho các vấn đề liên quan đến ý nghĩa đích thực và phẩm giá của cả hai phái". (184)
Khi chú tâm khảo sát về các nền tảng nhân chủng và thần học của nữ giới, Giáo Hội xác quyết sự có mặt của mình trong tiến trình lịch sử của các phong trào thăng tiến phụ nữ, và khi truy cứu tận nguồn gốc nhân vị của phái nữ, Giáo Hội đã cống hiến phần đóng góp quí giá nhất. Nhưng trước tiên và còn sâu xa hơn, Giáo Hội chủ trương vâng phục Thiên Chúa, Đấng tạo dựng con người "theo hình ảnh Ngài", "đã tạo dựng nên một nam và một nứ" (Gn. 1:27); Giáo Hội chủ trương đón nhận lời kêu gọi của Thiên Chúa đòi hỏi phải hiểu biết, khầm phục và sống ý định ngay từ "lúc ban đầư" đã ẩn dấu một cách không thể xóa trong chính ngay nhân vị - người nam và người nữ và, do đó, trong những cơ cấu mang đầy ý nghĩa và trong nguồn năng động sâu xa của nó. Và đúng thế, ý định đó, một ý định đầy khôn ngoan và yêu thương, cần phải được khai phá trong tất cả sự phong phú của nó. Sự phong phú khởi điểm từ "lúc ban đầư", tuần tự phát huy và thể hiện suốt tiến trình lịch sử cứu độ, và đạt đến đỉnh cao trong "thời viên mãn" khi "Thiên Chúa đã sai Con Ngài, sinh bởi một người nữ" (Gal. 4:4). Sự "viên mãn" đó vẫn tiếp tục trong lịch sử: việc hiểu biết ý định của Thiên Chúa tiếp diễn và phải tiếp diễn không ngừng trong Đức Tin của Giáo Hội, và cũng nhờ vào cuộc sống của biết bao nhiêu phụ nữ Kitô hữu. Ta cũng không thể bỏ qua phần đóng góp của nhiều bộ môn khoa học nhân văn, và các nền văn hóa khác nhau đem lại nhờ vào một lôí suy luận được soi dọi như thế, phần đóng góp đó có thể giúp ta lãnh hội và xác định những gíá trị, và những yêu sách thuộc bản tính bền vững của người phụ nữ, cũng như nhứng giá tn và những yêu sách liên quan đến tiên hóa lịch sử của các nền văn hóa. Công Đồng Vaticanô II đã nhắc nhở chúng ta điều đó: "Giáo Hội qủa quyết rằng, bởi dưới những thay đổi, có nhiều điều tồn tại mãi mãi trong Đức Kitô, Đầng tự hữu, hôm qua, hôm nay và muôn đời (Heb. 13:8)". (185)
Những nền tảng nhân chủng và thần học của nhân phẩm người phụ nữ đã được bàn đến trong Tông Thư về phẩm giá và ơn gọi của phụ nữ. Văn kiện dó lập lại, khai triển và chi tiết hơn những suy tư trong bài dạy giáo lý ngày thứ tư bàn về "thần học của thể xác" trong một khoảng thời gian dài, mục đích là để vừa hoàn thành một lời hứa, đã nêu lên trong Thông Điệp Redemptoris Mater (Mẹ Đấng Cứu Thê) (186), và cũng để đáp ứng lời yêu cầu của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng.
Do tính cách thần học Thánh Kinh của bản văn, việc đọc Tông Thư Mulieris dignitatem (Phẩm giá người phụ nữ), có thể làm cho mọi người, nam cũng như nữ, cảm hứng và đặc biệt khích lệ những đại diện của các nền khoa học nhân văn và các bộ môn thần học tiêp tục công trình nghiên cứu phê bình, hầu dựa trên nền tảng nhần phẩm của người nam và người nữ, và trong tương quan hỗ tương của haì giới, đào sâu hơn những giá trị và ần huệ đặc biệt của nữ tính, không những trong địa hạt của đời sống xã hội, mà hơn thế nữa trong lãnh vực của cuộc sống Kitô hữu và Giáo Hội.
Suy tư về những nền tảng nhân chủng và thần học của nứ tính phải soi rọi và hướng dẫn câu trả lời của Kitô-hưũ đôí với thắc mắc mà người ta thường đặt ra, và lắm lúc hết sức sắc bén, về "chỗ đứng" mà phụ nữ có thể và phải đứng trong Giáo Hội và trong xã hội.
Từ lời nói và thái độ của Đức Kitô, luôn là mẫu mực cho Giáo Hội, rõ ràng là không hề có một sự kỳ thị nào trên bình diện tương quan gắn bó với Chúa Kitô, trong Ngài "không còn là người nam hay người nữ, bởi vì tất cả anh chị em chỉ làm thành một trong Đức Giêsu Kitô" (Gal. 3:28) , và trên bình diện thông dự vào cuộc sống và sự thánh thiện của Giáo Hội, như lời tiên tri Joen đã xác chứng một cách kỳ diệu và được thể hiện trong ngày Lễ Hiện Xuống: "Ta đã đổ tràn Thần Khí Ta trên tất cả mọi xác thịt, và con trai và con gái các người sẽ nói tiên tri" (Jl 3:1; Acts.2:17 và tiếp theo...) Người ta cũng đọc được điều đó trong Tông Thư về phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ: "Cả hai người nữ cũng như người nam... đều có thể đón nhận chân lý của Thiên Chúa và tình Ngài trong Thánh Linh. Người nam cũng như người nữ đều đón nhận Ngài "đến" mang ơn cứu độ và thánh hóa. " (187)
Sứ mệnh trong Giáo Hội và giữa thế giới
51. Còn về việc tham dự vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội, chắc chắn rằng nhờ bí tích Rữa Tội và Thêm Sức, người phụ nữ - cũng như người đàn ông - tham dự vào ba chức vụ của Chúa Giêsu Kitô - Linh Mục, Tiên Tri và Vua - và do đó có tư cách và phải dấn thân trong công cuộc tông đồ nền tảng của Gìáo Hội, đó là việc rao giảng Phúc âm. Ngoàí ra, cụ thể hơn, trong việc hoàn thành sứ vụ tông đồ này, người phụ nữ lại được kêu gọi để hưởng dụng những "ân huệ" nêng của họ: Trên tất cả, ơn mang phẩm giá con người, được biểu lộ qua ngôn ngữ và hành động làm chứng cho đời mình, liên hệ mật thiết đến ơn gọi của người phụ nữ.
Trong việc tham dự vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hộí, người phụ nứ không thể nhận chức linh mục. Đó là một sự an bài Giáo Hội luôn chân nhận nơi ý muốn rõ rệt hoàn toàn tự do và tối thượng của Chúa Giêsu Kitô, khi Ngài chỉ chọn những người trong nam giới để trở thành Tông Đồ của Ngàl; (188) là một sự an bàì có thể được hiểu qua sự tương giao giữa Chúa Kitô là Phu Quân và Giáo Hội là Hiền Thê của Ngài. (189) Chứng ta đang đứng trên quan niệm về chức vụ, chứ không phải là quan niệm về nhân phẩm hay sự thánh thiện. Thật ra, ta cần phải khẳng định rằng: "Dẫu Giáo Hội có một cơ cấu "phẩm cấp", tuy nhiên cơ cấu này hoàn toàn được xếp đặt để đưa đến việc thánh hóa nhiệm thể của Chúa Kitô". (190)
Nhưng, như Đức Phaolô VI đã nói, nếu "chúng ta không có thể thay đổi thái độ của Chúa chúng ta, hay lời kêu gọi Ngài nói với các phụ nữ, thì chúng ta lại có thể nhìn nhận và cổ võ vai trò người phụ nứ trong sứ mệnh rao giảng Phúc âm và trong đời sống của cộng đồng Kitô hữu." (191)
Chúng ta cần phải đi từ nhận thức trong lý thuyết về sự hiện diện tích cực và trách nhiệm của phụ nữ trong Giáo Hội, qua việc thực thi nhận thức đó bằng thực hành.
Tông Huấn này phải được đọc trong ý nghĩa rất chính xác như thế, nó được gửi đến những tín hữu giáo dân, bằng cách cố ý phân biệt và lập đi lập lại hai chứ "người nam và người nữ". Hơn nữa Giáo Luật có nhiều dự liệu về việc tham dự của phụ nữ vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội: đó là những dự liệu cần phải được am tường một cách rộng rãi hơn, đồng thời phải tôn trọng những khác biệt về cảm thức văn hóa, và những nhu cầu mục vụ được thể hiện hợp thời và minh bạch hơn.
Thí dụ việc tham gia của phụ nữ vào các Hội Đồng mục vụ của giáo phận và giáo xứ, cũng như tham dự vào các phiên họp cấp địa phận hay các Cộng đồng địa phương. Chính trong ý nghĩa đó các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã viết: "Phụ nứ tham dự vào đời sống của Giáo Hội không bị một kỳ thị nào ngav cả trong việc tham khảo và soạn thảo các quyết định". (192) Nơí khác lại còn viết: "Nữ giới đã có một chỗ đứng quan trọng trong việc truyền bá Đức Tin và hoàn thành các công tác đủ loại trong đời sống của Giáo Hội, phải được tham dự vào việc soạn thảo các tài liệu mục vụ và những sáng kiến truyền giáo; họ phải được nhìn nhận như là những người hợp tác trong sứ mệnh của Giáo Hội trong gia đình, trong đời sống chức nghiệp và trong cộng đồng xã hội." (193)
Trong lãnh vực đặc biệt hơn nữa về việc rao giảng Phúc âm và giáo lý, phải cổ động hơn nữa về việc bổ xung phụ nữ vào các trách vụ trong việc truyền bá Đức Tin, không phải chỉ trong gia đình, nhất là trong các phạm vi khác nhau của môi trường giáo dục, hay nói một cách tổng quát là ở bất cứ đâu đó có sự tiếp nhận Lời Chúa, tiếp nhận sự hiểu biết và truyền thông Lời Ngài, kể cả bằng phương tiện học hỏi, truy cứu và giảng dạy thần học.
Trong khi phát triển rộng rãi việc dấn thân vào công việc truyền bá Phúc âm, người phụ nữ sẽ cảm thấy rõ ràng hơn nhu cầu tự mình cần được lãnh nhận Phúc âm. Như vậy, bằng cái nhìn được soi dẫn bởi Đức Tin. (Eph. 1:18), người phụ nữ sẽ có thể phân biệt được điều gì thật sự tương xứng với phẩm cách và ơn gọí của mình dù dưới chiêu bài "nhân phẩm" hay nhân danh "tự do" và "tiến bộ". Ngược lạí những giá trị sai lạc này sẽ đưa đẩy người phụ nữ đến tình trạng bất thuận lợi cho việc củng cố các giá trị chân thực. Khiến họ tự mang trách nhiệm về sự suy thoái đạo đức của con người, của môi trường sống và của xã hội. Thực thi một lối "phân biện" như thế là một bước đi cần thiết của lịch sử mà ta không thể trì hoãn, và đồng thời đó là một việc làm có thể thực hiện được và thiết yếu phải thực hiện mà phụ nữ Kitô hữu cần tham gia khi họ tham dự vào trách vụ rao giảng của Đức Kitô và của Giáo Hội Ngài. Việc "phân biện" mà Thánh Phaolô nhiều lần nhắc nhở, không phải chỉ là việc đánh giá thực tại, và các biên cố xảy ra theo ánh sáng của Đức Tin, nó còn là một quyết định cụ thể và là một cuộc dấn thân tích cực, không phải chỉ ở bên trong Giáo Hội, mà ngay cả trong xã hội con người.
Người ta có thể quả quyết là tất cả các vấn đề của thời đại chúng ta mà Hiến Chế Công Đồng (Vui Mừng và Hy Vọng) đã đề cập đến trong phần thứ hai - nhứng vấn đề mà thời gian trôi qua dã không thể giải quyết, và cũng không thể đơn giản được - các vấn đề này đòi hỏi sự hiện diện tích cực của người nứ giới và sự đóng gúp tiêu biểu và không thể thay thế của họ.
Đặc biệt, hai trách vụ lớn lao được trao cho người phụ nữ đang được mọi người lưu ý.
Trước tiên, trách vụ thể hiện toàn nhân phẩm của mình trong cuộc đời làm vợ và làm mẹ. Phụ nữ ngày nay có nhiều khả năng mới mẻ để hiểu và thể hiện phong phú hơn những giá trị con người Công Giáo hàm chứa trong cuộc sống hôn nhân, và trong kinh nghiệm là cha mẹ. Chính người đàn ông - là chồng và cha trong gia đình - có thể nhờ vậy mà tự sửa sai những hình thái bỏ bê cách này hay cách khác, hay chỉ có mặt thất thường hoặc không đầy đủ; hơn thế nữa người đàn ông có thể thắt chặt những tương giao mới mẻ và có ý nghĩa trong việc trao đổi thật sự giữa người với người trong gia đình nhờ vào sự can thiệp thông minh, âu yêm và cứng rắn của người vợ.
Một trách vụ khác là việc bảo đảm lãnh vực đạo lý của văn hóa, nghĩa là một lãnh vực thật sự con người, đúng hơp với nhân phẩm con người trong đời sống cá nhân và xã hội. Dường như Công Đồng Vaticanô II đã liên kết lãnh vực đạo lý của văn hóa và sự tham dự của gláo dân vào sứ mệnh vương giả của Chúa Kitô: "Người giáo dân nên chung sức đem lại cho các cơ chế và các điều kiện sống trên thế giới những bước khai hóa thích hứp, khi chúng tạo nên dịp gây nên tộì lỗi , để tất cả cấc điều đó trở nên thích ứng với những lề luật của công bình và thuận lợi cho việc thực thi các nhần đức thay vì làm trở ngạỉ. Hành động như thế, giáo dân làm cho văn hóa và các việc làm con ngườl thấm nhuần gíá trí đạo đức".(194)
Nêu nữ giớì tham dự tích cực và có trách nhỉệm điều hành các cơ chế, bằng vìệc bảo vệ tính cách ưu tiên của các gìá tr! con người trong các cộng đồng thì nhưng lời của Công Đồng mà Ta vừa mớì nêu ở trên sẽ thíểt định được lãnh vực sinh hoạt tông đồ quan trọng của người phụ nữ. Trong tất cả các lãnh vực sống của các cộng đồng này, từ bình diện xã hộl kỉnh tế đến xâ hội chính trị, phải tôn trọng và cổ võ nhân phẩm của ngươỉ phụ nữ và ơn gọi riêng biệt của họ, không những trong địa hạt cá nhân mà còn có tính cách cộng đồng, không những trong trách nhíệm đã trao phó cho họ, mà còn ở trong các khuôn khổ được bảo đảm một cách công bằng do các luật lệ dân sự.
"Ngườì đàn ông ở một mình không tốt; Ta hãy tạo cho nó một người trợ gíúp tương hợp với nó" (Gn. 2:18). Thiên Chúa Sảng Tạo đã giao phó ngườí đàn ông cho người đàn bà. Hiển nhiên, con người đã được giao phó cho tất cả mọi người, nhưng một cách đặt biệt đã được giao phó cho một người đàn bà, bởi vì chính ngườì đàn bà nhờ vào kinh nghiệm đặc biệt về tài làm mẹ của mình, dường như đươc phú bẩm tính nhạy cảm đặc biệt với con người, và đối với nhưng gì tạo sự lợi ích đích thực cho con ngườí, bắt đầu bằng giá trị căn bản của đời sống. Những khả năng và trách nhiệm của người phụ nữ trong địa hạt này thật lớn lao, khi mà sự phát tnển vê khoa học và kỹ thuật không còn dựa theo ánh sáng của sự khôn ngoan đích thực; thêm vào đó còn có nguy cơ "phi nhân hóa" đời sống con người, nhất là khi cuộc sống này cần đến một tình yêu sâu đậm hơn và một sự tiêp nhận cao thượng hào hiệp hơn!
Khi đem ơn ích và tài năng của mình phục vụ Giáo Hội và xã hội, người phụ nứ đồng thời tìm được sự triển nở cá nhân đích thực - một khía cạnh ngày nay đang được nhấn mạnh rất nhiều - và đóng góp tài sức mình một cách hết sức độc đáo vào sự hiệp thông Giáo Hội, và niềm phấn khởi truyền giáo của dân Chúa.
Trong viễn tượng như thê, cũng cần bàn về người đàn ông, chứ không phải chỉ nhằm riêng giới phụ nữ.
Nam-nữ cùng hiện diện và cùng hợp tác
52. Trong diễn tiến những cuộc họp của Thượng Hội Đồng, nhiều phát biểu đã bày tỏ môí lo âu rằng việc nhấn mạnh quá đáng về thân thế và vai trò của phụ nữ có thể đưa đên việc quên lãng không thể chấp nhận dành cho nam giới. Thật vậy, trong nhiều môi trường sinh hoạt của Giáo Hội, người ta phàn nàn về việc vắng mặt của các ông hoặc rất ít người tham dự. Một số trong đó lại bỏ qua trách nhiệm đóng góp với Giáo Hội của mình, vì thế phái nữ phải gánh vác: Thí dụ, tham dự vào nghi thức kinh nguyện nhà thờ, giáo dục và đặc biệt dạy giáo lý cho trẻ em, hiện diện trong những cuộc trao đổi tôn giáo hoặc văn hóa, cộng tác vào các sáng kiến từ thiện và truyền giáo.
Cần phải nỗ lực trong đường hướng mục vụ để có sự phôl hợp và cộng tác giữa nam và nữ để việc tham dự của các tín hữu giáo dân vào sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội được trở nên đầy đủ, nhịp nhàng và phong phú hơn.
Lý do căn bản đòi buộc và giải thích sự hiện diện và hợp tác nam nữ không phải chỉ vì nhằm tăng thêm ý nghĩa và làm cho công tác mục vụ của Giáo Hội hưu hiệu hơn, lại càng không phải để đáp ứng khía cạnh xã hội học trong vấn đề tạo nên một khung cảnh đầm ấm có tính cách nhần loại gồm có nam có nữ. Nhưng trước tiên đây là việc thể hiện ý định ban đầu của Tạo Hóa, Đấng từ "thuở khai nguyên" đã muốn rằng con người phải "như một sự hơp nhất giữa nam và nứ" và đã dựng nên một nam và một nữ làm thành cộng đồng đầu tiên, căn bản của tất cả các cộng đồng khác, và đồng thời như một "dấu chứng" của cộng đồng. Ngôi vị tương giao trong yêu thương tạo thành mầu nhiệm cho cuộc sống gắn bó của Thiên Chúa duy nhất và ba Ngôi Thiên Chúa.
Chính vì lý do đặc biệt như thế mà hình thái phổ biến nhất và tinh tế nhất, đồng thời cũng là cơ bản nhất để bảo đảm sự hiện diện phôí hợp và hòa hợp nam nữ trong cuộc sống và trong sứ mệnh của Giáo Hội, chính là việc chu toàn các trách vụ, thi hành các trách nhiệm vợ chồng và gia đình Công Giáo, trong đó sự phong phú của các hình thức vợ chồng, cha mẹ, con cái và anh em. Tông Huấn Familiaris consortio nói rằng: "Nếu gia đình Công Giáo là một cộng đồng mà các môí giây liên hệ luôn được canh tân bởi Chúa Kitô qua Đức Tin và các Bí Tích, sự tham gia của gia đình Công Giáo vào sứ mạng của Giáo Hội phải được thực hiện một cách cộng đồng; vợ chồng cùng nhau với tư cách là một cặp hôn nhân, cha mẹ và con cái, với tư cách là gia đình, phải sống đời phục vụ Giáo Hội và thế giới... Ngoài ra gia đmh Công Giáo xây dựng nước Chúa trong lịch sử qua cuộc sống thực thi hằng ngày bằng đời sống riêng biệt của mình: Việc tham dự của gia đình Công Giáo vào sứ mệnh rao giảng, tư tế và vương giả của Chúa Giêsu Kitô và Giáo Hội Ngài,(195) được diễn tả và thực hiện trong tình vợ chồng và gia đình; tình thương này phải được sống theo các giá trị và đòi hỏi của nó một cách trung tín và phong phú.
Đặt mình vàơ bôi cảnh đó, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhắc nhở ý nghĩa mà bí tích Hôn Nhân phải được thực hiện trong Giáo Hội và trong xã hội để soi sáng và khởi hứng tất cả các môí tương giao nam nứ. Chính trong ý nghĩa ấy các Ngài đã nhấn mạnh "mỗi một Kitô hữu cần phải sống và loan báo sứ điệp hy vọng chứa đựng trong môi tương giao giữa người nam và người nữ. Bí Tích Hôn Phôí thánh hóa môí tương giao này trong hình thức hôn nhân, và bắt đầu môí tương giao này như là một dấu hiệu của môí tương giao giữa Chúa Kitô và Giáo Hội; Bí Tích đó chứa đựng một nội dung giáo huấn có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của Giáo Hội, qua trung gian Giáo Hội, giáo huấn này phải được đưa đên cho thế giới ngày nay, tất cả những tương giao nam nữ phải bắt nguồn hứng khởi từ giáo huấn này. Giáo Hội còn tuỳ thuộc vào những giá trị tinh thần phong phú của mình một cách rộng rãi hơn nữa". (196) Do đó, chính cấc Nghị Phụ lại nêu lên "sự qúi mến đức trinh khiết và tôn trọng viêc sinh sản con cái cả hai cần phải được phục hồi giá trị",(197) để khích lệ và phát triển các ơn gọi khác nhau hầu bổ xung cách sống động sự hiệp thông trong Giáo Hội, nhằm phục vụ sự tăng triển không ngừng của việc hiệp thông này.
BỆNH NHÂN VÀ NGƯỜl ĐAU KHỔ
53. Con người được kêu gọi để tiến đên niềm vui, nhưng ngày nay, con người lại trải qua biết bao nhiêu hình thức đau đớn và thống khổ. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, trong Sứ Điêp cuối cùng của các Ngài đã gởi đến cho mọi người nam cũng như nữ đang chịu đựng những hình tbức đau đớn và thống khổ khác nhau, những lời này: "Hỡi các bạn, những kẻ bị bỏ rơi, các bạn đang bị xã hội tiêu thụ của chúng ta ruồng rẫy, các bạn là những kẻ bệnh hoạn, tật nguyền, nghèo khổ, đói khát, di cư, lưu đày, tù tội, thất nghiệp, già yếu, trẻ em bị bỏ rơi, và những kẻ cô đơn, nạn nhân của chiến cuộc và của tất cả các thứ bạo tàn, hậu quả của một xã hội quá tự do: Giáo Hội chia sẻ nỗi đau thương của các bạn; nỗi đau thương đó dẫn các bạn đến Thiên Chúa, giúp các bạn thông phần với khổ nạn Cứa Chuộc, làm cho các bạn sống trong ánh sáng Cứu Rỗi của Ngài. Chúng tôi mong chờ nơi các bạn để giáo huấn cho toàn thế giới hiểu được tình yêu là gì. Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để các bạn tìm ra được một chỗ đứng mà các bạn có quyền có trong xã hội và trong Giáo Hội." (198)
Trong khuôn khổ của một thế giới không biên cương, như thế giới đau khổ của con người, chúng ta hãy nhìn đến tất cả những ai đang mắc các bệnh chứng dưới nhiều hình thức: Thật vậy, bệnh nhân là sự biểu lộ thông thường và phổ biến nhất của con người đau khổ.
Tiếng gọi của Thiên Chúa gửi đến tất cả và mỗi một người trong họ: Những ai bệnh tật cũng được gửi đến làm thợ vườn nho của Chúa. Đau khổ thể xác cũng như thống khổ tâm hồn, không làm cho họ đi ra khỏi vườn nho mà ngược lại kêu gọi họ sống ơn gọi của con người, của người Kitô hữu, và tham dự vào sự phát triển Nước Chúa dưới những hình thái mới và qúi giá hơn cả. Những lời của Thánh Tông Đồ Phaolô phải trở thành chương trình sống, và trước tiên những lời đó là ánh sáng soi dẫn cho họ thấy ý nghìa của ân sủng phát xuất từ chính hoàn cảnh của họ: "Những gì còn thiêú cho đau khổ của Chúa Kitô thì ta hãy bằng lòng chịu trong xac thịt ta, vì lợi cho cho nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội (Col 1.24). Chính nhờ thể hiện cuộc khám phá đó Thánh Tông Đồ đã đi đến niềm vui mừng:"Cha vui mừng trong những đau khổ mà Cha gánh chịu vì các con" (Col. 1:24). Cũng thế, nhiều bệnh nhân có thể trở nên những người mang lạỉ nguồn vui cua Thanh Linh ở gíữa những thử thách" (1 Thes. 1:6) và là chứng tá công cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu. Trong một buổi họp của Thượng Hội Đồng một người tàn tật đã phát biểu như sau: "Rất cần phải nêu lên để ý thức rằng nhưng Kitô hữu sống trong những hoàn cảnh bệnh tầt, đau khổ, già yếu được Thiên Chúa mời gọi không phảì chỉ thông hiệp nỗi khốn khổ của họ với nỗi thông khổ của Chúa Kitô, nhưng ngay từ bây giờ họ được kêu gọi đón nhận cho chính họ và truyền lại cho kẻ khác nguồn sinh lực mớí và niềm vuí của Chúa Kitô phuc sinh (2 Cor. 4:10-11; 1 Pt. 4:13; Rom. 8:18 và kế) (199)
Về phần mình, Giáo Hội đã nêu lên đìêu đó trong Tông Thư Salvifici doloris (Sự đau thương cứu rỗi) - "Được sỉnh ra từ mầu nhỉệm cứu chuộc eủa Thập Giá Đưc Kttô, Giáo Hội có bổn phận phải cố tìm gặp con người một cách đặc biệt trên con đường đau khổ. Trong cuộc gặp gỡ đo, con ngươi "trở nên con đường của Giáo Hội " và đó là một trong những cơn đường quan trọng nhất. (200) Con ngừơi đau khổ là con đường của Gỉáo Hội, bởi vì trước tiên họ là con đường của chính Chúa Kitô, ngươi Samarítanô tất lành, không "bỏ con đường mình đi" nhưng "động lòng thương người đó đến gần... băng bó vết thương.. săn sóc ông ta" (Lk.10:32-34)
Từ thế kỷ này qua thế kỷ khác, cộng đoàn Công Giáo giữa muôn ngàn người bệnh tật và đau khổ, đã thực hiện dụ ngôn người Samarìtanô tốt lành bằng cách biểu lộ và thông truyền tình yêu cứu rỗi và ủi an của Chúa Kitô. Điều này được thể hiện do những người bằng đời hiến thân phục vụ người đau ốm, và qua việc dấn thân không ngừng của tất cả những người đặc trách các dịch vụ y tế. Ngày nay, ngay cả trong các bệnh viện và các cơ sở săn sóc sức khỏe của người Công Giáo, tín hữu giáo dân, nam cũng như nữ, càng ngày càng tăng thêm số người phục vụ đến nỗi có lúc gần như chiếm hầu hết hay chỉ còn có họ. Chính họ - bác sĩ, y tá nam nữ, nhân viên y tế và các trợ tá - hy sinh vì nghĩa hiệp là những kẻ được mời gọi để tạo thành hình ảnh sống động của Chúa Kitô và Giáo Hội trong tình yêu đôí với những người bệnh tật và đau khổ.
Canh tân sinh hoạt mục vụ
54. Gia sản qúi giá đó Chúa Giêsu Kitô "thầy thuốc của thân xác và tâm hồn", (201) đã để lại cho Giáo Hội không được để suy giảm, nhưng cần gia tăng giá trị và làm cho phong phú thêm qua nỗ lực phục hồi và phát huy một đà sinh hoạt mục vụ vừa phục vụ và đồng thời cùng hành động với nhứng người bệnh và những kẻ đau khổ. Cần có một sinh hoạt mục vụ có khả năng nâng đỡ và cổ võ thái độ ân cần, hiện diện, lắng nghe, đôí thoại, chia sẻ và trợ giúp cụ thể đốỉ với con người trong những giầy phút bệnh hoạn và đau khổ đang chịu thử thách nặng nề không những liên quan đến niềm tin vào cuộc sống, nhưng còn liên quan đến chính Đức Tin đôi với Thiên Chúa và tình yêu phụ tử của Ngài. Việc canh tán mục vụ này biêu lộ đầy ý nghĩa nhất trong khi cử hành các Bí Tích cùng với các bệnh nhần và đem lại cho họ sức mạnh trong cơn đau khổ và yếu nhược, niềm trông cậy trong lúc tuyệt vọng, tạo cho họ nơi chốn gặp gỡ và (niềm vui) ngày hội.
Một trong những mục tiêu của sinh hoạt mục vụ được canh tân và năng động này, phải được phốỉ hợp để bao hàm tất cả các thành phần cấu tạo nên cộng đồng Giáo Hội, là việc ý thức rằng người bệnh, người tàn phế, người đau khổ không chỉ là những người được Giáo Hội yêu thương, phục vụ mà thôi, mà còn là chủ thể tích cực và trách nhiệm trong cộng cuộc rao giảng Phúc âm và sự cứu rỗi. Trong cái nhìn đó, Giáo Hội loan báo một nguồn tin mới ở giữa lòng xã hội và các cao trào văn hóa đang đánh mất ý nghĩa sự đau khổ con người nên "cấm cản" không cho nói lên thực tế này. Nguồn tin mừng này loan báo cho ta ý thức rằng đau khổ có thể có một ý nghĩa tích cực cho con người và cho chính xã hội, vì đau khổ cần được cảm nhận để trở thành một hình thức thông dự vào sự khổ đau cứu độ của Chúa Kitô và niềm vui sống lại của Ngài, bởi vì đau khổ là một sức mạnh thánh hóa và xây dựng Giáo Hội.
Việc loan báo tin mừng đó trở nên đáng tin cậy khi nó không chỉ là một lời nói suông, nhưng được thể hiện qua chứng tá của cuộc sống, không những của những kẻ săn sóc sức khỏe cho người bệnh, người tàn phế và những sự đau khổ, mà còn qua chứng tá của chính những người bệnh, đã ý thức và có trách nhiệm hơn về vị thế và công tác của họ trong Giáo Hội và cho Giáo Hội.
Để "nền văn minh của tình yêu" có thể đâm hoa kết tráí trong thế giới đầy tràn khổ đau, nên đọc và suy ngắm kỹ bức Tông Thư SalvificirC; doloris, "sự đau thương cứu rỗi", mà ở đây Ta nhắc lại phần kết: "Như thế, những ai đau khổ và tin vào Chúa Kitô, đặc biệt những ai đau khổ vì niềm tin của mình vào nơi Ngài, Đấng đã chịu đóng đinh và đã sống lại, cần kết hơp lại với nhau bằng tâm trí dưới chân Thánh Giá trên đồi Canve, để những đau khổ của họ đã dược hiến dâng làm cho lời nguyện hiệp nhất của chính Đầng Cứu Chuộc sớm được thể hiện. Những người thiện tâm cũng cần kết hợp lại, bởi vì "Đấng Cứu Chuộc con người", con người đau khổ đã mang lấy trong mình những đau khổ thể xác và tinh thần của nhân loại qua mọi thời đại, từng treo mình trên Thánh Giá... để mọi người có thể tìm thấy trong tình yêu ý nghĩa cứu độ do những đau khổ của họ, và những giải đáp cho tất cả nhứng thắc mắc họ nêu ra. Chúng ta hãy dừng lại gần với tất cả những đau khổ của con người ngày nay, với Maria, Mẹ Đức Kitô, người đã đứng dưới chân Thánh Giá. Chúng ta kêu đến tất cả các Thánh qua bao thế kỷ đã đặc biệt thông dự những đau khổ của Chúa Kitô. Chúng ta xin các Ngài nâng đỡ chúng ta, và chúng tôi xin anh chị em tất cả những ai đau khổ hãy giúp đỡ chúng tôi. Chúng tôi xin chính những người yêú nhược hãy trở nên một nguồn sức mạnh cho Giáo Hội, và cho nhân loại. Trong cuộc tranh chấp ghê gớm giữa các sức mạnh của Thiện và ác mà thế giới ngày nay đang chiến đấu trước mặt chúng ta, cầu xin cho nỗi đau khổ của anh chị em được kết hợp với Thánh Giá của Đức Kitô đem lại sự toàn thắng" (202)
BẬC SỐNG VÀ ƠN GỌl
55. Các thợ vườn nho đều thuộc thành phần Dân Chúa - linh mục, nam nữ tu sỹ, tín hữu giáo dân - tất cả là đối tượng, đồng thời là chủ thể trong sự hiệp thông của Giáo Hội, và công việc tham gia vào sử mệnh cứu độ của Giáo Hội. Tất cả mọi người và mỗi người chúng ta sinh hoạt ở trong vườn nho duy nhất của Chúa, chung cho mọi người, với những đoàn sủng và những thừa-tác-vụ khác nhau bổ xung cho nhau.
Trước khi hành động, thì tự bản tính của các Kitô hữu đã là những cành của một cây nho xum xuê duy nhất, đó là Đức Kitô. Họ là chi thể sống động của một Thân Thể duy nhất của Chúa được xây dựng trong sức mạnh Thánh Linh. Xét về bản tính; nghĩa là điều đó không chỉ muốn nói là nhờ vào cuộc sống ân sủng và sự thánh thiện, nguồn suôí đầu tiên và sung mãn nhất của việc triển nở sứ mệnh tông đồ và truyền giáo của Hội Thánh, Mẹ chúng ta. Nó còn có nghĩa là bằng phương thế của đời sống thánh thiện của các linh mục và các phó tế, các nam nứ tu sỹ, các thành phần của các cơ chế xã hội, các tín hữu giáo dân.
Trong Giáo Hội Hiệp Thông, các bậc sống kết hợp chặt chẽ với nhau đến mức độ quyến chặt lấy nhau. Cùng một ý nghĩa sâu xa duy nhất cho tất cả mọi bậc sống, đó là một cách sống phẩm giá Kitô hữu giống nhau và ơn gọi phổ quát hướng đến sự thánh thiện trong sự hoàn hảo của tình yêu. Những sắc thái (của đời sống) vùa khác nhau vừa bổ sung, nên mỗi sắc thái là một khuôn mặt độc đáo, ta không thể lấn lộn, và đồng thời mỗi bậc sống ở vào một vị trí tương quan với các bậc sống khác để phục vụ cho tất cả.
Như thế, nét đặc biệt của bậc sống ngườl tín hữu giáo dân là tính cách trần thế. Người tín hữu giáo dân thực hiện một công tác của Giáo Hội bằng cách chứng thực và nhắc nhở cho linh mục, tu sỹ nam nữ, theo phương thế của mình, ý nghĩa mà thực tại trần thế chất chứa trong ý định cứu độ của Thiên Chúa. Về phần mình, lình mục thừa tác bảo đảm sự hiện diện thường trực của các Bí Tích của Đức Kitô, Đấng Cứu Độ qua các thởi gian và không gian. Đời tu trì chứng tá tính cách song mãn của Giáo Hội, nói một cách khác làm chứng hướng đi của Giáo Hội về Nước Trời, được hình dung trước, được thấy trước, và cảm nghiệm được nhờ việc tuyên khấn giứ đức khiết tinh, nghềo khó và vâng lời.
Trong toàn thể những bậc sống khác nhau, và trong mỗỉ một bậc sống tương quan với các bậc sống khác, tất cả đều phải phục vụ cho sự tăng triển Giáo Hội, đó là nhứng cách thế sống khác nhau kết hợp sâu xa vào mầu nhiệm hiệp thông" của Gíảo Hội, và kết hợp với nhau trong một đà tiên về một sứ mang duy nhất của Giáo Hội.
Bằng cấch đó, mầu nhiệm duy nhất và đồng nhất của Giáo Hộí khai mở và làm sống lại sự sung mãn vô biên của mầu nhiệm Chúa Kitô, trong sự khác biệt của các bậc sống Đơi mỗi ơn gọi, Cũng như các Nghỉ Phụ đã hoan hỉ nhắc lại Giáo Hội giống như một cánh đồng mà ta thấy có nhiều thứ cỏ, cây, hoa trái tuyệt vời và đẹp mắt. Thánh Ambriôsố víêt: "Một cánh đông trổ sinh nhiều tráí, những cánh đồng tốt nhất chính là nơi sản xuất nhiều hoa lẫn nhiều trái. Cánh đồng Giáo Hộì là nơi trổ sinh cả hoa lẫn trái. Ở đây anh chị em có thể thấy đức khiết tịnh trổ hoa, nơi khác đời sống góa bụa biểu dương sự khắc khổ của Giáo Hội như những rừng cây trong đồng bằng; ngoàí ra những cuộc hôn nhân được Giáo Hội chúc phúc như ngày mùa gặt hái đổ đầy hoa trái vào các kho lẫm bao la của thế giởi, và máy ép nho của Chúa Giêsu đầy ắp trái nho cua vườn nho sai trái, làm phong phú đờì sống hôn nhân Công Giáo." (203)
Những ơn gọi khác nhau của đời sống giáo dân
56. Sự khác biệt phong phú của Giáo Hộỉ được biểu dương một lần nữa ở bên trong mỗi bậc sống. Nói cách khác, mỗi bậc sống của người giáo dân đã có nhiều "ơn gọi" khác nhau, đó là những đường lối thiêng liêng và tông đồ khác nhau liên quan đến mỗi người tín hữu giáo dân. Trong những "ơn gọi chung" của người giáo dân cũng có nhiều "ơn gọi nêng". Điều này, chúng ta có thể nêu lên kinh nghiệm sống thiêng liêng, viên mãn trong Giáo Hội ở thời gian gần đây và đã đua nở dưới nhiều hình thức các tu hội giáo dân khác nhau. Nó cho thấy rằng người tín hữu giáo dân và ngay cả linh mục cũng có thể sống lời khuyên Phúc âm là nghèo khó, khiết tịnh, và vầng lời bằng việc tuyên khấn hoặc tuyên hứa, nhưng vẫn có thể chu toàn đời sống giáo dân hay giáo sỹ đặc biệt của mình. (204) Cũng như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã ghi nhận như sau: "Chúa Thánh Thần còn soi sáng những hình thức tận hiến khác nhau được các tín hữu giáo dân thực hiện trong khi vẫn hoàn toàn sống đời giáo dân của họ". (205)
Chúng ta có thể kết luận bằng cách đọc lại tư tưởng của Thánh Phanxicô de Salles, Người đã từng cổ động nhiều lôí sống thiêng liêng của giáo dân. (206) Khi nói về "lòng đạo đức" nghĩa là sự trọn lành của người Kitô hữu hoặc "sông theo ơn Chúa Thánh Thần", Ngài trình bày một cách đơn sơ và minh bạch ơn gọi nên Thánh của tất cả Kitô hữu trong khi nhấn mạnh hình thức đặc biệt mà trong đó mỗi Kitô hữu phải chu tất: "Thiên Chúa truyền dạy cho thụ tạo, cây phải sinh trái, mỗi cây theo giống của mình" (Gn.1:11). Cũng vậy Ngài đòi buộc người Kitô hữu là những cây sống động trong Giáo Hội của Ngài, phải trổ sinh hoa trái thiêng liêng mỗi người tùy vào phẩm chất và ơn gọi của mình. Sự trọn lành phải được người quân tử, thợ thuyền, đầy tớ, vương tước, góa bụa, thiếu nữ, phụ nữ có gia đình phải thể hiện một cách khác nhau; không chỉ riêng vậy mà thôi, nhưng phảí thích ứng việc thi hành đời sống trọn lành theo khả năng, công việc và bổn phận của riêng mỗi người... Thật là lầm lẫn, và còn là tà đạo, khi loại bỏ đời sống đạo hạnh ra khỏi trại binh lính, cửa hàng của các người thủ công, đền đài vua chúa, hoặc tổ ấm gia đình. Hỡi kẻ mộ mến Thiên Chúa, con đường trọn lành hoàn toàn chiêm niệm, khổ tu hay tu sỹ thật ra không thể áp dụng cho những lôí sống trên. Nhưng ngoài ba lôí sống tu đó còn nhiều hình thức khác để nên thánh thích ứng cho những ai sống đời sống thế tục dù ở hoàn cảnh nào, chúng ta có thể và phải hướng đên đời sống trọn lành." (207)
Trong chiều hướng đó, Công Đồng Vatican II đã viết: "Đời sống thiêng liêng này của giáo dân phải mặc những nét riêng biệt thể theo điều kiện sống của mỗi người (đời sống vợ chồng và gia đình, đời sống độc thân và goá bụa), hoàn cảnh đau ốm, sinh hoạt nghề nghiệp và xã hội. Mỗi người phải không ngừng phát huy phẩm cách và ơn đã nhận được, đặc biệt những ơn riêng thích ứng với điều kiện sống và xử dung những ơn Chúa Thánh Linh đã ban cho mình. (208)
Nếu có nhiều ơn gọi thiêng liêng của Chúa Thánh Linh, thì trong một ý nghĩa nào đó, lại có vô số những cách sống của tất cả các thành phần trong Giáo Hội là những thợ làm trong vườn nho của Chúa, xây dựng Thân Thể mầu nhiệm Đức Kitô. Thật vậy, mỗi người trong tính cách duy nhất của lịch sử đời sống mình đã được gọi đích danh để đóng góp phần riêng của mình cho tiến trình hoàn thành Nước Thiên Chúa. Không một tài năng nào dù nhỏ bé đến đâu, lại có thể bị che dấu hoặc không dùng đến (Mt. 25:24-27).
Thánh Tông Đồ Phêrô đã cảnh giác chúng ta bằng những lời sau đáy: "Mỗi người tùy theo ơn Chúa ban mà phục vụ kẻ khác, như những người quản lý trung tín giữ mọi ân sủng của Thiên Chúa" (1 Pt. 4:10).
Chương V
ĐÊ CHÚNG CON MANG LẠI HOA TRÁI
Công việc đào cạo người tín hữu giáo dân
PHẢl LUÔN LUÔN ĐẠT ĐẾN MỨC TRƯỞNG THÀNH
57. Hình ảnh cây nho và cành nho trong Phúc âm khai mở cho ta thấy một lãnh vực căn bản khác của đời sống và sứ mạng người tín hữu giáo dân: lời mời gọi phải lớn lên và không ngừng tăng trưởng để luôn mang lại hoa trái. Chúa Cha săn sóc vườn nho của Ngài như một người trồng nho siêng năng. Israen khẩn khoản van xin Thiên Chúa ân cần hiện díện, với lời cầu nguyện như sau: "Lạy Thiên chúa của vũ trụ, xin Ngài hãy trở lại! Từ trời cao xin Ngài hãy nhìn xem, thăm viêng cây nho này. Xin bảo vệ cây nho mà cánh tay quyền lực của Ngài đã trồng" (Ps. 80.15-16). Đến phiên Ngài, Chúa Giêsu nói về công việc của Chúa Cha: "Ta là cây nho thật, và Cha Ta là người trồng nho. Cành nào ở trong Ta mà không sinh hoa trái, Cha Ta sẽ chặt nó đí, cành nào sinh hoa trái, Ngài cũng tỉa bớt đi cho càng sai trái hơn" (Jn. 15.1-2).
Sinh lực của các cành nho tùy thuộc vào sự nối kết với thân cây, là Chúa Giêsu Kitô: "Ai Ở trong Ta và Ta ở trong người ấy, người đó sẽ sinh nhiều hoa trái; vì ngoài Ta ra, các con chẳng làm gì được" (Jn.15.5).
Con người được Thiên Chúa kêu gọi trong sự tự do của mình để triển nở, phát huy và mang lại hoa trái. Con người không thể không đáp lại lời mời gọi đó, không thể không chu toàn trách nhiệm của chính mình. Những lời Chúa Giêsu sau đây nhằm nói đến trách nhiệm vừa kinh hoàng vừa phấn khởi đó: "Nêú ai khơng ở trong Ta sẽ bị quăng ra như cành khô héo, người ta sẽ thu lại bỏ vào lửa mà đôt đi" (Jn.16. 6)
Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa, Đấng kêu mời, và người được gọi trong trách nhiệm của mình, có thể và cần phải có một sự đào tạo toàn diện và liên lỉ những tín hữu giáo dân, như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã dành một phần lớn công việc của mình để khai triển vấn đề này. Đặc biệt, sau khi mô tả việc đào tạo người Kitô hữu như "một tiên trình liên tục của cá nhân để trưởng thành trong Đức Tin, và để nên giống với Đức Kitô theo ý muốn của Chúa Cha dưới sự dìu dắt của Chúa Thánh Thần", các Ngài đã quả quyết minh bạch rằng: "Việc đào tạo tín hữu giáo dân phải nằm trong những ưu tiên của giáo phận, và hiện diện trong các chương trình sinh hoạt mục vụ, làm thế nào để tất cả cố gắng của cộng đoàn (linh mục, tu sỹ, giáo dân) quy hướng về cùng đích này". (209)
KHÁM PHÁ VÀ SỐNG ƠN GỌl VÀ SỨ MỆNH CỦA RlÊNG MÌNH
58. Việc đào tạo các tín hữu giáo dân nhằm mục tiêu cơ bản là tìm ra ơn gọi riêng tư của mỗi người, để càng ngày càng tỏ lộ và làm cho mỗi người luôn sẵn sàng hơn nữa để sống ơn gọi đó, hầu chu toàn sứ mệnh riêng của mình.
Thiên Chúa gọi tôi và Ngài gửi tôi đến làm người thợ trong vườn nho của Ngài, Ngài gọi tôi và sai tôi đi để dọn đường cho nước Ngài đến trong lịch sử. Ơn gọi và sứ mệnh cá biệt đó xác định phẩm giá và trách nhiệm mỗi tín hữu giáo dân và kết thành giềng môi của chương trình đào luyện. Công việc đó nhằm mục đích giúp chân nhận phẩm giá của người tín hữu giáo dân trong niềm hoan lạc và biết ơn, đồng thời giúp họ đương đầu với trách nhiệm của mình một cách trung tín và đại độ.
Thật vậy Thiên Chúa đã nghĩ đến chúng ta từ thuở đời đời, và Ngài đã thương yêu chúng ta như những nhân vị duy nhất và bất khả thay thế. Ngài gọi mỗi người chúng ta bằng chính tên chúng ta, như người Mục Tử tốt "gọi các con chiên của mình bằng chính tên chúng" (Jn. 10.3). Nhưng chương trình đời đời của Thiên Chúa chỉ được mặc khải cho mỗi người chúng ta trong tiến trình phát triển lịch sử của cuộc sống và các biến cố của mỗi người; một cách nào đó, nó tuần tự tiếp diễn ngày này qua ngày khác.
Ngoài ra, trong đời sống của mỗi tín hữu giáo dân, có những giai đoạn đặc biệt có ý nghĩa và mang tính cách quyết định giúp ta chân nhận Lời Chúa gọi và đón nhận sứ mạng Chúa giao. Trong những giai đoạn đó, có thời kỳ của tuổi trẻ và tuổi thành niên. Tuy nhiên đừng ai quên rằng Chúa như người chủ vườn nho trong dụ ngôn, trong đường hướng Ngài đã cho thấy thánh ý của Ngài một cách cụ thể và chính xác - gọi (chúng ta) vào tất cả các giờ của cuộc sống. Do đó, phải luôn tỉnh thức, có nghĩa là phải ân cần lắng nghe tiếng Chúa, đó chính là thái độ căn bản và kiên trì của môn đệ Ngài.
Dầu thế nào, không phải chỉ cần biết Chúa muốn gì nơi mỗi người chúng ta trong những hoàn cảnh khác biệt của cuộc sống. Nhưng phải làm đìều Chúa muốn, đó là điều mà Maria, Mẹ Thiên Chúa nhắc nhở chúng ta như đã nói với các người giúp tiệc cưới tại Cana: "Các ngươi hãy làm những gì Ngài bảo " (Jn. 2:5) .
Và để hành động một cách hoàn toàn trung tín với thánh ý của Thiên Chúa, cần phải có đủ khả năng, và phát triển mỗi ngày một thêm khả năng này. Dĩ nhiên, với ơn của Chúa: ơn Chúa không bao giờ thiếu, như Thánh Lêô Cả đã nói: "Đấng đã trao cho anh em phẩm chức, thì cũng sẽ cho anh em sức mạnh". (210) Nhưng cũng cần có sự hợp tác tự do và trách nhiệm của mỗi một ngườí chúng ta.
Đây là công tác tuyệt vời và bận rộn đang chờ đón mọi tín hữu giáo dân, những người Kitô hữu không nghỉ ngơi: luôn ý thức hơn nữa những kho tàng phong phú của Đức Tin và bí tích Rửa Tội và sống những ơn huệ đó một cách hoàn hảo, như Thánh Phêrô Tông Đồ, khi nói về sự sinh ra và lớn lên như là hai giai đoạn của đời sống Kitô hữu, đã khuyên bảo chúng ta: "Anh em hãy giông như những trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát Lối Chúa, như một giòng sữa trinh trong làm cho anh em được lớn lên để đi đến sự cứu độ,, (1 Pt. 2.2).
ĐÀO LUYỆN TOÀN DlỆN ĐỂ SỐNG TRONG HỢP NHÂT
59. Việe khám phá và thực hiện ơn gọi và sứ mệnh cá nhân đối với người tín hữu giáo dân đòi buộc phải được đào tạo để sống trong hợp nhất. Họ đã mang ấn tín của sự hợp nhất này ngay trong chính bản tính của họ là thành phần của Giáo Hội và công dân của xã hội loài người.
Trong cuộc đời của họ không thể có hai lối sống song song: một bên là "thiêng liêng" với những giá trị và những bó buộc riêng; bên kia là "trần thê ', nghĩa là gia đình công việc làm ăn, tương giao xã hội, dấn thân làm chính trị, sinh hoạt văn hoá. Nhánh nho được ghép vào cây nho là Chúa Kitô mang hoa trái trong tất cả các lãnh vực sinh hoạt và cuộc sống. Thật vậy, tất cả các lãnh vực của đời sống giáo dần đều quy hướng vào ý định của Thiên Chúa, Ngài muốn tất cả chúng ta phải là "môi trường lịch sử" để Đức ái của Chúa Kitô được mặc khải và thể hiện cho vinh danh Chúa Cha, và phục vụ anh em mình. Tất cả các sinh hoạt, các hoàn cảnh, các cuộc dấn thân cụ thể - khả năng và liên đới trong công việc làm ăn, tình yêu và sự tận tụy trong gia đình hay trong việc giáo dục con cái, dịch vụ xã hội và chính trị, việc triển khai chân lý trong thế giới của văn hoá - tất cả những việc đó là cơ hội được quan phòng để thể hiên "việc thực hành liên tục Đức Tin, Đức Cậy và Đức ái".(211)
Công Đồng Vaticanô II đã kêu gọi người tín hữu giáo dân hướng đến sự hiệp nhất đó, và mạnh mẽ tố giác tính cách nghiêm trọng của việc phân tách giữa Đức Tin và đời sống, giữa Phúc âm và văn hoá: "Công Đồng khuyến khích người Kitô hữu, công dân của nước trần thế và Nước Trời, nên chu toàn công tác trần thế của mình một cách nhiệt tình, trung tín, và vâng theo sự hướng dần của tinh thần Phúc âm. Những ai, từng biết rằng mình không có được nước vĩnh cửu dưới trần thế này, nhưng đang tiến về vương quốc tương lai, lại cho rằng có thể coi thường những nghĩa vụ làm người của mình, và không nhân ra rằng chính Đức Tin, tùy vào ơn gọi của mỗi người làm cho những nghĩa vụ đó trở thành một bổn phận khẩn thiết. Những người như thế đi xa khỏi chân lý. Ngược lại, những người tin rằng có thể quên mình hoàn toàn cho các sinh hoạt trần thế, cho hành động như thể các sinh hoạt đó hoàn toàn xa lạ với cuộc sống tôn giáo của họ, một cuộc sống được họ giới hạn vào việc thực hành việc phụng tự và một vài điều bó buộc có tính cách đạo đức cố định. Những người này cũng lầm lẫn không kém. Tách rời Đức Tin mà họ tuyên xưng khỏi cách xử sự hằng ngày của một số đông Kitô hữu hiện nay kể là một trong những lầm lẫn nghiêm trọng của thời đại chúng ta đang sống." (212)
Vì thế, Ta qủa quyết rằng một Đức Tin không trở thành văn hóa là một Đức Tin "không được tiếp nhận đầy đủ, không được suy nghĩ thấu đáo, không được sống một cách trung tín." (213)
Các phương diện của việc đào tạo
60. Nhiều phương diện liên kết trong việc đào tạo toàn diện người tín hữu giáo dân được lồng trong tổng hơp của đời sống đó.
Không có gì ái ngại khi cho rằng việc đào tạo đời sống thiêng liêng phải chiếm một vị trí ưu tiên trong cuộc đời mỗi người, bởi vì mỗi người đều được gọi để không ngừng lớn lên trong sự kết hơp mật thiết với Đức Giêsu Kitô, trong sự hòa hơp với ý muốn của Chúa Cha, trong việc tận tâm phục vụ anh em trong bác ái và công bình. Công Đồng viết rằng: "Đời sống kết hơp chặt chẽ với Chúa Kitô trong Giáo Hội được nuôi dưỡng bằng những của ăn thiêng liêng chung cho tất cả mọi tín hữu, đặc biệt sự hiệp thông cách tích cực yào Phụng Vụ. Các giáo dân phải dùng những của ăn đó đề khi chu toàn một cách hoàn hảo các nghĩa vụ trần thế trong những điều kiện thông thường của cuộc sống, họ không phân tách việc kết hơp với Đức Kitô và đời sống của họ, nhưng lớn lên trong sự kếp hợp với Ngài, đồng thời chu toàn các công việc của họ như ý muốn Thiên Chúa." (214)
Việc dạy giáo lý cho người tín hữu ngày nay càng lúc càng trở nên khẩn thiết, không phải chỉ do những năng động tự nhiên thôi thúc việc đào sâu Đức Tin, nhưng còn do việc cần thiết phải "chứng thực niềm tin" mà họ ấp ủ trong mình khi đôi diện thế giới với các vấn đề nghiêm trọng và phức tạp của nó. Do vậy, một lôí dạy giáo lý có hệ thống, thích ứng riêng cho từng lứa tuổi và hoàn cảnh sống khác nhau, và một cuộc cổ động văn hoá Công Giáo sâu rộng được xem là tuyệt đôí cần thiết, để đáp ứng những thắc mắc muôn thuở và những vấn đề mới mẻ đang làm cho con người và xã hội ngày nay giao động.
Đặc biệt là làm sao cho người tín hữu giáo dân, nhất là người dấn thân bằng những cách khác nhau trong lãnh vực xã hội và chính trị, có được sự hiểu biết chính xác hơn học thuyết xã hội của Giáo Hội, là một vấn đề tôí ưu cần thiết, như các Nghị Phụ Thượhg Hội Đồng đã nhiều lần đòi hỏi trong các lần phát biểu. Khi nói về việc tham gia chính trị của người tín hữu giáo dân, Thượng Hội Đồng đã diễn tả ý kiến của mình như sau: "Để các gíáo dân có thể thể hiện tích cực dự án cao đẹp của mình trong chính trị (có nghĩa là dự án làm cho các giá trị con người và Công Giáo được nhìn nhận và ham mộ), không phải chỉ khuyến khích họ là đủ, mà phải đem đến cho họ những phương tiện cần thiết đề đào tạo lương tâm xã hội của họ; đặc biệt trong học thuyết xã hội của Giáo Hội, chứa đựng những nguyên tắc suy tư, những tiêu chuẩn phán đoán và những hướng dấn để hành động (Thánh bộ Tín Lý, "Giáo Huấn về Tự do Công Giáo và giải phóng", 72. Học thuyết đó phải hiện diện ngay trong chương trình giáo lý căn bản và phải được giải thích trong các khóa huấn luyện đặc biệt cũng như trong các trường học và đại học. Nên lưu ý rằng, học thuyết xã hội của Giáo Hội có tính năng động, nghĩa là nó thích ứng với những hoàn cảnh, không gian và thời gian khác nhau. Những chủ chăn có quyền và có bổn phận đề nghị những nguyên tắc luân lý thuộc lãnh vực xã hội cũng như trong các lãnh vực khác. Kitô hữu phải đặt mình vào việc bảo vệ nhân quyền, dấn thân tích cực vào các đảng phái chính trị đành riêng cho giáo dân". (215)
Trong khuôn khổ của việc đào tạo toàn diện và hợp nhất người tín hữu giáo dân, chúng ta phải ưu tư tài bồi các giá trị con người; nó cần thiết cho sinh hoạt truyền giáo và tông đồ. Chính trong ý nghĩa đó, Công Đồng đã viết: "(Giáo dân) sẽ yêu thích nhiều khả năng nghề nghiệp, ý nghĩa gia đình và công dân, và các nhân đức liên quan đến đời sống xã hội như thanh liêm, tinh thần công lý, thành thật, tế nhi, khẳng khái. Không có những nhân đức đó thì không có đời sống Kitô hữu chân thật." (216)
NHỨNG CỘNG TÁC VlÊN CỦA THlÊN CHÚA LÀ NHÀ GlÁO DỤC
61. Đào tạo tín hữu ở những nơi đâu và bằng phương tiện nào? Những ai và những cộng đoàn nào được kêu gọi để đảm trách bổn phận đào tạo giáo dân một cách toàn diện và hiệp nhất?
Cũng như việc giáo dục con người liên hệ mật thiết vào tương quan của tình mầu tử, việc đào tạo ngườí Kitô hữu cũng bám rễ và hút lấy nguồn sinh lực nơi Thiên Chúa: Ngài là Người Cha yêu thương và giáo dục con cái. Vâng, Thượng Đế là nhà giáo dục lớn lao và cao cả đôi với Dân Ngài, như đoạn văn kỳ diệu sau đây trích từ Bài ca của Môisen: "Nơi hoang vu, trong cảnh cô quạnh bao la của sa mạc, Ngài nhận nó làm con: Ngài bao bọc, Ngài nuôi dưỡng nó. Ngài gìn giữ nó như con ngươi của mắt Ngài. Như đại bàng canh chừng ổ chim con, bay lượn bên trên đàn con dại. Ngài trương đôi cánh và nhắc nó lên. Ngài nâng nó đặt lên bộ lông của Ngài. Chúa là vị độc nhất dần dắt nó, chứ không phải là một Chúa nào khác" (Dt. 32:10-12, xem 8. 5).
Công trình giáo dục của Thiên Chúa được mặc khải và hoàn thành trong Chúa Giêsu là Thầy dạy, và tác động bên trong tầm hồn của tất cả mọi người, nhờ sự hiện diện linh động của Chúa Thánh Thán. Giáo Hội Mẹ chúng ta được gọi để kết hợp với công trình giáo dục của Chúa, bằng chính danh nghĩa của mình cũng như bằng các giáo huấn và hành động của mình. Chính vì thế mà nhứng tín hữu giáo dân được đào tạo do bởi Giáo Hội và trong Giáo Hội, trong sự hợp thông và công tác hổ tương giữa tất cả các phần tử của Giáo Hội: linh mục, tu sĩ và tín hữu giáo dân. Nhờ vậy, toàn thể cộng đoàn Giáo Hội trong sự khác biệt giữa các phần tử của mình, nhận lầý nguồn phong phú của Thánh Thần và cộng tác vào kho tàng ơn ích đó. Chính trong ý nghĩa này Methodius thành Olympo đã viết: "Những người chưa hoàn hảo được đón nhận và đào tạo bởi những kẻ hoàn hảo hơn, như trong lòng bà mẹ, để họ được cưu mang và khai sinh nhờ sự cao cả và đẹp đẽ của nhân đức". (217) Sự kiện đó đã xảy đên cho Thánh Phaolô, từng được các Kitô hưũ hỉểu biết hơn (qua chính nhần vật Anania) đón nhận và đưa vào Giáo Hội, và sau đó, đến phiên Ngài, đã trở nên toàn hảo và làm cha linh hướng cho biết bao nhiêu con cái khác!
Công trình giáo dục trước hết là một sự kiện của Giáo Hội hoàn vũ, trong đó Giáo Hoàng đóng vai trò giáo dục quan trọng hơn cả đôi với tín hữu giấo dân. Vì là người kế vị Thánh Phêrô, Ngài nhận lấy trách vụ "làm cho anh em mình vững mạnh trong Đức Tin" , khi dạy dỗ cho tất cả các tín hữu những yếu tố cán thiết của ơn gọi và sứ mệnh làm người Kitô hữu và làm con cái Giáo Hội. Người tín hữu giáo dân không những cần phải lắng nghe với thái độ tuân phục và mến chuộng những lời Ngài nói mà thôi, mà còn phải lắng nghe những lời dạy được ban bố qua các văn kiện của các Thánh bộ trong Giáo Hội.
Giáo Hội duy nhất và phổ quát hiện diện trong mỗi một phần tử khác nhau của thế giới, trong các Giáo Hội địa phương. Trong mỗi Giáo Hội đó, Giám Mục mang trách nhiệm riêng đối với các tín hữu giáo dân, ngài phải đào tạo họ qua việc loan tin mừng, cử hành bí tích Thánh Thể và các Bí Tích khác, sinh hoạt và hướng dấn đời sống công giáo của họ.
Giáo xứ được thiết lập và hoạt động trong lòng Giáo Hội địa phương hay Giáo phận, mang một vai trò thiết yếu trong việc đào tạo trực tiếp những tín hữu giáo dân. Thật vậy họ đạo có cơ hội gặp gỡ dễ dàng từng người và từng nhóm, nên được kêu gọi để đào tạo các phần tứ của mình biết lắng nghe Lời Chúa, tham dự phụng vụ, đôí thoại trực tiếp với Thiên Chúa, dấn thân vào công tác bác ái đôí với anh em, và cảm nhận cách trực tiếp và cụ thể hơn ý nghĩa sự hiệp thông của Giáo Hội và trách mhiệm truyền giáo.
Bên trong một số giáo xứ, nhất là những giáo xứ lớn và tản mác còn có sự hiện diện của những cộng đoàn giáo hội nhỏ. Chúng có thể rất hữu ích trong việc đào tạo những người Kitô hữu, vì nhờ đó ý thức và kinh nghiệm về sự hợp thông và sứ mệnh Giáo Hội được thể hiện một cách sắc bén và sâu đậm hơn. Cũng như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã từng tuyên bố, một hình thức hổ trợ khác được cống hiến qua việc dạy giáo lý sau bí tích Rửa Tội dưới hình thức lớp giáo lý khai tâm nhằm trình bày lại cho những người lớn một vài yếu tố của Nghi thức Khai tâm đời sống Công Giáo, giúp họ đón nhận và sống những ơn phong phú và kỳ diệu của phép Rửa tội họ đã lãnh nhân, cũng như những trách nhiệm phát sinh từ ân huệ đó. (218)
Trong việc đào tạo mà tín hữu giáo dân lãnh nhận trong giáo phận hoặc trong giáo xứ của mình, đặc biệt về những điều liên quan đến ý nghĩa cuộc sống hiệp thông và sứ mệnh của mình, sự nâng đớ mà các phần tử khác nhau trong Giáo Hội liên đới thực hiện cho nhau mang tính cách quan trọng đặc biệt. Sự nâng đỡ này giúp khám phá và đồng thời giúp thể hiện mầu nhiệm của Gìáo HỘÌ là Mẹ và là Thầy giáo dục. Cảc linh mục và các tu sỹ phải giúp tín hữu giáo dân trong công trình đào tạo của họ. Trong đường hướng đó, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã yêu cầu các linh mục và các ứng viên vào các chức Thánh phải "chuẩn bị chu đáo để có đủ khả năng tiếp ứng ơn gọi và sứ mệnh của giáo dân".(219) Vê phần mình, chính tín hữu giáo dân cũng có thể và phải giúp các linh mục và các tu sĩ trong bước đường thiêng liêng và mục vụ của họ.
Những môi trừơng giáo dục khác
62. Gia đình công giáo, như là "Giáo Hội tại gia" cũng cần thành một trường học tự nhiên và cơ bản trong việc đào tạo Đức Tin: bậc làm cha mẹ nhận nơi bí tích Hôn nhân ân sủng và tác vụ giáo dục Công Giáo đôi với con cái mình, làm chứng trước con cái họ và thông đạt những giá trị con người và đồng thời giá trị tôn giáo. Khi tập nói những tiếng đầu tiên, trẻ con cũng học ca tụng Thiên Chúa, Đấng mà chúng cảm thấy gần gũi như người cha đầy yêu thương và ân cần; khi học biết những cử chỉ thân ái đầu tiên, trẻ em cũng học tiếp nhận kẻ khác và nhận ra ý nghĩa cuộc sống con ngừơl trong sự trao ban chính mình. Chính cuộc sống thường ngày của một gia đình Công Giáo chân thực tạo thành "kinh nghiệm Giáo Hội" đầu tiên nhằm giúp trẻ con vững mạnh phát triển trong việc hội nhập tích cực và có trách nhiệm vào một cộng đoàn Giáo Hội rộng lớn hơn và vào xã hội. Vợ chồng và cha mẹ Công Giáo càng ý thức rằng "Giáo Hội tại gia" của mình tham dự vào cuộc sống và sứ mệnh của Giáo Hội hoàn vũ, thì con cái họ càng có thể được đào tạo để hiểu "ý nghĩa của Giáo Hội", và chúng càng ý thức sự cao đẹp của việc hiến dâng sức lực mình để phục vụ Nước Chúa.
Những trường học và đại học công giáo, cũng như những trung tâm canh tân đời sống thiêng liêng ngày nay đang gia tăng số lượng và ngày càng trở thành quan trọng. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nêu lên cho thấy rằng, trong khung cảnh xã hội và lịch sử ngày nay chúng ta đang sống, được chứng kiến một cuộc biến đổi văn hóa sâu rộng, việc tham gia của phụ huynh Công Giáo và đời sống của học đường chưa lấy gì làm đủ. Cần phải chuẩn bị các tín hữu giáo dân để họ hiến thân vào công tác giáo dục như hiến thân vào một công tác của chính Giáo Hội. Cần thành lập và phát tnển "những đoàn thể giáo dục" gồm thành phần phụ huynh, nhà giáo, linh mục, tu sĩ, nam nữ, và đại diện giới trẻ. Và để trường học có thể thi hành chức phận giáo dục của mình một cách xứng đáng, các tín hữu giáo dân cần phải ý thức rằng việc dấn thân đòi buộc mọi người, cũng như cổ động cho mọi người biết về quyền tự do giáo dục thật sự, kể cả việc (thể hiện nền tự do đó qua phương tiện của qui chế lập pháp dân sự thích ứng.(220)
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng tỏ ra ưu ái và khích lệ tất cả những tín hữu giáo dân, nam nứ, đang đảm trách công tác giáo dục trong trường học hay các cơ sở huấn luyện, với một tinh thần công dân và Kitô hữu sâu sắc. Ngoài ra, các Ngài đã nhấn mạnh rằng các tín hữu giáo dân làm giáo viên hoặc giáo sư tại các trường học khác nhau, Công Giáo hay không Công Giáo, cần gấp trở thành những người chứng trung thực của Phúc âm, bằng gương sáng của đời mình, khả năng và lương tâm chức nghiệp, cảm hứng Công Giáo trong việc giảng dạy - dĩ nhiên - cần tôn trọng tính cách độc lập của các ngành và bộ môn khoa học khác nhau. Vấn đề đặc biệt quan trọng là việc nghiên cứu khoa học và kỹ thuật do các tín hữu giáo dân đảm trách phải lấý việc phục vụ con người toàn diện với các giá trị và yêu sách của nó làm tiêu chuẩn: Giáo Hội trao phó cho các tín hữu giáo dân này nhiệm vụ giải thích cho mọi người hiểu được mối tương quan mật thiết giữa Đức Tin và khoa học, giữa Phúc âm và văn hóa con người. (221)
Chúng ta đọc thấy đoạn văn này: "Thượng Hội Đồng này kêu gọi đến vai trò rao giảng của các trường học và đại học Công Giáo và ca ngợi sự tận tâm của các giáo chức và thành phần giáo sư, phần lớn ngày nay là giáo dân, để họ có thể đào tạo tại các cơ sở giáo dục Công Giáo những con người, nam cũng như nữ, biết thâm nhập: "điều răn mới". Sự hiện diện đồng thời của các linh mục và giáo dân, cũng như nam nữ tu sĩ cống hiến cho sinh viên một hình ảnh sống động của Giáo Hội, và làm cho họ ý thức dễ dàng hơn kho tàng phong phú đó. (Bộ Giáo dục Công Giáo, "Người giáo dân trong ngành giáo dục, chứng tá Đức Tin trong các trường học").(222)
Các nhóm, các hiệp hội và các phong trào cũng có một chỗ đứng trong việc đào tạo các tín hữu giáo dân. Thật thế, mỗi một tập thể có những phương pháp riêng, tất cả có thể cống hiến một lôí đào tạo đi sát với chính kinh nghiệm của đời tông đồ. Chúng lại có cơ hội để bổ túc, cụ thể và chuyên biệt hóa công việc đào tạo mà các thành phần trong đó thu thái được do những bậc thầy khác nhau và đoàn thể khác nhau.
VlỆC ĐÀO TẠO HỖ TƯƠNG GlỮA: CHO VÀ NHẬN
63. Công trình đào tạo không phải là đặc ân của một nhóm người, nhưng là một quyền lợi và bổn phận của mọi người. Vê vấn đê này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã yêu cầu " phải làm sao để mọi người , nhất là những kẻ nghèo khó có thể hưởng được công trình đào tạo, để mọi người chính mình có thể trở thành những nguồn đào tạo cho tất cả"; và các Ngài nói thêm: "Đối với việc đào tạo, nên xử dụng các phương thế thích ứng giúp cho Kitô hữu thể hiện hữu hiệu hơn ơn gọi toàn vẹn làm người và làm Kitô hữu nơi họ." (223)
Để thực thi một đường lôí mục vụ thật sự hữu hiệu, cần cổ động việc đào tạo những nhà giáo dục bằng cách tổ chức các chương trình và các trường chuyên môn. Đào tạo những người để sau đó đến phiên họ lại đào tạo các tín hữu giáo dân khác là một yêu sách tôí cần thiết để bảo đảm công việc đào luyện sâu rộng, toàn thể những người tín hữu giáo dân.
Trong công trình đào luyện, cần lưu ý đặc biệt đến văn hóa địa phương, thể theo lời yêu cầu công khai của Thượng Hội Đồng "việc đào tạo các Kitô hữu sẽ phải lưu ý nhiều hơn nữa về nền văn hóa địa phương, vì chính nền văn hóa đó đóng góp vào việc đào tạo; và công việc đào tạo phải hướng dẫn ta thẩm định các giá trị đã hàm chứa trong nền văn hóa cổ truyền cũng như những gìá trị tìm thấy trong nền văn hóa tân thời. Phải lưu ý đến tình trạng có nhiều nền văn hóa khác nhau, có thể đang cùng sinh tồn trong một dân tộc, trong một quốc gia. Giáo Hội Mẹ và Thầy của các dân tộc, phải cố gắng cứu vãn (nếu có trường hợp đó xảy ra) nền văn hóa của các nhóm thiểu số đang sống ở giữa các quốc gia rộng lớn." (224)
Trong công trình đào tạo, một vài điều xác tín đặc biệt được xem là cần thiết và hữu ích. Trước hết cần xác tín rằng không thể có việc đào tạo thật sự và hữu hiệu nếu mỗi người không tự đảm trách và khai triển trách nhiệm đào tạo chính mình. Vì tất cả các công trình đào tạo thiết yêú phải là "tự đào tạo lầý mình".
Sau đó, xác tín rằng mỗi người trong chúng ta là kết qủa và là nguyên tắc của việc đào tạo: Chúng ta càng được đào tạo hoàn hảo bao nhiêu, thì chúng ta lại càng có khả năng đào tạo kẻ khác bấy nhiêu.
Điểm quan trọng đặc biệt là nên ý thức rằng công trình đào tạo, dĩ nhiên không thể bỏ qua việc cần đến trí thông minh con người nhờ vào các phương tiện và phương pháp của các nền khoa học nhân văn. Nhưng nó chỉ có thể hữu hiệu một khi ta sẵn sàng tiếp nhận tác động của Thiên Chúa. Chỉ có cành nào không sợ để cho người làm vườn nho cắt tỉa mới mang nhìêu hoa tráì cho chính mình và cho kẻ khác.l
TIẾNG GỌI VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
64. Để kết luận văn kiện hậu Thượng Hội Đồng này, một lần nữa Ta nhắc lại lời mời gọi của "Người chủ vườn nho" mà Phúc âm nói đến: Các người cũng thế, hãy đi đến vườn nho của Ta. Ta có thể nói ý hướng của Thượng Hội Đồng về ơn gọi và sứ mệnh của giáo dân thực sự nằm trong lời mời mà Chúa nói với tất cả mọi người, và đặc biệt với người tín hữu giáo dân, nam cũng như nữ.
Những công việc của Thượng Hội Đồng đã đem lại cho tất cả các vị tham dự một kinh nghiệm thiêng liêng sâu đậm: kinh nghiệm của Giáo Hội, dưới ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần, hằng lưu ý tìm tòi và đón nhận lời kêu gọi liên lỉ của Chúa, để đem lại cho thế giới ngày nay một lần nữa cuộc sống thông hiệp của mình và sức năng động của sứ mệnh cứu độ nơi mình. Công việc đó được thể hiện qua việc chân nhận chỗ đứng và vai trò đặc biệt của người tín hữl giáo dân.
Thượng Hội Đồng này mà Tông Huấn của Ta muốn phổ biến cho các Giáo Hội rải rác khắp thế giới, sẽ có hiệu quả bằng hành động tiêp nhận thực sự của toàn Dân Chúa, và đặc biệt các tín hữu giáo dân.
Vì thế, Ta kêu gọi tất cả và mỗi một người hãy luôn làm cho ý thức của mình về cuộc sống Giáo Hội được sống động trong tầm hồn và trong đời sống của mình, ý thức mình là phần tử của Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô, tham dự vào mầu nhiệm hiệp thông và sức-năng-động trong công tác tông đồ và truyền giáo của Giáo Hội.
Điều quan trọng hơn hêt là, tất cả Kìtô hữu phải ý thức về phẩm gìá kỳ diệu mà bí tích Rửa Tội đem lại cho họ: nhờ ân sủng, chóng ta được gọi để trở nên những ngườí con sủng ái của Chúa Cha, những chi thể gắn líền với Chúa Kitô và Giáo Hội Ngàì, nhưng đền thờ sống động và thánh thiện của Chúa Thánh Thần. Một lần nữa, một cách xúc động và đầy lòng biết ơn, chúng ta hãy lắng nghe những lời nói cúa Thánh Gioan Tông Đồ Thánh Sử: "Anh em hãy xem tình yêu mà Chúa Cha đấ ban eho chúng ta lớn lao ngày nào, đên nỗi chúng ta được gọi làm con cái của Thiên Chúa, và chúng ta là con thật!" (1 Jn. 3:l).
"Đìêu mới lạ này của Công giáo" ban cho các phần tử Giáo Hội đối với mọi người là nền tảng của việc tham dự vào chức tư tê, rao giảng và vương giả của Chúa Kitô, và cũng là nền tảng của ơn gọi ơn thánh trong tình yêu. Điều mới lạ đó được biểu lộ và thể hiện trong những người tín hữu giáo dân thể theo "tính cách trần thể' , là đặc nét riêng tư và cá biệt của họ".
Ý thức Giáo Hội bao gồm sự hìểu biết về Mầu Nhiệm Gìáo Hội Hỉệp Thông, đồng thời vởi ý thức gỉá trì Công Gìáo của mọi người. Đó là một khía cạnh căn bản và quyết định cho đời sóng và sứ mệnh của Giáo Hội. Đôí với mọi người cũng như từng người một, lời cầu khẩn khoản của Chúa Giêsu trong buổi Tiệc ly: "Xin cho họ nên một! " (Jn.17.21), phải trở nên một chương trình bó buộc không thể sao lãng trong đời sống và hành động hằng ngày.
Ý nghĩa sống động của việc thông hiệp trong Giáo Hội là ơn của Chúa Thánh Thần, đòi hỏi ta một sự đáp ứng tự do. Nó sẽ làm nẩy sinh hoa trái quí giá, tức là việc phôí hơp nhịp nhàng, trong Giáo Hội "duy nhất và Công Giáo", tính cách khác biệt phong phú của các ơn gọi và các hoàn cảnh sống, các đoàn sủng, các thừa-tác-vụ, các công tác và trách nhiệm; hoa trái đó cũng là việc hợp tác đầy xác tín và quyết tâm hơn nơi các nhóm, các hiệp hội và các phong trào của các tín hữu giáo dân trong việc liên đới chu toàn sứ mạng cứu độ chung của chính Giáo Hội. Sự hiệp thông đó, tự nó đã là một dấu chỉ lớn lao đầu tiên sự hiện diện của Chúa Kitô Cứu Độ nơi trần thê, đồng thời, nó trợ lực và khích lệ hoạt động tông đồ trực tiêp và sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội.
Trước ngưỡng cửa của đệ tam thiên niên, toàn thể Giáo Hội, Chủ chăn, cũng như tín hữu, phải nhận ra một cách mạnh mẽ hơn nữa trách nhiệm của mình là vâng theo mệnh lệnh của Chúa Kitô: "Các con hãy đi khắp thế giới và rao giảng Tin Mừng cho muôn dân" (Mk. 16.15), là tái tạo một phương pháp truyền giáo mới. Giáo Hội được giao phó để thực hiện một công trình có tầm vóc lớn lao, khó khăn và cao cả: đó là việc tiến hành "một hình thức rao giảng Phúc âm mới" mà thế giới ngày nay đòi hỏi một cách cấp thiết. Tín hữu giáo dân phải thấy rằng mình là phần tử tích cực trong công cuộc đó. Họ được gọi để loan báo và sống Phúc âm, bằng công tác phục vụ con người và xã hội trong tất cả những giá trị và đòi hỏl của nó. Thượng Hội Đồng các Giám Mục, đấ được tổ chức vào tháng Mười năm Thánh Đức Mẹ, đặc biệt giao phó các công việc của mình vào sự cầu bầu của Thánh Nứ Maria, Mẹ Đấng Cứu Chuộc. Nay Ta cũng xin chính Ngài cầu bầu cho các thành quả của Thượng Hội Đồng được gặt hái những hoa trái thiêng liêng. Đến phần cuôí văn kiện hậu Thượng Hội Đồng này, hiệp thông với các Nghị Phụ và các tín hữu giáo dân hiện diện trong Thượng Hội Đồng, và với tất cả các thành phần khác của Dân Chúa, Ta dâng lên Đức Trinh Nữ lời khẩn cầu sau đây:
Lạy Nữ Trinh rất thánh,
Mẹ Chúa Kitô và Mẹ Giáo Hội,
Chúng con vui mừng và phấn khởi,
Hiệp thông với lời kinh Ngợi Khen của Mẹ,
Một bài ca tình yêu và cảm tạ.
Cùng với Mẹ, chúng con cảm tạ Thiên Chúa,
"Tình yêu của Ngài trải qua đời nọ đên đời kia"
Cảm tạ Chúa vì ơn gọi vinh quang,
Và vì nhiều sứ mệnh Chúa đã giao phó cho
người tín hữu giáo dân,
Chúa gọi họ, gọi đích danh từng người một,
để họ sống thông hiệp tình yêu
và thánh thiện với Chúa,
để họ liên kết vđi nhau trơng tình anh em
trong đại gia đình con Chúa.
Chua cũng sai họ đi chiếu giãi
ánh sáng của Đức Kitô,
và đôt ngọn lửa của Thần Linh Thiên Chúa
trong tât cả các lãnh vực
của cuộc sống trần thế
bằng chính đời sống Phúc âm của mình.
Lạy Trinh Nữ của bài ca Ngợi Khen,
xin hãy đổ đầy tâm hồn họ
lòng biết ơn và niềm hứng khởi
đôí với ơn gọi và sứ mệnh này.
Mẹ đầy khiêm tốn và độ lượng,
là "Nữ Tỳ của Thiên Chúa"
xin trao ban cho chúng con lòng khao khát
phục vụ Thiên Chúa và cứu độ
thế giới của Mẹ.
Xin mở rộng lòng chúng con,
để đón nhận những chân trời bao la
của Nước Chúa
và của việc truyền bá Phúc âm
cho mọi tạo vật.
Môí từ tâm của Mẹ
không ngừng lo lắng
khi chứng kiến nhiều nguy nan,
nhiều sự dữ vô kể,
đang đè nặng trên anh chị em chúng con
trong thời đại hôm nay.
Nhưng Trái Tim của Mẹ cũng lưu ý đến
nhiều sáng kiên,
được khởi xướng để thực hiện những lợi ích
những nguyện vọng lớn lao
thực hiện các giá trị
và những tiến bộ khả quan
phát sinh hiệu quả Cứu Độ.
Lạy Đức Trinh Nữ can trường,
xin thêm sức mạnh cho tâm hồn chúng con.
Xin hướng niềm trông cậy của chúng con
vào nơi Chúa,
để chúng con thắng vượt
được tất cả những trở ngại
mà chúng con gặp phải
trên bước đường hoàn thành sứ mệnh của chúng con
Xin dạy chúng con biêt sống
những thực tại trần thế, với tinh thần sâu sắc
và trong niềm hy vọng hoan hỷ
Ngày Nước Chúa đên,
và ngày Trời Mới và Đất Mới được mở ra.
Mẹ cùng với các Tông Đồ cầu nguyện,
nơi nhà Tiệc Ly trông chờ Thánh Thần Chúa hiện xuống,
Mẹ hãy xin Ngài, ngự xuống tràn đầy
trên tất cả tín hữu giáo dân nam nữ,
để họ hết lòng đáp lại ơn gọi và sứ mệnh của họ.
Như cành nho của cầy nho thật,
được gọi để mang nhiều hoa trái
cho cuộc sống trần thế.
Lạy Mẹ Đồng Trinh,
Mẹ hãy dẫn dắt và nâng đỡ chúng con
để chúng con luôn sống
như những người con nam, nữ
của Giáo Hội của Con Mẹ,
và để chúng con có thể tiếp tay
vào việc xây dựng nền văn minh của chân lý
và của tình yêu trên thế giới,
theo ước nguyện của Thiên Chúa
và để làm Sáng Danh Ngài muơn đời. Amen
Ban hành tại Rôma cạnh Đền Thờ Thánh Phêrô,
ngày 30 tháng 12 năm 1988 Lễ Thánh Gia Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse
Năm thứ Mười Một triều đại Giáo Hoàng của Ta
JOANNES PAULUS PP II
CHÚ THÍCH
1- Vaticanô II - Lumen Gentium, số 48.
2- Thánh Grêgôriô Cả - Bài giảng I, XIX, 2.
3- Vaticanô II - Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân Apostolicam
Actuositatem, SỐ 33.
4- Gioan-Phaolô II - Bài gíảng lễ bế mạc kỳ Thượng Hội Đồng Giám Mục VII - (30.10.1987). ASS 80 (/988), 598.
5- Xem Propositio 1.
6- Vaticanô II - Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 11
7- Sau khi quả quyết lại "tầm quan trọng và thời sự của Hiến chế Gaudium et Spes". Các Giám mục tham dự Thượng Hội đồng nói tiếp: "Tuy thế, chứng tôi nhận thấy những dấu chỉ ngày nay có phần khác với các dấu chỉ thời Công đồng, và còn mang nhiều vấn đề và nhiều nỗi khắc khoải lớn hơn. Thật thế, đâu đâu cũng thấy gia tăng tình trạng đói khát, bỉ áp bức, bất công, chiến tranh đau khổ và nhiều loại bạo hành khác". (Relatio finalis II D1).
8- Vaticanô II - Gaudium et Spes, số 7.
9-Thánh Augustinô - Confessiones, 1,1.
10 Xem Instrumentum laboris " ơn gọi và sứ mạng của giáo dân trong Giáo hội và giữa trần thế, 20 năm sau Vaticanô II ' 5-10.
11- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, số 1 .
12- Vaticanô II - Hiến chếLumen Gentium, số 6.
13- Xem Propositio, số 8.
14- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, số 81.
15- tld
16- Piô XII - Diễn văn đọc trước các Hồng Y mới nhậm chức (20-02-1946) - AAS. 38 (1946) 149.
17- Công đồng Florentiô, Sắc lệnh Pro Armentis - DS 1314.
18- Vaticanô II - Hiến Chế Lumen Gentium, số 10.
19- Thánh Augustinô - Ennar-in PS XXVI, II,2.
20- Xem Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, số 10.
21- Gioan-Phaolô II - Bài giảng ngày nhậm chức Giáo Hoàng (22-10-1978)- AAS 70 (1978) 946.
22- Xem lại giáo huấn này trong Instrumentum laboris "ơn gọi và sứ mạng...", số 25.
23- Vaticanô II - Hiên chế Lumen Gentium, số 34.
24- tld - 35
25- tld - 12
26- tld - 35
27- Thánh Augustinô - De Civitate Dei - XX, 10.
28- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, số 32.
29- tld - 31
30- Phaolô VI . Bài giảng trước các Bề trên và Hội viên của các Tu hội đời (02-02-1972). AAS. 64 (1972) 208.
31- Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam Actuasitatem, 5.
32- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, số 31.
33- tld - 31
34- tld - 31
35- Xem tld 48.
36- Vaticanô II - Hiến chế Gaudium et Spes, số 32.
37- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, số 31.
38- tld -
39- Propositio, 4.
40- "Là thành phần của Dân Chúa và Thân thể Mâu nhiệm, qua Bí tích Thánh tẩy tham dự vào ba chức vụ Tư tế, Ngôn sứ và Vương giả của Chúa Kitô, gìáo dân diễn tả và thể hiện những kho tàng của phẩm giá đó khi sống giữa trần thế. Đôí với những ai có chức thừa tác vụ được phong chức thánh, đó là một phận vu bổ sung hoặc đặc biệt khác thường, thì đôí với người giáo dân lại là một sứ mệnh đặc loại của họ, Ơn gọi riêng cửa họ là "tìm Nước Chúa trong việc quản iý thế sự theo ý Chúa" (Lumen Gentium, số 31), (Gioan-Phaolo II Kinh Truyền tin (15-3-1987), Insegnamenti. X,1 (1957), 566)."
41- Xem Chương V - Hiến chế Lumen Gentium, số 39-42. - "Ơn gọi nên thánh của mọi người trong Giáo hội".
42- Buổi họp lần II Thượng Hội Đồng Giám mục (1985) Relatio finalis II. A,4.
43- Vaticanô II - Hiên chế Lumen Gentium, số 40.
44- tld - 42 - Những xác quyết của Công đồng, nói lên một cách long trọng và rõ rệt, nhắc lại một chân lý nền tảng của Đức tin Kitô giáo. Chẳng hạn, Đức Piô XI trong Thông điệp Casti Connubii nói với vợ chồng Kitô giáo như sau: "Bất cứ ở hoàn cảnh nào, ở bậc sống nào tùy ý mình chọn, mọi người có thể và phải bắt chước mẫu mực hoàn hảo về sự thánh thiện mà Chúa muốn con người thực hiện, mẫu mực đó là Chúa Giêsu Kitô; và với ơn Chúa giúp họ có thể và phải đạt đến mức sống trọn lành của Kitô giáo, như các Thánh đã làm gương cho chúng ta" AAS - 22 (1980), 548.
45- Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, 4.
46- Propositio, 5.
47- Propositio, 8.
48- Thánh Lêo Cả - Bài giảng XXI
49- Thánh Maximô - Luận giải III về Bí tích Rửa tội.
50- Thánh Augustinô - Luận giải về Phúc âm Thánh Gioan - 21,8.
51- Vaticanô II - Hiên chế Lumen Gentium, số 33.
52- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium,số 4
53- Kỳ họp II Thượng Hội đồng Giám mục - (1985) - Relatio finalis II, C, I.
54- Phaolô VI - Bài nói chuyện ngày thứ tư (8-6-1966). Insegnamenti IV (1966). 794.
55- Xem Vaticanô, Hiến chế Lumen Gentium, số 6,
56- Xem tld 7 và kế tiếp
57- tld 9
58- tld 1
59- tld 9
60- tld 7
61- tld
62- tld 4 .
63- Gioan-Phaolô II - Bài giảng Thánh lễ bê mạc kỳ họp thứ 7 Thượng Hội đồng Giám mục. (30-1O-1987) AAS 80 (1988) 600.
64- Xem Vaticnô II - Hiên chế Lumen Gentium, số 4
65- Xem Vaticanô II . Sắc lệnh Ad Gentes, số 5
66- Xem Vaticanô II - Sắc lệnh Presbyterorum ordinis. 2-, xem Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, số 10.
67- Xem Vaticanô II - Hiến chếLumen Gentium, sô'10.
68- Xem Gioan-Phaolô II - Thư trong ngày thứ Năm Tuần Thánh gửi các Linh mục của Giáo hội (9-4-1979) - 3-4. Insegnament II,l (1979), 844-847.
69- C. 1-C. Can. 230 # 3
70- Xem Vaticanô II - Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 2 & 5.
71- Xem Vaticanô II - SL. Apostolicam actuositatem, số 24
72- BỘ Giáo luật kể một số chức vụ và hành động riêng thuộc các thừa tác viên có chức thánh; những việc này có thể được giáo dân hành xử trong một thời gian vào những hoàn cảnh đặc biệt và nghiêm trọng, với sự cho phép đúng theo luật định đi trước và với ủy quyền của giáo quyền hợp cách: xem Can. 280 # 3; 517 # 2; 776; 861 # 2; 910 # 2; 943; 1112; v.v....
73- Xem Vaticanô II - HC. Sacrosanctum Consilium, số 28; C.l.C Can. 230 # 2: "với năng cách được cử tạm thời, giáo dân có thể hành xử chức vụ Đọc Sách trong các hành vi phụng vụ; cũng thế, tất cả giáo dân có thể hành xử các chức vụ bình giải, ca ngâm, hoặc những chức vụ khác nữa, theo luật định".
74- BỘ Giáo luật trình bày nhiều chức vụ và bổn phận khác nhau mà giáo dân có thể chu toàn trong các cơ cấu của Giáo hội: xem Can. 228; 229 # 3; 317 # 3; 436 # 1 số 5 và # 2; 483; 494; 537; 759; 776, 784, 785; 1282, 1421 # 2; 1424; 1428 # 2; 1435; v.v....
75- Xem Propositio, 18.
76- Phaolô VI - Tông huấn Evangelii Nuntiandi, 70, AAS 68 (1960), 60.
77- C.I.C Can. 230 # 1
78- Propositio, 18
79- Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam, 3.
80- "Từ việc lãnh nhận các đoàn sủng này, dẫu đơn sơ nhất, mỗi người giáo dân có quyền và bổn phận thực hiện các ơn đó trong Giáo hội và giữa trần thế vì lợi ích con người và xây dựng Giáo hội, trong sự tự do của Chúa Thánh Linh "Đấng thổi nơi nào Ngài muốn" (Gioan 8,8), và đồng thời hiệp thông với anh em mình trong Đức Kitô và đặc biệt với các vị chủ chăn của mình" (tld).
81- Propositio, 9.
82- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, 12.
83- xem tld 30
84- Vaticanô II - Sắc lệnh Christus Dominus, 11
85- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium. 23.
86- Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, 10
87- Xem Propositio, 10.
88- Xem C.I.C Can. 443 # 4; 468 # 1 và 2.
89- Xem Propositio, 10.
90- Tài liệu Công đồng viết: "Vì Giám mục trong Giáo hội mình không thể chỉ huy toàn đoàn chiên mọi lúc, mọi nơi, người cần thiết lập nhiều giáo đoàn tín hữu, trong đó quan trọng hơn cả là giáo xứ, được tổ chức tại địa phương dưới quyền dẫn dắt của một vị chủ chăn thay mặt Giám mục, một cách nào đó, các họ đạo tiêu biểu cho Giáo hội hữu hình được thiết lập trong hoàn vữ" (Vaticanô II - Hiến chế Sacrosanctum Consilium, 42).
91- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, 28.
92- Gioan-Phaolô II - Tông huấn Catechesi Tradendae, 67 AAS 71 (1979); 1333.
93- CIC Can. 515 # 1.
94- Xem Propositio, 10.
95- Xem Vatieanô II- HC. Sacrosanctum Consilium, 42.
96- Xem Can. 555 # 1.1
97- Xem Can. 383 # 1
98- Phaolô VI - Bài diễn văn đọc trước Giáo sĩ Roma (24-6-1963): AAS 55 (1963) 6711.
99- Propositio, 11
100- Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, 10
101- ltd
102- Xem Propositio, 10.
103- Thánh Grêgôriô Cả - Bài giảng về Ez II,l.5.
104- Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, 16.
105- Gioan Phaolô II - Kinh Truyền Tin (23-8-1987). Insegnamenti X,3 (1987), 240.
106- Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 18.
107- Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 19. - xem tld, 15; Hiến chế Lumen Gentium, 37.
108- CIC Can. 215
109- Vaticanô II - Hiến chếLumen Gentium, 39.
110- Xem tld 40
111- Xem Vaticanô II - SL. Apostolicam Actuositatem, 19
112- Vaticanô II - Hiến chếLumen Gentium, 23
113- Xem tld
114- Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem,
115- tld 20
116- tld 24
117 Propositio, 13.
118- Xem Propositio, 15
119- Gioan-Phaolô II - Diễn văn trước Hội nghị quốc gia Giáo hội Ý tại Lorette (10.4.1985) AAS 77 (1985) 964.
120-Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, 1.
121- tld 30
122- Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 10
123- Phaolô VI - Tông huấn Evangelii Nuntiandi, l4 AAS 68 (1976), 13
124- Gioan-Phaolô II - Bài giảng vào ngày nhận chức Giáo hoàng (22-10-1978), AAS 70 (1978) 947.
125- Propositio, 10
126- Vaticanô II - Sắc lệnh Ad Gentes, 20; xem tld 37
127- Propositio, 29.
128- Vaticanô II - Sắc lệnh Ad Gentes, 21.
129- Prơposito, 30 bis
130- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, 5
131- Vaticanô II - Hiến chế Gaudium et Spes, 22
132- tld
133- Gioan-Phaolô II . Thông điệp Redemptor hominis, 14, AAS 71 (1979) 284-285.
134- Vaticanô II - Hiến chế Gaudium et Spes, 40
135- Xem tld 12
136- "Nếu chúng ta long trọng mừng ngày Sinh nhật của Chúa Giêsu, đó là vì chúng ta muốn làm chứng rằng mỗi người là duy nhất và không thể thay thê. Nếu các thống kê của con người, các cách xêp loại, hệ thống vì chính trị, kinh tế, xã hội, nghĩa là chỉ dựa vào sức người không bảo đảm cho con người có thể sinh ra, sống và hành động như một hữu thể duy nhất và không thể thay thế, thì Chúa lại bảo đảm việc đó vì Chúa và trước mặt Chúa, con người luôn là duy nhất và không thể thay thê , là kẻ đã được Chúa nghĩ đến từ đời đời, được chọn từ thuở đời đời; là kẻ đã được gọi và kêu chính bằng tên của mình" (Gioan-Phaolô II- Sứ điệp đầu tiên trong ngày Sinh nhật gửi thế giới: AAS 71, (1979), 66).
137- Vaticanô II - Hiên chế Gaudium et Spes, 27.
138- Gioan-Phaolô II - Tông huấn Familiaris Consortio, 30: AAS 74 (1982) 116.
139- Xem Thánh Bộ Đức tin - Huấn thị Donum vitae về sự tôn trọng đời sống con người, quyền sinh ra và phẩm giá của việc sinh sản. Trả lời cho một số ván đề thời sự (22-202-1987): AAS 80 (1988) 70-102.
140- Propositio, 36.
141- Gioan-Phaolô II - Sứ điệp ngày thế giới hòa bình lần thứ 21-(8-12-1987) AAS 80 (1988) 278-280.
142- Thánh Augustinô - De Cathech-Rud, XXIV,44.
143- Propositio, 32
144- Vaticanô II - Hiến chế Gaudium et Spes, 24
145- tld 12
146- Gioan-Phaolô II - Tông huấn Familiaris Consortio, 42-48. AAS 74 (1982) 134-140.
l47- tld 85. AAS 74 (1982) 188
148- Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem,
149- Vl tương quan giữa công bình và nhân hậu - Xem Tđ Dives in misericordia, 12, AAS 72 (1980), 1215-1217.
150- Vaticanô II - Hiến chế Gaudium et Spes, 75
151- tld 74
152- tld 76
153- Xem Propositio, 28
154-- Gioan-Phaolô II - Thông điệp Sollicitudo rei Socialis, 38: AAS 80 (1988) 565-566.
155- Gioan XXIII - Thông điệp Pacem in Terris: AAS 55 (1963) 265-366.
156- Gioan-Phaolô II - TĐ. Sollicitudo rei Socialis, 39: AAS 80 (1988) 568.
157- Xem Propositio, 26
158- Vaticanô II - Hiến chế Gaudium et Spes, 63
159- Xem Propositio, 24
160- Vaticanô II - Hiến chế Gaudium et Spes, 67 - Xem Gioan-Phaolo II - Thông điệp Laborem Exercens, 24-27: AAS 73 (1981) 637-647.
161- Gioan-Phaolô II - TĐ. Sollicitudo rei Socialis,, 34, AAS 80 (1988) 560.
162- Vaticanô II - Hiến chế Gaudium et Spes, 53.
163- Xem Propositio, 35
164- Vaticanô II - Hiến chế Gaudium et Spes, 58
165- Phaolô VI - Tông huấn Evangelii Nuntiandi,18-20, AAS 68 (1976), 18-19.
166- Xem Propositio, 37
167- Thánh Grêgôriô Cả - Bài giảng về Phúc âm I,
168- Vaticanô II, Tuyên ngôn về Giáo dục Kytô giáo Gravissimum Educationis, 2
169- Gioan-Phaolô II - Tông thư gửi tất cả những người trẻ trên thế giới, dịp "Năm Quốc tế giới trẻ", 15, AAS 77 (1985), 620-621.
170- Propositio, 53
171- Propositio, 51
172- Vatican II Nuntii "Gửi các bạn trẻ" (8-12-1965):
AAS 58 (1966) 18.
173- Vaticanô II - Hiến chế Gaudium et Spes, 48
174- Jean Gerson - De Parvulis ad Christum trahendis: Toàn tập. Desclée - Paris- 1973, IX- 669.
175- Gioan-Phaolô II - Diễn văn đọc trước các nhóm người già của các địa phận Ý (23-3-1984), Insegnament VII, 1 (1984) 744
176- Xem Gioan XXIII - Thông điệp Pacem in Terris: AAS 55 (1963), 267-268.
177- Gioan-Phaolô II - Tông huấn Familiaris Consortio, 24: AAS 74 (1982) 109-110.
178- Propositio, 46
179- Propositio 47
180- Vaticanô II- Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, 9
181- Phaolô VI- Diễn văn đọc trước ủy ban lo cho Năm Quốc tế Phụ nữ (18-4-1975): AAS 67 (/975) 266.
182- Propositio 46
183- Propositio 47
184- tld
185- Vaticanô II- Hiến chế Gaudium et Spes, 10.
186- Thông điệp Redemptoris Mater, sau khi nhắc lại cho biết rằng chiều kích tôn kính Mẹ Maria trong đời sống Kytô giáo đặc biệt chú tâm đến phụ nữ và thân phận của họ, đã viết: "Thật vậy, phụ nữ tính đặc biệt liên kết với Mẹ Đấng Cứu Chuộc. Đólà một chủ đề mà chúng tôi có thể đào sâu vào một dịp khác. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh ở đây rằng hình ảnh Mẹ Maria Nazareth chiếu giải một ánh sáng trên người phụ nữ, vì, trong biến cố cao cả lạ thường về sự nhập thể của Con Chúa, Thiên Chúa Chúa đã nhờ đến một Phụ nữ giúp một cách tự do và tích cực. Vì thế, ta có thể quả quyết rằng phụ nữ, nếu nhìn đến Mẹ Maria, sẽ tìm gặp nơi Ngài bí quyết để sống xứng đáng phầm giá của mình (phụ nữ tính) và thực sự triển nở nhân cách mình. Vớí ánh sáng nơi Maria, Giáo Hội khám phá ra nơi khuôn mặt người phụ nữ những ánh chiếu của vẻ đẹp, của những tình cảm cao cả nhất mà tâm hồn con người có thể chất chứa: sự sung mãn của việc tận hiến đời mình vì tình yêu; sực mạnh có thể giúp chịu đựng những khổ đau; trung tín không giới hạn và bền bỉ hành động; khả năng hòa hơp, trực giác thấu suốt với lời an ủi,, (Gioan-Phaolô II- Tđ. Redemptoris Mater, 46: AAS 79 (1987) 424-425...
187- Gioan-Phaolô II- Tông thư Mulieris Dignitatem,
188- Xem Thánh bộ Đức Tin - Tuyên bố về vấn đề chấp nhận phụ nữ vào chức tư tế thừa tác Inter insigniores (15-10-1976) AAS 69 (1977) 98- 1 1 6.
189- Xem Gioan-Phaolô II- T. thư Mulieris Dignitatem, 26.
190- tld 27: "Giáo hội là một cơ thể gồm nhiều phần tử khác nhau, trong đó mỗi người có một chức phận; các phận vụ khác nhau và không được lẫn lộn. Chúng không muốn nói là có sự phân biệt cao thấp: Chúng không tạo cớ ghen tị, chỉ có một đoàn sủng mà ta có thể ao ước là bác ái (xem 1Cor 12-13). Những kẻ lớn nhất trong Nước Trời không phải là các vị thừa tác, mà là các vị Thánh." (Thánh BỘ Đức Tin- Bản tuyên bố về vần đề chấp nhán phụ nữ vào chức tư tế thừa tác. Inter insigniores, 6 (15-10-1976) = AAS 69 (1977) 115.
191- Phaolô VI- Diễn văn đọc trước ủy ban lo cho Năm Quốc tế Phụ nữ (18-4-1975). AAS 67 (/975) 266.
192- Propositio 47
198- Tld
194- Vaticanô II- Hiến chế Lumen Gentium, 36
195- Gioan-Phaolô II= Tông huấn Familiaris Consortio,
50: AAS 74 (1982) 141-142.
196- Propositio 46
197- Propositio 47
198- Cuộc họp thứ VII của Thượng Hội Đồng Giám mục (1987)- Per Concilii semitas ad Populum Dei Nuntius, 12.
199- Propositio 53
200- Gioan-Phaolô II- Tông thư Salvifici Doloris, 3, AAS 76 (1984) 203.
201- Thánh Ignatiô thành Antiokia - Ad Ephesios, VII,
202- Gioan-Phaolô II- Tông thư Salvifici Doloris, 31: AAS 76 (1984) 249-50.
203- Thánh Ambrosiô De Virginitate VI,34- Xem Thánh Augustinô- Sermo CCCIV,III,2.
204- Xem Piô XII- T. hiến Provida Mater (02-02-1947): AAS 89 (/947) 114-124. CIC. Can. 573.
205- Propositío, 6
206- Xem Phaolô VI- Tông thư Sabaudiae Gemma (19-01-1967): AAS 59 (1967), 118-123.
207- Thánh Phanxicô đệ Salê- Introduction à la vie devote- Toàn tập- Monastère de la Visitation, Annecy 1983, nl, 19-21.
208- Vaticanô II- Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, 4
209- Propositio 40
210- "Dabit Virtutem, qui contulit dignitatem " ( = Đấng đã ban cho các ngươi phẩm giá đó, thì cũng ban cho sứ mạng)- (Thánh Lêo Cả, Serme. II,1.)
211- Vaticanô II- Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, 4
212- Vaticanô II- Hiến chế Gaudium et Spes, 43, xem SL. Ad Gentes 21; Phaolô VI- T.H: Evangelii Nuntiandi, 20; AAS 68 (1976) 19.
213- Gioan-Phaolô II- Diễn văn đọc trước những người tham dự Hội nghi của phong trào dấn thân văn hóa trong Giáo hội (M.E.I.C) (16-01-1982). Insegnamenti V,1 (1982) 131. Cũng xem thư gửi Hồng Y Agnostinô Casaroli, Quốc vụ khanh, thiết định qui chế của Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa (20-5-1982): AAS 74 (1982), 685- Diễn văn đọc trước Cộng đồng đại họe Louvain ( 20- 5- 1985): Insegnamenti VIII -1 (1985) 1591.
214- Vaticanô II- Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, 4
215- Propositio 22. Cũng xem Gioan-Phaoloâ II, Tđ. Sollicitudo rei Socialis, 41, AAS 80 (1988) 570-572.
216- Vaticanô II- Sắc lệnnh Apostôlicam Actuositatem,
217- Thánh Mêthôđô Olympê- Symbolisio II,8.
218- Xem Propositio 11
219- Propositio 40
220' Xem Propositio 44
221- Propositio 45
222- Propositio 44
223- Propositio 41
224- Propositio 42
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nhận xét!