LƯU Ý

Đây là những văn bản Huấn quyền của Giáo Hội mà anthanhlinhgiang đã thu thập được trong nhiều năm và từ nhiều nguồn khác nhau - có thể từ internet hoặc có thể từ những người thiện chí gửi đến. Vì thế có những văn bản không rõ nguồn được lấy từ đâu hoặc có thể không có tính chính xác trong khi dịch thuật hoặc đã bị chỉnh sửa. Vì vậy trong quá trình sử dụng, bạn nào thấy có điều bất trắc, xin vui lòng báo lại để anthanhlinhgiang điều chỉnh hoặc gỡ bỏ.

Những văn bản có nguồn gốc thì anthanhlinhgiang sẽ ghi rõ ràng để các bạn yên tâm.

Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2011

Văn Kiện Giáo Hội Và Internet - Hội Đồng Giáo Hoàng Về Truyền Thông Xã Hội

VĂN KIỆN  GIÁO HỘI VÀ INTERNET
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI

I. DẪN NHẬP
1. Quan tâm của Giáo Hội đối với Internet là một thể hiện cụ thể của mối quan tâm đã có từ lâu của Giáo Hội đối với các phương tiện truyền thông xã hội. Trong khi xem các phương tiện truyền thông như là một thành quả của tiến trình khoa học lịch sử theo đó con người "tiến xa hơn nữa trong việc khám phá những tài nguyên và những giá trị chứa đựng trong toàn thể kỳ công sáng tạo" 1, Giáo Hội thường tuyên bố niềm xác tín của mình, theo cách nói của Công Đồng Vatican II, rằng chúng là "những sáng tạo kỹ thuật diệu kỳ"2 đã đáp ứng rất nhiều những nhu cầu của con người và ngay cả có thể còn làm hơn thế nữa.
Chính vì thế, Giáo Hội đã chọn bước tiến về cơ bản là tích cực đối với các phương tiện truyền thông. 3 Ngay cả khi lên án những lạm dụng nghiêm trọng, những tài liệu của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Truyền Thông Xã Hội đã liên tục cố gắng làm rõ rằng "một thái độ kiểm duyệt đơn giản về phần Giáo Hội ... vừa không đầy đủ mà lại còn là không thích hợp". 4.
Khi trích dẫn lời của Đức Giáo Hoàng Piô thứ XII trong thông điệp Miranda Prorsus năm 1957, Chỉ Dẫn Mục Vụ Về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội Communio et Progressio, được xuất bản năm 1971, đã nhấn mạnh điểm này: "Giáo Hội xem các phương tiện truyền thông này là 'quà tặng của Thiên Chúa' mà, theo dự định quan phòng của Ngài, hiệp nhất nhân loại trong tình huynh đệ và như thế giúp họ hợp tác với kế hoạch của Ngài cho ơn cứu độ của họ".5 Điều này cũng là quan điểm của chúng ta, và đó là quan điểm chúng ta chọn đối với Internet.
2. Theo hiểu biết của Giáo Hội, lịch sử của truyền thông nhân loại giống như một cuộc hành trình dài, đem nhân loại "từ dự án tháp Babel lèo lái bởi lòng kiêu ngạo và sự sụp đổ trong hoang mang và không thể hiểu biết lẫn nhau do dự án này gây ra (xem. Gen 11:1-9), đến Ngày Lễ Ngũ Tuần và ơn nói nhiều tiếng lạ: một sự phục hồi truyền thông, lấy Đức Giêsu làm trung tâm điểm, qua các tác động của Chúa Thánh Thần".6 Trong sự sống, sự chết, và sự phục sinh của Đức Kitô "truyền thông giữa con người tìm thấy lý tưởng cao nhất của nó và tìm thấy gương tối cao nơi Thiên Chúa đấng đã trở nên con người và nên anh em với nhân loại". 7
Những phương tiện truyền thông xã hội hiện đại là những yếu tố văn hóa đóng một vai trò trong câu chuyện này. Như Công Đồng Vatican II nhận xét: "mặc dù chúng ta cần phải cẩn thận phân biệt một cách rõ ràng tiến bộ trần thế với sự tăng trưởng của vương quốc Chúa Kitô", "tiến bộ này nằm trong mối quan tâm thiết yếu của Nước Chúa vì nó có thể đóng góp vào việc sắp đặt tốt hơn trật tự trong xã hội loài người ".8 Trong khi đánh giá các phương tiện truyền thông xã hội dưới ánh sáng này, chúng ta thấy rằng chúng "đóng góp lớn lao cho sự lớn mạnh và sự phong phú trí tuệ con người và cho sự truyền bá và củng cố Nước Chúa".9
Ngày nay, điều này áp dụng cách đặc biệt cho Internet, là phương tiện truyền thông đang giúp đem lại những thay đổi có tính cách mạng trong thương mại, giáo dục, chính trị, báo chí, quan hệ giữa các dân tộc và giữa các nền văn hóa - những thay đổi không chỉ trong cách thế con người giao tiếp với nhau nhưng cả trong cách thế họ hiểu biết cuộc sống. Trong một tài liệu đính kèm, Đạo Đức trong Internet, chúng ta bàn thảo những vấn đề này trong chiều kích đạo đức. 10 Ở đây, chúng ta xem xét những hệ quả của Internet đối với tôn giáo và đặc biệt đối với Giáo Hội Công Giáo.
3. Giáo Hội có một mục tiêu gồm hai mặt liên quan đến các phương tiện truyền thông. Một mặt là thúc đẩy sự phát triển đúng đắn và sự sử dụng thích đáng các phương tiện truyền thông vì lợi ích của sự phát triển nhân loại, công lý và hòa bình - cho sự thăng tiến của xã hội ở cấp địa phương, quốc gia và các cấp cộng đồng dưới ánh sáng của lợi ích chung và trong một tinh thần liên đới. Khi xem xét tầm quan trọng lớn lao của truyền thông xã hội, Giáo Hội tìm kiếm "một sự đối thoại thành thật và tôn trọng với những ai chịu trách nhiệm trong ngành truyền thông xã hội" - một sự đối thoại liên quan chủ yếu đến sự hình thành chính sách của các phương tiện truyền thông. 11 Về phía Giáo Hội, sự đối thoại này liên quan đến những nỗ lực nhằm hiểu biết phương tiện truyền thông - mục đích của chúng, các trình tự, các hình thái và chủng loại, các cấu trúc nội tại và các phương thức - và để đưa ra sự hỗ trợ và khích lệ với những ai liên quan đến các hoạt động truyền thông. Trên căn bản của sự hiểu biết và ủng hộ thiện cảm này, có thể đưa ra những đề nghị có ý nghĩa cho việc tháo bỏ những cản trở cho tiến bộ nhân loại và cho việc công bố Tin Mừng. 12
Nhưng quan tâm của Giáo Hội còn liên quan đến việc truyền thông trong và bởi chính Giáo Hội. Loại truyền thông này vượt xa sự áp dụng kỹ thuật, vì nó "tìm thấy điểm xuất phát trong sự hiệp thông yêu thương giữa các Ngôi Vị Chí Thánh và việc truyền thông giữa các Ngài với chúng ta", và trong nhận thức rằng truyền thông của Ba Ngôi "đến với loài người: Ngôi Con là Lời, được 'nói' muôn đời bởi Chúa Cha; trong và qua Đức Giêsu Kitô, Ngôi Con và Lời đã hoá thành nhục thể, Thiên Chúa truyền thông chính Ngài và ơn cứu độ của Ngài cho người nữ, người nam". 13
Thiên Chúa tiếp tục truyền thông với nhân loại qua Giáo Hội, người mang lấy và gìn giữ mạc khải của Ngài, người duy nhất với chức trách dạy dỗ đã được ủy thác nhiệm vụ diễn giải trung thực lời Ngài.14 Hơn thế nữa, chính Giáo Hội là một communio, một sự hiệp thông của cá nhân và các cộng đoàn thánh thể do bởi và phản ảnh sự hiệp thông của Ba Ngôi; 15 truyền thông do đó là đặc trưng của Giáo Hội. Điều này, trên tất cả mọi lý do khác, là lý do tại sao "việc thực hành truyền thông của Giáo Hội phải là gương mẫu, phản ảmh các tiêu chuẩn cao nhất của sự đúng đắn, khả tín, và nhậy cảm đối với nhân quyền, và các nguyên tắc cũng như các chuẩn mực khác".16
4. Thông điệp Communio et Progressio cách đây ba thập niên đã chỉ ra rằng "các phương tiện truyền thông hiện đại đem lại những cách thế mới để đưa con người đối diện với thông điệp của Tin Mừng".17 Đức Thánh Cha Phaolô VI nói rằng Giáo Hội "có lỗi trước mặt Chúa" nếu không sử dụng các phương tiện truyền thông cho việc truyền bá Tin Mừng. 18 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gọi các phương tiện truyền thông là "Areopagus [trên đồi Ares nơi đặt toà án tối cao của người Athens thờ xa xưa - chú thích của người dịch] đầu tiên của thời hiện đại", và tuyên bố rằng "Sử dụng các phương tiện truyền thông chỉ để loan truyền thông điệp Kitô Giáo và huấn giáo chân thật của Giáo Hội là chưa đủ. Cần phải hội nhập thông điệp này trong 'nền văn hóa mới' đã được hình thành bởi truyền thông hiện đại".19 Ngày nay, sự thực hiện điều này còn quan trọng hơn thế nữa vì bên cạnh việc các phương tiện truyền thông ngày nay ảnh hưởng mạnh mẽ đến điều mà người ta nghĩ về cuộc sống, còn có một cấp độ lớn hơn "con người cảm nhận chính nó trong cảm nhận của các phương tiện truyền thông".20
Tất cả điều này áp dụng cho Internet. Và cho dù thế giới truyền thông "đôi khi tỏ ra ác cảm với thông điệp Kitô Giáo, nó cũng đem lại những cơ hội độc nhất cho việc công bố Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô cho toàn thể nhân loại. Hãy xem ...những khả năng tích cực của Internet nhằm chuyển tải những thông tin tôn giáo và giáo huấn vượt mọi rào cản và biên giới. Một số thính giả rộng lớn như vậy vượt quá trí tưởng tượng phong phú nhất của những người truyền giảng Tin Mừng đi trước chúng ta...Người Công Giáo không nên sợ mở rộng cửa truyền thông xã hội ra cho Chúa Kitô, để Tin Mừng của Ngài có thể được nghe từ trên những mái nhà của thế giới".21
(1) John Paul II, encyclical letter Laborem Exercens, n. 25; cf. Vatican Council II, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, n. 34.
(2) Vatican Council II, Decree on the Means of Social Communication Inter Mirifica, n. 1.
(3) For example, Inter Mirifica; the Messages of Pope Paul VI and Pope John Paul II on the occasion of the World Communication Days; Pontifical Council for Social Communications, Pastoral Instruction Communio et Progressio, Pornography and Violence in the Communications Media: A Pastoral Response, Pastoral Instruction Aetatis Novae, Ethics in Advertising, Ethics in Communications.
(4) Pornography and Violence in the Communications Media, n. 30.
(5) Communio et Progressio, n. 2.
(6) John Paul II, Message for the 34th World Communications Day, June 4, 2000.
(7) Communio et Progressio, n. 10.
(8) Vatican Council II, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 39.
(9) Inter Mirifica, 2.
(10) Pontifical Council for Social Communications, Ethics in Internet.
(11) Aetatis Novae, 8.
(12) Ibid.
(13) Ethics in Communications, n. 3.
(14) Cf. Vatican Council II, Dogmatic Constitution on Divine Revelation Dei Verbum, n. 10.
(15) Aetatis Novae, n. 10.
(16) Ethics in Communications, n. 26.
(17) Communio et Progressio, 128.
(18) Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, n. 45.
(19) Encyclical Redemptoris Missio, n. 37.
(20) Aetatis Novae, n. 2.
(21) John Paul II, Message for the 35th World Communications Day, n. 3, May 27, 2001.
Bản dịch Việt Ngữ của J.B Đặng Minh An
Văn kiện GIÁO HỘI VÀ INTERNET
(02/03/2002). GIÁO HỘI VÀ INTERNET
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
Nội Dung
I. Dẫn Nhập
II. Cơ hội và Thách Đố
III. Những đề nghị và kết luận
I. DẪN NHẬP
1. Quan tâm của Giáo Hội đối với Internet là một thể hiện cụ thể của mối quan tâm đã có từ lâu của Giáo Hội đối với các phương tiện truyền thông xã hội. Trong khi xem các phương tiện truyền thông như là một thành quả của tiến trình khoa học lịch sử theo đó con người "tiến xa hơn nữa trong việc khám phá những tài nguyên và những giá trị chứa đựng trong toàn thể kỳ công sáng tạo" 1, Giáo Hội thường tuyên bố niềm xác tín của mình, theo cách nói của Công Đồng Vatican II, rằng chúng là "những sáng tạo kỹ thuật diệu kỳ"2 đã đáp ứng rất nhiều những nhu cầu của con người và ngay cả có thể còn làm hơn thế nữa.
Chính vì thế, Giáo Hội đã chọn bước tiến về cơ bản là tích cực đối với các phương tiện truyền thông. 3 Ngay cả khi lên án những lạm dụng nghiêm trọng, những tài liệu của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Truyền Thông Xã Hội đã liên tục cố gắng làm rõ rằng "một thái độ kiểm duyệt đơn giản về phần Giáo Hội ... vừa không đầy đủ mà lại còn là không thích hợp". 4.
Khi trích dẫn lời của Đức Giáo Hoàng Piô thứ XII trong thông điệp Miranda Prorsus năm 1957, Chỉ Dẫn Mục Vụ Về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội Communio et Progressio, được xuất bản năm 1971, đã nhấn mạnh điểm này: "Giáo Hội xem các phương tiện truyền thông này là 'quà tặng của Thiên Chúa' mà, theo dự định quan phòng của Ngài, hiệp nhất nhân loại trong tình huynh đệ và như thế giúp họ hợp tác với kế hoạch của Ngài cho ơn cứu độ của họ".5 Điều này cũng là quan điểm của chúng ta, và đó là quan điểm chúng ta chọn đối với Internet.
2. Theo hiểu biết của Giáo Hội, lịch sử của truyền thông nhân loại giống như một cuộc hành trình dài, đem nhân loại "từ dự án tháp Babel lèo lái bởi lòng kiêu ngạo và sự sụp đổ trong hoang mang và không thể hiểu biết lẫn nhau do dự án này gây ra (xem. Gen 11:1-9), đến Ngày Lễ Ngũ Tuần và ơn nói nhiều tiếng lạ: một sự phục hồi truyền thông, lấy Đức Giêsu làm trung tâm điểm, qua các tác động của Chúa Thánh Thần".6 Trong sự sống, sự chết, và sự phục sinh của Đức Kitô "truyền thông giữa con người tìm thấy lý tưởng cao nhất của nó và tìm thấy gương tối cao nơi Thiên Chúa đấng đã trở nên con người và nên anh em với nhân loại". 7
Những phương tiện truyền thông xã hội hiện đại là những yếu tố văn hóa đóng một vai trò trong câu chuyện này. Như Công Đồng Vatican II nhận xét: "mặc dù chúng ta cần phải cẩn thận phân biệt một cách rõ ràng tiến bộ trần thế với sự tăng trưởng của vương quốc Chúa Kitô", "tiến bộ này nằm trong mối quan tâm thiết yếu của Nước Chúa vì nó có thể đóng góp vào việc sắp đặt tốt hơn trật tự trong xã hội loài người ".8 Trong khi đánh giá các phương tiện truyền thông xã hội dưới ánh sáng này, chúng ta thấy rằng chúng "đóng góp lớn lao cho sự lớn mạnh và sự phong phú trí tuệ con người và cho sự truyền bá và củng cố Nước Chúa".9
Ngày nay, điều này áp dụng cách đặc biệt cho Internet, là phương tiện truyền thông đang giúp đem lại những thay đổi có tính cách mạng trong thương mại, giáo dục, chính trị, báo chí, quan hệ giữa các dân tộc và giữa các nền văn hóa - những thay đổi không chỉ trong cách thế con người giao tiếp với nhau nhưng cả trong cách thế họ hiểu biết cuộc sống. Trong một tài liệu đính kèm, Đạo Đức trong Internet, chúng ta bàn thảo những vấn đề này trong chiều kích đạo đức. 10 Ở đây, chúng ta xem xét những hệ quả của Internet đối với tôn giáo và đặc biệt đối với Giáo Hội Công Giáo.
3. Giáo Hội có một mục tiêu gồm hai mặt liên quan đến các phương tiện truyền thông. Một mặt là thúc đẩy sự phát triển đúng đắn và sự sử dụng thích đáng các phương tiện truyền thông vì lợi ích của sự phát triển nhân loại, công lý và hòa bình - cho sự thăng tiến của xã hội ở cấp địa phương, quốc gia và các cấp cộng đồng dưới ánh sáng của lợi ích chung và trong một tinh thần liên đới. Khi xem xét tầm quan trọng lớn lao của truyền thông xã hội, Giáo Hội tìm kiếm "một sự đối thoại thành thật và tôn trọng với những ai chịu trách nhiệm trong ngành truyền thông xã hội" - một sự đối thoại liên quan chủ yếu đến sự hình thành chính sách của các phương tiện truyền thông. 11 Về phía Giáo Hội, sự đối thoại này liên quan đến những nỗ lực nhằm hiểu biết phương tiện truyền thông - mục đích của chúng, các trình tự, các hình thái và chủng loại, các cấu trúc nội tại và các phương thức - và để đưa ra sự hỗ trợ và khích lệ với những ai liên quan đến các hoạt động truyền thông. Trên căn bản của sự hiểu biết và ủng hộ thiện cảm này, có thể đưa ra những đề nghị có ý nghĩa cho việc tháo bỏ những cản trở cho tiến bộ nhân loại và cho việc công bố Tin Mừng. 12
Nhưng quan tâm của Giáo Hội còn liên quan đến việc truyền thông trong và bởi chính Giáo Hội. Loại truyền thông này vượt xa sự áp dụng kỹ thuật, vì nó "tìm thấy điểm xuất phát trong sự hiệp thông yêu thương giữa các Ngôi Vị Chí Thánh và việc truyền thông giữa các Ngài với chúng ta", và trong nhận thức rằng truyền thông của Ba Ngôi "đến với loài người: Ngôi Con là Lời, được 'nói' muôn đời bởi Chúa Cha; trong và qua Đức Giêsu Kitô, Ngôi Con và Lời đã hoá thành nhục thể, Thiên Chúa truyền thông chính Ngài và ơn cứu độ của Ngài cho người nữ, người nam". 13
Thiên Chúa tiếp tục truyền thông với nhân loại qua Giáo Hội, người mang lấy và gìn giữ mạc khải của Ngài, người duy nhất với chức trách dạy dỗ đã được ủy thác nhiệm vụ diễn giải trung thực lời Ngài.14 Hơn thế nữa, chính Giáo Hội là một communio, một sự hiệp thông của cá nhân và các cộng đoàn thánh thể do bởi và phản ảnh sự hiệp thông của Ba Ngôi; 15 truyền thông do đó là đặc trưng của Giáo Hội. Điều này, trên tất cả mọi lý do khác, là lý do tại sao "việc thực hành truyền thông của Giáo Hội phải là gương mẫu, phản ảmh các tiêu chuẩn cao nhất của sự đúng đắn, khả tín, và nhậy cảm đối với nhân quyền, và các nguyên tắc cũng như các chuẩn mực khác".16
4. Thông điệp Communio et Progressio cách đây ba thập niên đã chỉ ra rằng "các phương tiện truyền thông hiện đại đem lại những cách thế mới để đưa con người đối diện với thông điệp của Tin Mừng".17 Đức Thánh Cha Phaolô VI nói rằng Giáo Hội "có lỗi trước mặt Chúa" nếu không sử dụng các phương tiện truyền thông cho việc truyền bá Tin Mừng. 18 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gọi các phương tiện truyền thông là "Areopagus [trên đồi Ares nơi đặt toà án tối cao của người Athens thờ xa xưa - chú thích của người dịch] đầu tiên của thời hiện đại", và tuyên bố rằng "Sử dụng các phương tiện truyền thông chỉ để loan truyền thông điệp Kitô Giáo và huấn giáo chân thật của Giáo Hội là chưa đủ. Cần phải hội nhập thông điệp này trong 'nền văn hóa mới' đã được hình thành bởi truyền thông hiện đại".19 Ngày nay, sự thực hiện điều này còn quan trọng hơn thế nữa vì bên cạnh việc các phương tiện truyền thông ngày nay ảnh hưởng mạnh mẽ đến điều mà người ta nghĩ về cuộc sống, còn có một cấp độ lớn hơn "con người cảm nhận chính nó trong cảm nhận của các phương tiện truyền thông".20
Tất cả điều này áp dụng cho Internet. Và cho dù thế giới truyền thông "đôi khi tỏ ra ác cảm với thông điệp Kitô Giáo, nó cũng đem lại những cơ hội độc nhất cho việc công bố Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô cho toàn thể nhân loại. Hãy xem ...những khả năng tích cực của Internet nhằm chuyển tải những thông tin tôn giáo và giáo huấn vượt mọi rào cản và biên giới. Một số thính giả rộng lớn như vậy vượt quá trí tưởng tượng phong phú nhất của những người truyền giảng Tin Mừng đi trước chúng ta...Người Công Giáo không nên sợ mở rộng cửa truyền thông xã hội ra cho Chúa Kitô, để Tin Mừng của Ngài có thể được nghe từ trên những mái nhà của thế giới".21
II. CƠ HỘI VÀ THÁCH ĐỐ
5. "Truyền thông trong và bởi Giáo Hội về bản chất là những truyền thông về Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Đó là việc công bố Tin Mừng như một lời có tính tiên tri và giải thoát cho những người nam, người nữ trong thời đại chúng ta; đó là lời chứng cho sự thật thánh thiện và cho phẩm giá cao trọng của con người trước sự tục hóa tận gốc; đó là chứng tá được đưa ra trong tình liên đới với tất cả những tín hữu, chống lại sự tranh chấp và chia rẽ để minh chứng cho công lý và sự hiệp thông giữa các dân tộc, các quốc gia và các nền văn hóa".22
Do việc công bố Tin Mừng cho con người sống trong một nền văn hóa truyền thông đòi hỏi sự suy xét thận trọng những đặc tính của chính các phương tiện truyền thông, Giáo Hội ngày nay cần hiểu về Internet. Điều này là cần thiết để giao tiếp hiệu quả với con người - đặc biệt với những người trẻ - những người đang chìm ngập trong kỹ thuật này; và cũng để Giáo Hội thể dùng nó tốt hơn.
Các phương tiện truyền thông đem đến những lợi ích quan trọng và những thuận lợi từ góc độ tôn giáo: "Chúng chuyển tải tin tức và thông tin về các biến cố tôn giáo, các ý tưởng, và các nhân cách; chúng được dùng như phương tiện truyền bá Tin Mừng và giáo lý. Ngày qua ngày, chúng đem đến sự linh hứng, khích lệ và những cơ hội cho những cá nhân bị bó gối trong nhà hay trong những cơ sở".23 Nhưng trỗi vượt trên tất cả các phương tiện truyền thông, Internet đem lại những ích lợi rất đặc biệt. Nó cho phép người ta trực tiếp và tức khắc tiếp cận những tài nguyên tôn giáo và tâm linh quan trọng - những thư viện khổng lồ, những nhà bảo tàng và những nơi thờ phượng, những văn kiện giáo huấn của Huấn Quyền, những bài viết của các Giáo Phụ và các Tiến Sĩ Hội Thánh và kho tàng khôn ngoan tôn giáo của nhiều thời đại. Internet có một khả năng đáng kể để vượt qua khoảng cách và sự cô lập, giúp con người có thể tiếp xúc với những người thiện chí có cùng tư tưởng, những người gia nhập vào những cộng đoàn đức tin ảo (virtual communities of faith) để khích lệ và nâng đỡ lẫn nhau. Giáo Hội có thể thực thi một sự phục vụ quan trọng cho người Công Giáo cũng như không Công Giáo bằng sự lựa chọn và truyền đi những dữ liệu hữu ích qua phương tiện truyền thông này.
Internet có liên quan đến nhiều hoạt động và chương trình của Giáo Hội - phúc âm hóa, bao gồm cả tái phúc âm hóa và tân phúc âm hóa và những hoạt động truyền giáo truyền thống, giáo lý và các hình thức giáo dục khác, tin tức và thông tin, hộ giáo (apologetics), chăn dắt và quản trị, và các hình thức tư vấn mục vụ và khải đạo tâm linh. Mặc dù thực tại ảo (virtual reality) của không gian điện toán (cyberspace) không thể thay thế cho cộng đoàn giao tiếp cá nhân thực sự, cho sự hiện diện của Chúa trong các phép bí tích và trong phụng vụ, hay cho sự công bố tức khắc và trực tiếp Tin Mừng, nó vẫn có thể bổ sung, lôi kéo người ta đến một kinh nghiệm đầy đủ hơn của cuộc sống đức tin và làm phong phú đời sống đạo của những người dùng nó. Nó cũng đem đến cho Giáo Hội một phương tiện để truyền thông cho những nhóm cụ thể - những người trẻ và những người mới thành niên, những người già và những người bị bó gối trong nhà, những người sống ở các miền xa xôi, các thành viên của các thực thể tôn giáo khác - những người mà nếu không có Internet rất khó có thể tiếp cận.
Một con số ngày càng đông đảo những giáo xứ, những địa phận, những dòng tu và các cơ quan có liên hệ với Giáo Hội, các chương trình, và các tổ chức đủ loại đang tận dụng Internet cho những mục đích nêu trên và những mục đích khác nữa. Những đề án sáng tạo do Giáo Hội bảo trợ đang hiện diện tại nhiều nơi ở cấp quốc gia và khu vực. Tòa Thánh đã rất tích cực trong lãnh vực này và đang tiếp tục mở rộng và phát triển sự hiện diện của mình trên Internet. Các nhóm có liên quan với Giáo Hội mà chưa bước vào không gian điện toán được khuyến khích hãy xem xét khả năng thực hiện điều này trong thời gian ngắn. Chúng tôi mạnh mẽ khuyến khích sự trao đổi ý tưởng và thông tin về Internet giữa những ai có kinh nghiệm trong lãnh vực này với những người mới làm quen.
6. Giáo Hội cũng cần phải hiểu và dùng Internet như là một phương tiện truyền thông nội bộ. Điều này đòi hỏi chúng ta giữ một nhận thức rõ ràng về đặc tính của Internet như một phương tiện truyền thông trực tiếp, tức thời, giao tiếp (interactive) và dự phần (participatory). Sự giao tiếp hai chiều của Internet đang làm mờ đi sự phân biệt cổ điển giữa những người truyền thông và những người nhận được truyền thông,24 và tạo ra một tình trạng theo đó, mọi người, ít nhất là về triển vọng, có thể đóng cả hai vai trò. Đây không phải là loại truyền thông một chiều, rót từ trên xuống như trong quá khứ. Khi ngày càng nhiều người trở nên quen thuộc với đặc điểm này của Internet trong các lãnh vực khác của đời sống, họ cũng có thể được mong đợi tìm kiếm điều này trong lãnh vực tôn giáo và Giáo Hội.
Kỹ thuật này là mới, nhưng ý tưởng thì không mới. Công Đồng Vatican II nói rằng các thành viên của Giáo Hội cần giãi bày cho các mục tử của họ "những nhu cầu và ước muốn với sự tự do và tự tin thích hợp của con cái Chúa và anh em của Đức Kitô"; thật vậy, theo hiểu biết, khả năng hay vị trí, người tín hữu không những có thể mà đôi khi có trách nhiệm phải phát biểu ý kiến về những vấn đề liên hệ đến lợi ích của Giáo Hội".25 Communio et Progressio nhận xét rằng như một "thân thể sống động" Giáo Hội "cần ý kiến của công chúng để nuôi dưỡng việc cho và nhận giữa các thành viên".26 Mặc dù những sự thật đức tin "không cho phép những diễn giải tùy tiện", chỉ dẫn mục vụ này ghi nhận "một lãnh vực to lớn nơi các thành viên của Giáo Hội có thể bày tỏ quan điểm của họ".27
Những ý tưởng tương tự như thế cũng được nêu ra trong Giáo Luật 28 cũng như trong các tài liệu gần đây của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Truyền Thông Xã Hội.29 Aetatis Novae gọi truyền thông hai chiều và ý kiến công chúng là "một trong những cách thế nhận thức một cách cụ thể tính cách của Giáo Hội như communio"30 Văn kiện Đạo Đức Trong Truyền Thông cho biết: "Một dòng chảy thông tin và quan điểm hai chiều giữa các mục tử và giáo dân, sự tự do phát biểu nhạy cảm với sự hưng thịnh của cộng đoàn và vai trò của Huấn Quyền trong việc nuôi dưỡng nó, và những ý kiến công chúng có trách nhiệm, tất cả là những biểu hiện quan trọng của 'quyền căn bản về đối thoại và thông tin bên trong Giáo Hội'"31 Internet đem đến một phương tiện kỹ thuật hiệu quả để hiện thực hóa viễn kiến này.
Do đó, đây là một khí cụ có thể dùng một cách sáng tạo cho nhiều khía cạnh của quản trị và chăn dắt. Cùng với việc mở ra những kênh cho việc phát biểu ý kiến công khai, chúng ta có trong đầu những thứ này như là những chuyên viên về cố vấn, chuẩn bị cho những buổi hội họp, và thực hành sự hợp tác trong và giữa các giáo xứ, và các cơ quan tôn giáo trên phạm vi địa phương, quốc gia và quốc tế.
7. Giáo dục và huấn luyện là một lãnh vực khác nữa của cơ hội và nhu cầu. "Ngày nay mọi người đều cần một số dạng thức học tiếp về truyền thông xã hội qua việc tự học hay tham gia vào một chương trình có tổ chức hoặc cả hai. Không chỉ dạy về kỹ thuật, giáo dục truyền thông giúp con người hình thành những tiêu chuẩn về sở thích và sự phán đoán luân lý theo sự thật, một khía cạnh của sự hình thành lương tâm. Qua các trường học và các chương trình đào tạo, Giáo Hội nên cung cấp giáo dân truyền thông loại này". 32
Giáo dục và đào tạo về Internet cần phải là một phần của những chương trình hoàn chỉnh về giáo dục truyền thông dành cho mọi thành phần của Giáo Hội. Hoạch định mục vụ dành cho truyền thông xã hội cần phải dành đến mức có thể được cho việc cung cấp sự huấn luyện này trong quy trình đào tạo chủng sinh, linh mục, tu sĩ và các giáo dân tham gia việc mục vụ, cũng như các thầy cô giáo, các bậc cha mẹ và học sinh.33
Các người trẻ đặc biệt cần được dạy "không phải chỉ để trở nên người Kitô hữu tốt khi họ là những người tiếp nhận truyền thông nhưng còn phải nên tích cực trong việc sử dụng tất cả các trợ giúp truyền thông nằm trong các phương tiện truyền thông đại chúng...Nhờ thế, những người trẻ sẽ là những công dân thực sự của thời đại truyền thông xã hội đã bắt đầu"34 - một thời đại trong đó truyền thông đại chúng được xem như "một phần của một nền văn hóa đang mở ra mà những hệ quả đầy đủ vẫn chưa được hiểu hoàn toàn"35 Giảng dạy về Internet và kỹ thuật mới do đó liên quan nhiều hơn là giảng dạy về mặt kỹ thuật; thanh niên cần học biết cách hành xử tốt trong không gian điện toán, đưa ra những phán đoán sắc bén theo những tiêu chuẩn luân lý lành mạnh về những gì họ thấy trong không gian này, và sử dụng kỹ thuật mới cho sự phát triển tổng thể và cho lợi ích của tha nhân.
8. Internet cũng đưa ra nhiều vấn nạn đặc biệt cho Giáo Hội, được bàn thảo đại cương trong văn kiện Đạo Đức và Internet, là văn kiện đi kèm với văn kiện này.36 Trong khi nhấn mạnh đến điều tích cực về Internet, điều quan trọng là cần phải rõ ràng về điều gì không tích cực.
Ở một mức rất sâu, "thế giới truyền thông có thể đôi khi thờ ơ hay ngay cả thù địch với đức tin và luân lý Kitô Giáo. Điều này một phần do bởi văn hóa truyền thông tiêm nhiễm quá đậm một ý tưởng tiêu biểu của thời hậu hiện đại theo đó sự thật duy nhất tuyệt đối là không có sự thật tuyệt đối hay, nếu có những sự thật như thế, thì chúng không thể tiếp cận với lý trí nhân loại và do đó là không có liên quan"37
Trong những vấn nạn đặc thù do Internet đưa ra phải kể đến sự có mặt của những trạm thông tin (site) thù địch dành riêng cho việc hạ nhục và tấn công các nhóm tôn giáo và sắc tộc. Một số trong những trạm thông tin này tấn công vào Giáo Hội Công Giáo. Cũng như hiện tượng tài liệu khiêu dâm và kích động bạo lực trong truyền thông xã hội, các trạm thông tin thù địch trên Internet là "những phản ảnh của mặt trái tối tăm của một bản tính nhân loại bị hủy hoại bởi tội lỗi"38 Và trong khi sự tôn trọng quyền tự do phát biểu có thể đòi hỏi khoan dung ngay cả với những tiếng nói hận thù đến một mức độ nào đó, sự tự điều chỉnh trong kỹ nghệ truyền thông và, nếu cần, sự can thiệp của nhà chức trách - cần được thiết lập và đề ra những giới hạn hợp lý cho những gì có thể được phát biểu.
Sự lan tràn của những trạm thông tin tự xưng là Công Giáo cũng tạo ra một vấn đề thuộc dạng khác. Như chúng ta đã nói, các nhóm liên hệ đến Giáo Hội nên hiện diện cách sáng tạo trên Internet; các cá nhân và các nhóm không chính thức có động cơ tốt và được thông tin đầy đủ, hoạt động theo sáng kiến của riêng họ cũng nên có mặt trên Internet. Nhưng quả là lúng túng, tối thiểu phải nói như thế, khi cần phân biệt giữa những diễn giải của những giáo lý chuyên biệt, những thực hành đạo đức cá nhân, những tranh luận về ý thức hệ mang nhãn hiệu Công Giáo với những lập trường chân thật của Giáo Hội. Chúng tôi đề nghị một giải pháp cho vấn nạn này trong phần dưới đây.
9. Những vấn đề nhất định khác cũng đòi hỏi nhiều suy tư. Khi xem xét những vấn đề này, chúng tôi khích lệ việc tìm kiếm và nghiên cứu tiếp tục, bao gồm cả "sự phát triển của một ngành nhân loại học và thần học về truyền thông"39, với quy chiếu đặc biệt đến Internet. Cùng với việc nghiên cứu và tìm kiếm, cố nhiên, việc hoạch định mục vụ tích cực cho việc dùng Internet có thể và cần phải xúc tiến.40
Một lãnh vực nghiên cứu liên quan đến đề xuất cho rằng những lựa chọn quá phong phú những sản phẩm tiêu thụ và những dịch vụ trên Internet có thể có một tác động lây lan trên phương diện tôn giáo và kích thích một giải pháp "tiêu dùng" cho những vấn đề thuộc đức tin. Những dữ liệu thống kê cho thấy một số người ghé thăm các trạm thông tin tôn giáo hành xử như đang đi mua sắm, lựa chọn những thành phần của những gói hàng tôn giáo được cắt xén theo sở thích. "Khuynh hướng về phía những người Công Giáo muốn chọn lọc trong sự trung thành" với các giáo huấn Giáo Hội là một vấn nạn đã được nhìn nhận trong những bối cảnh khác;41 nhiều thông tin liên quan đến vấn đề liệu rằng Internet có làm xấu thêm vấn nạn này không và đến mức độ nào là rất cần thiết.
Tương tự, như đã lưu ý ở trên, thực tại ảo của không gian điện toán có một số hệ quả gây ra lo lắng cho tôn giáo cũng như cho các lãnh vực khác của đời sống. Thực tại ảo không thể thay thế cho sự Hiện Diện Thật Sự của Đức Kitô trong Thánh Thể, cho thực tại bí tích của các bí tích khác, và cho việc chia sẻ thờ phượng trong một cộng đoàn nhân loại máu thịt. Không có bí tích nào trên Internet cả; và cả những cảm nghiệm tôn giáo, có thể xảy ra ở đó nhờ hồng ân của Thiên Chúa, cũng không đủ để tách biệt khỏi sự giao tiếp trong thế giới thực với những anh chị em cùng đức tin. Đây là một khía cạnh khác của Internet đòi hỏi nghiên cứu và suy tư. Đồng thời, hoạch định mục vụ cần xem xét cách thế dẫn dắt con người từ không gian điện toán đến cộng đoàn đích thực và cách thế, qua giảng dạy và giáo lý, Internet có thể được dùng để nuôi dưỡng và làm phong phú họ trong cuộc sống Kitô Giáo.
III. NHỮNG ĐỀ NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
10. Những tín hữu, cũng như những thành phần ưu tư của một số đông hơn những khán giả của Internet, những người có những quan tâm hợp pháp nhất định của riêng họ, mong muốn dự phần vào tiến trình dẫn dắt sự hình thành tương lai của phương tiện truyền thông mới này. Cũng cần phải nói là điều này đôi khi đòi hỏi họ phải điều chỉnh lại cho thích ứng lề lối tư duy và thực hành của họ.
Một điều quan trọng nữa là mọi người ở mọi cấp của Giáo Hội cần dùng Internet cách sáng tạo để chu toàn bổn phận của họ và giúp Giáo Hội thực thi sứ mạng của mình. Lui lại một cách nhút nhát vì sợ kỹ thuật hay vì lý do khác là không thể chấp nhận, khi tính đến những khả năng rất tích cực của Internet. "Những phương pháp đem lại tiện nghi truyền thông và đối thoại giữa các thành phần của Giáo Hội có thể củng cố những mối dây hiệp nhất giữa họ. Việc tiếp cận tức khắc với thông tin giúp Giáo Hội có thể đào sâu thêm đối thoại với thế giới đương đại… Giáo Hội có thể sẵn sàng hơn để cho thế giới biết về niềm tin của mình và giải thích những lý do cho lập trường của mình về bất cứ vấn đề và biến cố nào. Giáo Hội có thể nghe rõ ràng hơn tiếng nói của ý kiến công chúng, và bước vào một cuộc tranh luận liên tục với thế giới quanh mình, và như thế dấn thân trực tiếp hơn trong nỗ lực tìm kiếm chung những giải pháp cho rất nhiều những vấn đề căng thẳng của nhân loại".42
11. Do đó, để kết luận những suy tư này, chúng tôi đưa ra những lời khích lệ cho những nhóm đặc biệt - những nhà lãnh đạo Giáo Hội, các vị mục tử, các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ và đặc biệt cho những người trẻ.
Với những nhà lãnh đạo Giáo Hội: Những đấng bậc trong cương vị lãnh đạo trong mọi lãnh vực của Giáo Hội cần hiểu biết về các phương tiện truyền thông đại chúng, áp dụng những hiểu biết này trong việc hình thành các kế hoạch mục vụ cho truyền thông xã hội43 cùng với những chính sách cụ thể và những chương trình trong lãnh vực này, và sử dụng thích hợp các phương tiện truyền thông. Khi cần thiết, chính các vị cũng nên học tập về truyền thông; thật ra, "Giáo Hội sẽ được phục vụ tốt hơn nếu có nhiều vị đang giữ các chức vụ và thi hành các chức năng nhân danh Giáo Hội nhận được những huấn luyện về truyền thông".44
Điều này áp dụng cho Internet cũng như cho các phương tiện truyền thông cổ điển. Các nhà lãnh đạo Giáo Hội buộc phải dùng "hết các tiềm năng của thời đại điện toán để phục vụ con người và những ơn gọi cao trọng của mỗi người, và do đó làm vinh danh Chúa Cha, đấng xuất phát mọi điều thiện hảo"45 Họ phải sử dụng kỹ thuật nổi bật này trong nhiều khía cạnh của sứ vụ Giáo Hội, trong khi cũng tìm kiếm những cơ hội cho sự hợp tác đại kết và liên tôn trong việc sử dụng nó.
Một khía cạnh đặc biệt của Internet, như chúng ta đã thấy, liên quan đến sự lan tràn đôi khi rất dễ gây hoang mang của các trạm thông tin mang danh "Công Giáo". Một hệ thống cầu chứng tự nguyện (voluntary certification) ở các cấp địa phương và quốc gia có thể có ích khi liên quan đến những tài liệu có tính chất tín lý hay giáo lý. Ý tưởng ở đây không phải là vấn đề kiểm duyệt nhưng là để cung cấp cho những người dùng Internet một chỉ dẫn khả tín về điều được cho là lập trường chân thực của Giáo Hội.
Với những mục tử: Linh mục, phó tế, tu sĩ và những giáo dân làm việc mục vụ cần phải được huấn luyện về truyền thông để tăng cường hiểu biết của họ về hệ quả của truyền thông xã hội đối với cá nhân và xã hội; và giúp họ đạt được một cách thế truyền thông làm rung động lòng người và gây thu hút nơi con người trong một nền văn hóa truyền thông. Ngày nay, điều này rõ ràng bao gồm việc huấn luyện về Internet, kể cả việc làm sao dùng nó trong công việc của họ. Họ cũng được lợi từ những trạm thông tin cung cấp cập nhật về thần học và các gợi ý mục vụ.
Với những nhân sự trong Giáo Hội trực tiếp liên quan đến truyền thông xã hội, điều chắc chắn khỏi cần phải nói là họ cần phải được đào tạo chuyên nghiệp. Nhưng họ cũng cần được đào tạo về tín lý và tâm linh, bởi vì "để làm chứng tá cho Đức Kitô, cần thiết là chính ta phải gặp gỡ Ngài và nuôi dưỡng một mối liên hệ cá nhân với Ngài qua cầu nguyện, Thánh Thể và bí tích hòa giải, đọc và suy niệm Lời Chúa, học hỏi tín lý Kitô Giáo, và phục vụ tha nhân".46
Với những nhà giáo dục và các giáo lý viên: Chỉ Thị Mục Vụ Communio et Progressio đã nói về "bổn phận cần kíp" của trường Công Giáo để huấn luyện những nhà truyền thông và những người tiếp nhận truyền thông xã hội trong mối liên hệ với những nguyên tắc của Kitô Giáo. 47 Thông điệp tương tự đã được lặp lại nhiều lần. Trong thời đại của Internet, với tầm vươn tới và hệ quả to lớn của nó, nhu cầu này còn cấp bách hơn bao giờ.
Các trường đại học, các học viện, các trường học, và các chương trình giáo dục ở mọi cấp phải cung cấp những khóa học cho những nhóm khác nhau - "các chủng sinh, các linh mục, các sư huynh và các nữ tu, các nhà lãnh đạo giáo dân … các thầy cô giáo, các bậc cha mẹ và học sinh"48 - cũng như khóa học cao hơn về kỹ thuật truyền thông, quản lý, đạo đức, và chính sách cho những cá nhân đang chuẩn bị cho công việc truyền thông xã hội chuyên nghiệp hay cho những vai trò đưa ra quyết định, bao gồm cả những người làm việc trong ngành truyền thông cho Giáo Hội. Xa hơn nữa, chúng tôi đưa ra những vấn đề và những khúc mắc nêu trên với những học giả và những nhà nghiên cứu thuộc những ngành có liên quan trong các cơ sở Công Giáo chuyên môn.
Với các bậc cha mẹ: Vì lợi ích của con cái họ, cũng như của chính họ, các bậc cha mẹ cần phải "học và thực hành những năng khiếu của những người xem, nghe và đọc một cách nhạy bén, hành xử như những mẫu gương về sự sử dụng thận trọng các phương tiện truyền thông xã hội tại gia"49 Về phương diện Internet, trẻ em và thanh niên thường tỏ ra quen thuộc hơn là cha mẹ chúng, nhưng cha mẹ vẫn phải hướng dẫn và giám sát con cái họ trong việc sử dụng Internet.50 Nếu điều này có nghĩa là họ phải học hỏi thêm về Internet, thì đó cũng là điều đáng làm.
Việc giám sát của cha mẹ phải bao gồm cả việc phải bảo đảm rằng kỹ thuật lọc (filtering technology) được dùng trong những máy điện toán dành cho con cái khi điều kiện tài chính và kỹ thuật cho phép, ngõ hầu bảo vệ con trẻ tối đa có thể được khỏi những tài liệu khiêu dâm, những kẻ săn tìm tính dục, và những đe dọa khác. Tiếp cận với Internet mà không có giám sát là điều không thể cho phép. Cha mẹ và con cái cần đối thoại với nhau về những điều đã thấy và đã kinh qua trong không gian điện toán; chia sẻ với những gia đình khác có cùng những giá trị và cùng những mối ưu tư sẽ rất là hữu ích. Bổn phận căn bản của cha mẹ ở đây là giúp con cái trở nên những người sử dụng biết phân định và có trách nhiệm, và không là những kẻ nghiện Internet đến nỗi lơ là những tiếp xúc với chúng bạn và cả với thiên nhiên.
Đối với trẻ em và các bạn trẻ: Internet là cánh cửa mở ra một thế giới ồn ào náo nhiệt với ảnh hưởng định hình mạnh mẽ; nhưng không phải mọi thứ ở đàng sau cánh cửa là an toàn, lành mạnh và trung thực. "Việc đào tạo liên quan đến các phương tiện truyền thông xã hội cần được mở ra cho trẻ em và thanh niên nhằm chống lại con đường dễ dàng của sự tuân theo mà không biết phê phán, chống lại áp lực bạn bè và khai thác thương mại"51. Người trẻ có bổn phận với chính họ - và với cha mẹ, gia đình và bạn bè, các vị mục tử và thầy cô giáo, và trên hết là với Thiên Chúa - phải dùng Internet một cách lành mạnh.
Internet đặt trong tầm với của thanh niên ở vào tuổi rất sớm một khả năng bao la để làm điều tốt cũng như để gây hại, cho chính họ và cho người khác. Nó có thể làm phong phú đời sống họ vượt xa những mơ ước của các thế hệ đi trước và đến lượt lại cho họ khả năng để làm phong phú đời sống của những người khác. Internet cũng có thể nhận chìm họ trong chủ nghĩa tiêu thụ, hoang tưởng dâm đãng và bạo lực, và cô lập về tâm lý.
Thanh niên, như thường được đề cập đến, là tương lai của xã hội và Giáo Hội. Việc sử dụng lành mạnh Internet có thể giúp chuẩn bị cho họ gánh vác trách nhiệm với xã hội và Giáo Hội. Nhưng điều này không tự động xảy đến. Internet không chỉ đơn giản là một phương tiện truyền thông dành cho vui chơi giải trí và mua sắm. Nó là dụng cụ để hoàn thành công việc hữu ích, và thanh niên phải học để xem và dùng nó như thế. Trong không gian điện toán, tối thiểu giống như ở những hoàn cảnh khác, họ có thể được kêu gọi để đi ngược lại với trào lưu, chống lại xu hướng văn hóa, ngay cả chịu bắt bớ vì lẽ công chính.
12. Đối với những người thiện chí: Cuối cùng, chúng tôi đề nghị một số đức tính cần rèn luyện với những ai muốn dùng tốt Internet; việc thực hành các đức tính này cần phải dựa trên và hướng dẫn bởi một sự đánh giá thực tiễn nội dung.
Sự thận trọng là cần thiết để thấy rõ những hệ quả - tiềm năng dẫn đến sự thiện và sự dữ - trong phương tiện truyền thông này và để đáp trả cách sáng tạo với những cơ hội và thách đố của nó.
Công lý là cần thiết, đặc biệt công lý trong nỗ lực đóng lại khoảng cách điện số (digital divide) - khoảng cách giữa kẻ giàu thông tin và kẻ nghèo thông tin trong thế giới ngày nay.52 Điều này đòi hỏi một cam kết cho lợi ích chung của quốc tế không thua gì "sự toàn cầu hóa tình liên đới"53
Dũng cảm là cần thiết. Điều này có nghĩa là đứng dậy cho sự thật khi đối diện với chủ nghĩa tương đối hóa tôn giáo và luân lý, đứng dậy cho sự xả kỷ và quảng đại khi đối diện với chủ nghĩa tiêu dùng cá nhân, đứng dậy cho sự đứng đắn khi đối diện với dâm dục và tội lỗi.
Và tự chế là cần thiết - một giải pháp kỷ luật tự giác cho khí cụ kỹ thuật phi thường này, Internet, cũng như việc dùng nó khôn ngoan và chỉ dùng cho điều thiện.
Khi suy niệm về Internet, cũng như về tất cả các phương tiện truyền thông xã hội khác, chúng tôi nhắc nhớ rằng Đức Kitô là "nhà truyền thông hoàn hảo" 54 - chuẩn mực và mẫu gương cho bước tiến truyền thông của Giáo Hội - cũng như là nội dung mà Giáo Hội có bổn phận phải truyền thông. "Xin cho những người Công Giáo liên quan đến thế giới truyền thông rao giảng sự thật về Đức Giêsu mạnh dạn hơn bao giờ từ trên những mái nhà, sao cho mọi người nam nữ có thể nghe về tình yêu là tâm điểm của chính truyền thông Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, hôm qua, cũng như hôm nay và mãi mãi" 55
Vatican City, Tháng 2 Ngày 22, Năm 2002, Lễ kính Ngai Tòa Thánh Phêrô Tông Đồ.
+ John P. Foley
Chủ tịch
+ Pierfranco Pastore
Thư ký

 


(1) John Paul II, encyclical letter Laborem Exercens, n. 25; cf. Vatican Council II, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, n. 34.
(2) Vatican Council II, Decree on the Means of Social Communication Inter Mirifica, n. 1.
(3) For example, Inter Mirifica; the Messages of Pope Paul VI and Pope John Paul II on the occasion of the World Communication Days; Pontifical Council for Social Communications, Pastoral Instruction Communio et Progressio, Pornography and Violence in the Communications Media: A Pastoral Response, Pastoral Instruction Aetatis Novae, Ethics in Advertising, Ethics in Communications.
(4) Pornography and Violence in the Communications Media, n. 30.
(5) Communio et Progressio, n. 2.
(6) John Paul II, Message for the 34th World Communications Day, June 4, 2000.
(7) Communio et Progressio, n. 10.
(8) Vatican Council II, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 39.
(9) Inter Mirifica, 2.
(10) Pontifical Council for Social Communications, Ethics in Internet.
(11) Aetatis Novae, 8.
(12) Ibid.
(13) Ethics in Communications, n. 3.
(14) Cf. Vatican Council II, Dogmatic Constitution on Divine Revelation Dei Verbum, n. 10.
(15) Aetatis Novae, n. 10.
(16) Ethics in Communications, n. 26.
(17) Communio et Progressio, 128.
(18) Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, n. 45.
(19) Encyclical Redemptoris Missio, n. 37.
(20) Aetatis Novae, n. 2.
(21) John Paul II, Message for the 35th World Communications Day, n. 3, May 27, 2001.
(22) Aetatis Novae, n. 9.
(23) Ethics in Communications, n. 11.
(24) Cf. Communio et Progressio, n. 15.
(25) Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, n. 37.
(26) Communio et Progressio, n. 116.
(27) Ibid., n. 117.
(28) Cf. Canon 212.2, 212.3.
(29) Cf. Aetatis Novae, n. 10; Ethics in Communications, n. 26.
(30) Aetatis Novae, n. 10.
(31) Ethics in Communications, n. 26.
(32) Ethics in Communications, n. 25.
(33) Aetatis Novae, n. 28.
(34) Communio et Progressio, n. 107.
(35) John Paul II, Message for the 24th World Communications Day, 1990.
(36) Cf. Ethics in Internet.
(37) John Paul II, Message for the 35th World Communications Day, n. 3.
(38) Pornography and Violence in the Communications Media, n. 7.
(39) Aetatis Novae, 8.
(40) Cf. John Paul II, Apostolic Letter Novo Millennio Ineunte, n. 39.
(41) Cf. John Paul II, Address to the Bishops of the United States, n. 5, Los Angeles, September 16, 1987.
(42) John Paul II, Message for the 24th World Communications Day, 1990.
(43) Cf. Aetatis Novae, nn. 23-33.
(44) Ethics in Communications, n. 26.
(45) Message for the 24th World Communications Day.
(46) Message for the 34th World Communications Day, 2000.
(47) Communio et Progressio, n. 107.
(48) Aetatis Novae, n. 28.
(49) Ethics in Communications, n. 25.
(50) Cf. John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Familiaris Consortio, n. 76.
(51) Ethics in Communications, n. 25.
(52) Cf. Ethics in Internet, nn. 10, 17.
(53) John Paul II, Address to the UN Secretary General and to the Administrative Committee on Coordination of the United Nations, n. 2, April 7, 2000.
(54) Communio et Progressio, n. 11.
(55) Message for the 35th World Communications Day, n. 4.
Bản dịch Việt Ngữ của J.B Đặng Minh An
Văn kiện ĐẠO ĐỨC TRONG INTERNET
(04/03/2002). ĐẠO ĐỨC TRONG INTERNET
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
Nội Dung
I. Dẫn Nhập
II. Về Internet
III. Một số khía cạnh đáng quan tâm
IV. Đề nghị và kết luận
I. DẪN NHẬP
Cuộc cách mạng trong truyền thông xã hội ngày nay liên quan đến một sự tái định hình căn bản những yếu tố mà qua đó con người cảm nhận thế giới chung quanh họ, xác nhận và biểu tỏ ra điều mà họ cảm nhận. Tình trạng sẵn sàng thường xuyên của hình ảnh và ý tưởng cùng với sự truyền đạt nhanh chóng ngay cả từ lục địa này sang lục địa khác, có những hệ quả sâu sắc, cả tích cực lẫn tiêu cực, đối với sự phát triển về phương diện tâm lý, đạo đức, và xã hội của cá nhân, cấu trúc và hoạt động của xã hội, sự giao lưu giữa các nền văn hóa, sự cảm nhận và truyền đạt các giá trị, thế giới quan, ý thức hệ và niềm tin tôn giáo"1
Tính xác thực của những lời này càng trở nên rõ ràng hơn bao giờ trong thập niên vừa qua. Ngày nay không cần vận dụng trí tưởng tượng xa vời cũng có thể hình dung trái đất như một quả cầu nối kết, vo ve với những chuyển dịch điện tử - một hành tinh líu lo được bọc trong bề ngoài tĩnh lặng của không gian. Câu hỏi thuộc phạm vi đạo đức là liệu rằng điều này có đóng góp vào sự hình thành nhân bản thực sự và giúp cá nhân cũng như các dân tộc nên đúng như phẩm giá cao trọng của họ không.
Và, cố nhiên, trong nhiều khía cạnh, câu trả lời là có. Những phương tiện truyền thông mới là những khí cụ mạnh mẽ cho giáo dục và cho sự phong phú văn hóa, cho hoạt động thương mại và sự tham gia chính trị, cho đối thoại giữa các nền văn hóa và cho sự hiểu biết; và như chúng tôi nêu ra trong văn kiện đính kèm,2 chúng cũng phục vụ mục đích tôn giáo. Tuy nhiên, đồng tiền này còn một mặt nữa. Các phương tiện truyền thông có thể được dùng cho lợi ích của cá nhân và cộng đồng thì cũng có thể được dùng để khai thác, gây ảnh hưởng, thống trị và làm băng hoại.
2. Internet là phương tiện mới nhất và trong nhiều khía cạnh là mạnh mẽ nhất trong hàng ngũ các phương tiện truyền thông -điện tín, điện thoại, truyền thanh, truyền hình - mà đối với nhiều người đã giúp loại bỏ dần thời gian và không gian như những cản trở cho truyền thông trong suốt một thế kỷ rưỡi qua. Internet có những hệ quả to lớn cho cá nhân, quốc gia và thế giới.
Trong tài liệu này, chúng tôi muốn đưa ra một quan điểm Công Giáo về Internet, như là một khởi điểm cho sự tham gia của Giáo Hội trong cuộc đối thoại với những thành phần khác trong xã hội, đặc biệt với những nhóm tôn giáo khác, liên quan đến sự phát triển và sử dụng khí cụ kỹ thuật diệu kỳ này. Hiện nay, Internet đã được đưa vào sử dụng tốt đẹp trong nhiều lãnh vực, với lời hứa hẹn sẽ còn mang lại nhiều lợi ích hơn nữa, nhưng cũng có những tai hại gây ra do việc sử dụng không thích đáng. Internet sẽ là tốt hay xấu phần lớn là vấn đề lựa chọn - với những ai đang cân nhắc lựa chọn, Giáo Hội mang đến hai yếu tố quan trọng: cam kết của Giáo Hội đối với phẩm giá con người và truyền thống khôn ngoan về luân lý đã có từ lâu. 3
3. Cũng như đối với các phương tiện truyền thông khác, con người và cộng đồng nhân loại là trung tâm của đánh giá đạo đức về Internet. Khi đề cập đến thông điệp được truyền thông, tiến trình truyền thông, những vấn đề thuộc về cấu trúc và tổng thể trong truyền thông, "nguyên tắc đạo đức căn bản là điều này: Con người nhân bản và cộng đồng nhân bản là cùng đích và là sự đo lường việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội; truyền thông phải là từ con người đến con người cho sự phát triển tổng thể của con người".4
Tiện ích chung - "tổng hợp các điều kiện xã hội cho phép con người, các nhóm hay các cá nhân, đạt đến sự viên mãn hoàn toàn hơn và dễ dàng hơn"5 - là nguyên tắc căn bản thứ hai cho sự đánh giá truyền thông xã hội. Tiện ích chung cần phải được hiểu bao gồm như một tổng thể những mục tiêu có giá trị mà các thành viên trong một cộng đồng gắn bó với nhau và là điều làm cho cộng đồng tồn tại để hiện thực hóa và chống đỡ. Lợi ích của các cá nhân tùy thuộc vào lợi ích chung của các cộng đồng của họ.
Nhân đức dẫn con người đến chỗ bảo vệ và đề cao lợi ích chung là tình liên đới. Đó không phải là cảm giác về "một lòng trắc ẩn mơ hồ hay một nỗi buồn nông cạn" trước những hoạn nạn của người khác, nhưng là "một quyết tâm mạnh mẽ và bền bỉ cam kết chính mình cho lợi ích chung ; nghĩa là đứng về phía điều tốt cho mọi người và cho từng cá nhân, vì tất cả chúng ta thực sự có trách nhiệm với mọi người"6 Đặc biệt là ngày nay tình liên đới có một chiều kích quốc tế rõ ràng và mạnh mẽ; lợi ích chung chung toàn cầu là điều chính đáng phải đề cập đến và là điều bắt buộc ta phải hành động.
4. Lợi ích chung chung toàn cầu, nhân đức liên đới, cuộc cách mạng trong các phương tiện truyền thông đại chúng và kỹ thuật thông tin, và Internet tất cả đều liên quan đến tiến trình toàn cầu hóa.
Ở mức vĩ mô, kỹ thuật mới lèo lái và hỗ trợ cho toàn cầu hóa, tạo ra một tình trạng trong đó "thương mãi và truyền thông không còn bị giới hạn bởi những đường biên giới nữa".7 Điều này có những hậu quả hết sức quan trọng. Toàn cầu hóa có thể làm tăng sự phú cường và đẩy mạnh sự phát triển; nó đem đến những thuận lợi như "năng suất và gia tăng sản lượng …sự đoàn kết mạnh hơn giữa các dân tộc …một sự phục vụ cho đại gia đình nhân loại tốt hơn"8 Nhưng những phúc lợi đến nay vẫn chưa được chia sẻ đồng đều. Nhiều cá nhân, công ty, và các quốc gia đã trở nên giàu sụ trong khi lại có những người khác bị tụt hậu đằng sau. Nhiều nước đã bị đào thải ra hoàn toàn khỏi tiến trình, bị từ chối một chỗ trong thế giới mới đang được hình thành. "Toàn cầu hóa, trong khi chuyển hóa sâu sắc những hệ thống kinh tế bằng cách tạo ra những khả năng tăng trưởng bất ngờ, cũng dẫn đến tình trạng nhiều người bị đẩy ra lề đường: thất nghiệp trong nhiều quốc gia phát triển cao và nạn nghèo đói tột cùng trong quá nhiều quốc gia Nam Bán Cầu tiếp tục gạt hàng triệu người nam nữ ra khỏi tiến bộ và thịnh vượng".9
Không có cách nào để biết rõ ràng liệu các xã hội đã bước vào tiến trình toàn cầu hóa đã lựa chọn điều này hoàn toàn tự do và được thông tin hay không. Thay vì vậy, "nhiều người, đặc biệt là những người bất lợi, cảm nhận điều này như một thứ gì đó áp đặt lên họ hơn là một tiến trình trong đó họ có thể tham gia cách tích cực".10
Trong nhiều phần của thế giới, toàn cầu hóa đang được thúc đẩy nhanh chóng, cuốn theo thay đổi xã hội. Đây không phải chỉ là một tiến trình kinh tế nhưng là một tiến trình văn hóa, với những khía cạnh tích cực và tiêu cực. "Những ai có liên quan đến nó thường thấy toàn cầu hóa như là một trận lụt tàn hại đe dọa những chuẩn mực xã hội đã che chở cho họ và những điểm quy chiếu văn hóa đã dẫn đường cho họ trong cuộc sống…Những thay đổi trong kỹ thuật và trong những quan hệ công việc đã tiến quá mau không đợi cho các nền văn hóa kịp đáp trả".11
5. Một hệ quả chính của sự buông lỏng kỷ cương trong những năm gần đây là sự chuyển quyền từ các quốc gia sang những công ty đa quốc. Điều quan trọng là những công ty này phải được khuyến khích và giúp đỡ để dùng quyền của mình cho điều thiện của nhân loại; và điều này dẫn đến nhu cầu truyền thông và đối thoại giữa họ với các thực thể liên quan như Giáo Hội.
Việc sử dụng kỹ thuật thông tin mới và Internet cần phải được thông tin và hướng dẫn bởi một cam kết mạnh mẽ thực hành tình liên đới để phục vụ lợi ích chung , trong và giữa các quốc gia. Kỹ thuật này có thể là một phương tiện để giải quyết những vấn đề của nhân loại, đề cao sự phát triển tổng thể của cá nhân, tạo ra một thế giới được cai trị bởi công chính, hòa bình và yêu thương. Ngày nay, hơn cả lúc Chỉ Thị Mục Vụ Về Các Phương Tiện Truyền Thông đưa ra điểm này cách đây hơn 30 năm, các phương tiện truyền thông có khả năng biến mọi người ở mọi nơi trên thế giới trở nên "một bạn hàng của nhân loại".12
Đây là một viễn kiến đáng kinh ngạc. Internet có thể giúp hiện thực hóa viễn kiến này - cho những cá nhân, các nhóm, các nước, và nhân loại - chỉ khi nó được dùng trong ánh sáng của những nguyên tắc rõ ràng và lành mạnh, đặc biệt là tình liên đới. Việc dùng như thế là vì lợi ích của tất cả mọi người, vì "ngày nay chúng ta biết rõ một điều hơn trong quá khứ: chúng ta sẽ không bao giờ có hạnh phúc và bình an một mình, còn tệ hơn nhiều nữa nếu chống lại lẫn nhau".13 Điều này sẽ là một diễn đạt của linh đạo truyền thông bao hàm "khả năng nhìn thấy điều gì là tích cực trong người khác, để chào đón nó và ca ngợi nó như một món quà từ Thiên Chúa" , cùng với khả năng "'chừa chỗ' cho anh chị em, 'mang gánh nặng cho nhau (Gal. 6, 2) và chống lại những cám dỗ sống ích kỷ thường xuyên đè nặng chúng ta".14
6. Sự phổ cập của Internet cũng đưa đến một số vấn nạn đạo đức như sự riêng tư, sự an toàn và bảo mật dữ liệu, tác quyền và luật về tài sản trí tuệ, tài liệu khiêu dâm, các trạm thông tin thù hận, tán phát tin đồn và thủ tiêu nhân cách dưới lớp ngụy trang là tin tức, và còn nhiều nữa. Chúng tôi sẽ nói vắn tắt về những vấn đề này bên dưới, trong khi nhìn nhận rằng chúng đòi những phân tích và thảo luận tiếp theo bởi những bên có liên quan. Tuy vậy, về cơ bản, chúng tôi không nhìn Internet như là một nguồn gây ra các vấn nạn; chúng tôi xem nó như là một nguồn đem lại những lợi ích cho nhân loại. Nhưng những lợi ích này chỉ có thể hoàn toàn hiện thực khi các vấn nạn được giải quyết.
II. VỀ INTERNET
7. Internet có một số tính năng gây ấn tượng sâu sắc. Nó tức thời, trực tiếp, toàn cầu, phân quyền (decentralized), giao tiếp (interactive), có thể mở rộng vô hạn về nội dung và phạm vi, linh hoạt và có thể điều chỉnh ở một mức độ đáng kể. Internet là bình quyền (egalitarian), theo nghĩa là bất cứ ai với thiết bị cần thiết và một năng khiếu kỹ thuật khiêm nhường cũng có thể hiện diện cách tích cực trong không gian điện toán, công bố thông điệp của mình cho thế giới, và đòi hỏi được lắng nghe. Nó cho phép các cá nhân tham dự một cách ẩn danh, được chọn lựa vai trò, và hành động theo trí tưởng tượng; và cũng cho phép việc gia nhập vào cộng đồng với những người khác và dự phần vào việc chia sẻ. Theo sở thích của người dùng, họ có thể tích cực tham gia hoặc để bị thu hút cách thụ động vào trong "một thế giới quá chú ý đến mình, tự quy chiếu về mình, của những kích thích với những hiệu ứng gần như mơ màng"15 Internet có thể được dùng để phá tan đi sự cô lập của các cá nhân và các tập thể hay còn khoét sâu thêm sự cô lập này.
8. Cấu hình kỹ thuật nền tảng của Internet có một ảnh hưởng đáng kể đến những khía cạnh đạo đức của nó: Người ta có khuynh hướng dùng nó theo cách thế nó đã được thiết kế, và thiết kế nó cho phù hợp với cách dùng như vậy. Hệ thống mới này thật ra đã có từ thời chiến tranh lạnh ở thập niên 1960, khi nó được thiết kế để chặn đứng cuộc tấn công nguyên tử bằng cách tạo ra những mạng lưới phân tán những máy điện toán chứa đựng những dữ liệu quan yếu. Phân quyền là chìa khóa của hệ thống, vì theo cách này, như đã được lý giải, việc thiệt hại của một hay ngay cả nhiều máy điện toán cũng không đến nỗi mất hết dữ liệu.
Một viễn kiến lý tưởng của việc trao đổi tự do những thông tin và ý tưởng đã đóng một vai trò đáng khen trong việc phát triển Internet. Tuy nhiên cấu hình phân quyền cũng như thiết kế phân quyền của Mạng Nhện Toàn Cầu (World Wide Web) vào cuối thập niên 1980 đã chứng tỏ sự đồng tình với ý tưởng chống lại bất cứ áp đặt luật lệ về trách nhiệm công cộng. Một chủ nghĩa cá nhân được phóng đại liên quan đến Internet vì thế ló dạng. Internet được đề cập đến như một lãnh địa mới, một vùng đất diệu kỳ của không gian điện toán, nơi mọi thứ phát biểu đều được cho phép và luật lệ duy nhất là sự tự do cá nhân hoàn toàn để làm theo ý thích. Dĩ nhiên, điều này nghĩa là chỉ cộng đồng mà quyền lợi và quan tâm của họ được nhìn nhận thực sự trong không gian điện toán mới là cộng đồng của những người tự do cấp tiến. Lối suy nghĩ này tiếp tục ảnh hưởng trong một số giới, đã được ủng hộ bởi những lý lẽ tự do rất quen thuộc đã được dùng để biện hộ cho tài liệu khiêu dâm và bạo lực trong các phương tiện truyền thông nói chung.16
Mặc dù những người theo chủ nghĩa cá nhân cấp tiến và những người kinh doanh hiển nhiên là hai nhóm rất khác nhau; có một sự hội tụ quyền lợi giữa những người muốn Internet là nơi mà gần như mọi thứ phát biểu, bất kể xấu xa và phá hoại cỡ nào, và những ai muốn Internet là phương tiện cho hoạt động thương mại không bị làm khó dễ trên một mô hình tân tự do mà "xem lợi nhuận và quy luật thị trường như những tham số duy nhất, bất kể sự thương tổn về phẩm giá và sự tôn trọng phải có đối với cá nhân và các dân tộc"17
9. Sự bùng nổ của kỹ thuật thông tin đã gia tăng khả năng truyền thông của một số cá nhân và tập thể có thuận lợi lên gấp nhiều lần. Internet có thể phục vụ con người khi tự do và dân chủ được dùng có trách nhiệm, mở rộng những chọn lựa có thể trong cuộc sống muôn mầu, mở ra những chân trời giáo dục và văn hóa, phá tan chia rẽ, đề cao sự phát triển con người trong nhiều cách thế khác nhau. "Sự di chuyển tự do của hình ảnh và văn bản trên phạm vi toàn cầu đang chuyển hóa không chỉ những quan hệ chính trị và kinh tế giữa các dân tộc, nhưng ngay cả nhận thức của chúng ta về thế giới. Nó mở ra một loạt những khả năng cho đến nay vẫn chưa thể nghĩ ra".18 Khi được đặt trên những giá trị cùng chia sẻ bắt nguồn từ bản tính của con người, cuộc đối thoại giữa các nền văn hóa thực hiện bởi Internet và các phương tiện truyền thông xã hội khác có thể là "một phương tiện thuận lợi cho việc xây dựng nền văn minh tình thương".19
Nhưng đó không phải là toàn bộ câu chuyện. "Thật là nghịch lý khi chính những lực có thể dẫn đến sự truyền thông tốt hơn lại cũng có thể dẫn đến sự gia tăng khuynh hướng thu hẹp vào chính mình và trở nên xa lạ với người khác".20 Internet có thể hiệp nhất con người, nhưng cũng có thể chia rẽ họ thành những cá nhân hay như những nhóm nghi kỵ lẫn nhau, tách biệt bởi ý thức hệ, chính trị, của cải, chủng tộc, khác biệt thế hệ, và ngay cả tôn giáo. Internet đã được dùng trong những cách thế ngạo mạn, gần như một thứ vũ khí chiến tranh, và người ta nói về nguy hiểm của "khủng bố điện toán". Thật là một bi kịch nếu khí cụ truyền thông này với vô số tiềm năng mang con người lại với nhau bị lật lại nguồn gốc ban đầu của nó trong thời chiến tranh lạnh và trở nên một đấu trường xung đột quốc tế.
III. NHỮNG KHÍA CẠNH ĐÁNG QUAN TÂM
10. Một số những ưu tư về Internet vẫn chưa tường minh trong những điều đã đề cập cho đến nay.
Một trong những điều quan trọng nhất liên quan đến điều mà ngày nay người ta gọi là sự "chia cách điện số" (digital divide) - một dạng thức phân biệt giữa người giàu và người nghèo, trong nội bộ các nước cũng như giữa các nước với nhau, trên cơ sở tiếp cận hay thiếu sự tiếp cận với kỹ thuật thông tin mới. Trong nghĩa này, nó là một phiên bản cập nhật hóa của một chia cách cũ giữa "người giàu thông tin" và "người nghèo thông tin"
Thuật ngữ "chia cách điện số" nhấn mạnh sự kiện là các cá nhân, tập thể, và các quốc gia cần có sự tiếp cận với kỹ thuật mới để chia sẻ các lợi ích đã hứa hẹn của toàn cầu hóa và sự phát triển, và không để bị tụt hậu hơn nữa. Khách quan mà nói "cách biệt giữa những người hưởng lợi từ những phương tiện mới của thông tin và diễn đạt và những người không được tiếp cận với chúng …không trở nên một nguồn khó khắc phục khác của sự bất bình đẳng và phân biệt"21 Cần tìm ra những cách thức để làm cho Internet có thể được tiếp cận bởi những nhóm kém thuận lợi hơn, hoặc là trực tiếp hoặc là tối thiểu qua việc liên kết với các phương tiện truyền thông truyền thống rẻ tiền hơn. Không gian điện toán cần phải trở thành một tài nguyên thông tin và dịch vụ hoàn chỉnh không mất tiền cho mọi người với nhiều ngôn ngữ khác nhau. Những cơ quan công cộng có một trách nhiệm đặc biệt để thiết lập và duy trì những trạm thông tin như vậy.
Trong lúc nền kinh tế toàn cầu mới đang hình thành, Giáo Hội lo lắng sao cho "người thắng cuộc trong tiến trình này là nhân loại như một tổng thể" chứ không chỉ "một thế lực giàu có kiểm soát khoa học, kỹ thuật, và các nguồn tài nguyên của hành tinh này"; nghĩa là Giáo Hội ước ao "một tiến trình toàn cầu hóa phục vụ toàn bộ con người và mọi người".22
Trong mối liên hệ này, cần nhớ rằng các nguyên nhân và hậu quả của sự chia cách không phải chỉ là kinh tế nhưng còn là kỹ thuật, xã hội và văn hóa. Do đó, chẳng hạn nếu sự chia cách của Internet gây bất lợi cho nữ giới, sự chia cách này phải được san bằng.
11. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến những chiều kích văn hóa của những gì đang diễn ra. Cụ thể, như những khí cụ mạnh mẽ của tiến trình toàn cầu hóa, kỹ thuật thông tin mới và Internet đang truyền đi và giúp làm cho thấm sâu một nhóm những giá trị văn hóa - những lối nghĩ về những quan hệ xã hội, gia đình, tôn giáo, tình trạng nhân loại - mà sự mới mẻ và ồn ào của chúng có thể thách thức và đè bẹp những nền văn hóa truyền thống.
Đối thoại và làm giàu các nền văn hóa lẽ đương nhiên là được mong muốn nhiều hơn. Thật vậy, "ngày nay, đối thoại giữa các nền văn hóa là đặc biệt cần thiết vì hệ quả của kỹ thuật truyền thông mới trên đời sống cá nhân và các dân tộc".23 Nhưng đó phải là một con đường hai chiều. Các nền văn hóa có rất nhiều điều để học lẫn nhau, và đơn giản áp đặt thế giới quan, giá trị và ngay cả ngôn ngữ của một nền văn hóa lên một nền văn hóa khác không phải là đối thoại nhưng là chủ nghĩa đế quốc về văn hóa".
Sự thống trị về văn hóa là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng khi nền văn hóa thống trị mang những giá trị sai lạc đối kháng với bản thiện của cá nhân và tập thể. Nổi bật trong các vấn nạn là việc Internet, cùng với những phương tiện truyền thông xã hội khác, đang truyền đi thông điệp mang nặng tính chất của nền văn hóa thế tục Tây phương đến con người và các xã hội mà trong nhiều trường hợp chưa chuẩn bị để đánh giá và đối phó với nó. Nhiều vấn nạn nghiêm trọng xảy ra - chẳng hạn những vấn nạn liên quan đến đời sống hôn nhân và gia đình, trong khi gia đình và hôn nhân đang trải qua "một cuộc khủng hoảng tận gốc và lan rộng"24 trong nhiều phần của thế giới.
Nhạy cảm văn hóa và sự tôn trọng đối với các giá trị và niềm tin của các dân tộc khác là bắt buộc trong những trường hợp này. Đối thoại giữa các nền văn hóa theo hướng "giữ gìn sự khác biệt của các nền văn hóa như những diễn đạt lịch sử và sáng tạo của sự hiệp nhất sâu xa trong gia đình nhân loại, và … nuôi dưỡng sự hiểu biết và giao tiếp giữa chúng"25 là cần thiết để xây dựng và bảo tồn ý thức về tình liên đới quốc tế.
12. Vấn đề tự do phát biểu trên Internet cũng phức tạp tương tự và gây ra một nhóm những quan ngại khác.
Chúng tôi mạnh mẽ ủng hộ tự do phát biểu và tự do trao đổi ý kiến. Tự do tìm kiếm và hiểu biết sự thật là một nhân quyền căn bản,26 và tự do phát biểu là một đá tảng của nề dân chủ. "Con người có quyền tìm kiếm sự thật, bày tỏ và công bố ý kiến, miễn là anh ta tôn trọng trật tự luân lý và ích lợi chung…anh ta phải được cung cấp thông tin trung thực về những vấn đề liên quan đến lợi ích chung".27 Và ý kiến công chúng, "một diễn đạt cần thiết của bản tính con người được tổ chức thành xã hội" tuyệt đối đòi hỏi "tự do phát biểu ý tưởng và thái độ".28
Trong ánh sáng của những yêu cầu thuộc về lợi ích chung này, chúng tôi lên án những cố gắng của các nhà chức trách muốn ngăn cản sự tiếp cận với thông tin - trên Internet hay trong các phương tiện truyền thông xã hội khác - bởi vì họ thấy nó đe dọa hay gây khó chịu cho họ, và họ muốn khống chế công chúng bằng tuyên truyền và thông tin sai lạc, hay muốn ngăn cản quyền tự do phát biểu và có ý kiến hợp pháp. Trong vấn đề này, những chế độ độc tài cho đến nay là những kẻ vi phạm tệ hại nhất; nhưng vấn đề cũng xảy ra tại các xứ sở dân chủ tự do, nơi việc truy cập vào các phương tiện truyền thông để phát biểu chính trị thường tùy thuộc vào sự giàu có, và các chính trị gia cũng như các cố vấn của họ vi phạm tính trung thực và công bằng bằng cách xuyên tạc đối phương và làm giảm nhẹ các vấn nạn đến mức lừa bịp khôn khéo.
13. Trong môi trường mới này, nghề làm báo cũng đang trải qua những thay đổi sâu sắc. Sự phối hợp giữa những kỹ thuật mới và toàn cầu hóa đã "gia tăng những quyền lực của giới truyền thông, nhưng cũng làm cho họ lệ thuộc nhiều hơn vào các áp lực ý thức hệ và thương mãi",29 và điều này cũng đúng với nghề làm báo.
Internet là một khí cụ có hiệu quả cao trong việc đem tin tức và thông tin nhanh chóng đến với con người. Nhưng sự cạnh tranh kinh tế và bản chất mọi múi giờ (round-the-clock) của báo chí Internet cũng đóng góp vào xu hướng giật gân và tung tin đồn; vào sự pha trộn giữa tin tức, quảng cáo, và giải trí; cũng như vào một sự xuống dốc hiển nhiên trong các bản báo cáo và những bài bình luận đứng đắn. Báo chí trung thực là cần thiết cho lợi ích chung trong các nước và trong cộng đồng quốc tế. Những vấn đề hiển nhiên hiện nay trong việc thực hành nghề báo trên Internet đòi hỏi sự sửa sai nhanh chóng bởi chính các ký giả.
Lượng thông tin choáng ngợp trên Internet, nhiều thứ chưa được đánh giá về phương diện chính xác và tầm quan trọng, là một vấn đề cho nhiều người. Nhưng chúng tôi cũng quan tâm đến trường hợp người ta có thể dùng khả năng kỹ thuật của phương tiện truyền thông này cho việc cắt xén thông tin đơn giản là để thiết lập những rào cản điện tử chống lại những ý tưởng không quen thuộc. Đó sẽ là một sự phát triển không lành mạnh trong một thế giới đa nguyên nơi con người cần phải vươn lên trong việc hiểu biết lẫn nhau. Trong khi những người dùng Internet có bổn phận phải chọn lọc và thực hiện kỷ luật tự giác, điều đó không thể dẫn đến mức cực đoan là đặt bức tường ngăn cách giữa họ và những người khác. Những hệ quả của Internet cho sự phát triển tâm lý và sức khoẻ cũng cần phải được tiếp tục nghiên cứu, bao gồm cả khả năng rằng việc chìm đắm quá lâu trong thế giới ảo của không gian điện toán có thể gây hại cho một số người. Dù có rất nhiều thuận lợi trong khả năng, kỹ thuật đem đến cho con người "những gói thông tin và những dịch vụ được thiết kế riêng biệt cho họ", điều này cũng "đưa đến một câu hỏi không thể trốn tránh được: Liệu khán giả của tương lai có trở nên một số đông khán giả của chỉ một người? … Tình liên đới sẽ đi về đâu? … Tình yêu sẽ đi về đâu? … trong một thế giới như thế?"30
14. Dọc theo những vấn đề chúng ta phải đương đầu với tự do phát biểu, sự toàn vẹn và chính xác của tin tức, và sự chia sẻ những ý tưởng và thông tin là một nhóm quan ngại khác gây nên bởi chủ nghĩa tự do. Ý thức hệ của chủ nghĩa tự do cấp tiến vừa sai lại vừa rất tai hại - đặc biệt, cho việc hợp pháp hóa tự do phát biểu để phục vụ cho sự thật. Sai lầm nằm ở chỗ đề cao tự do "đến một mức nó trở thành tuyệt đối, để rồi thành nguồn gốc của những giá trị … Trong cách thế này, những yêu sách không thể tránh khỏi về sự thật biến mất, nhường chỗ của chúng cho các tiêu chuẩn thành thật, xác thực và 'an bình với chính mình'".31 Không có chỗ cho cộng đồng chân thật, lợi ích chung , và tình liên đới trong cách nghĩ này.
IV NHỮNG ĐỀ NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
15. Như chúng ta đã thấy, nhân đức liên đới là thước đo sự phục vụ của Internet cho lợi ích chung . Thật là phải lẽ khi thêm vào trong bối cảnh này một câu hỏi đạo đức: "Các phương tiện truyền thông đang được dùng cho điều thiện hay điều ác?"32
Nhiều cá nhân và tập thể chia sẻ trách nhiệm trong vấn đề này - chẳng hạn, các công ty đa quốc đã nói ở trên. Tất cả những người dùng Internet buộc phải dùng nó trong một cách thế hiểu biết và kỷ luật, vì những mục đích luân lý tốt; các cha mẹ phải hướng dẫn và giám sát việc sử dụng của con cái.33 Trường học và các cơ sở giáo dục khác và những chương trình dành cho trẻ em và người lớn cần cung cấp việc đào tạo việc dùng Internet cách nhạy bén như một phần của một chương trình giáo dục truyền thông hoàn chỉnh bao gồm không chỉ việc huấn luyện những năng khiếu kỹ thuật - 'điện toán vỡ lòng' và những khóa tương tự - nhưng còn là một khả năng hiểu biết và đánh giá sắc bén nội dung. Những ai mà quyết định và hành động của họ đóng góp vào việc định dạng cấu trúc và nội dung của Internet có một bổn phận đặc biệt nghiêm trọng phải thực thi tình liên đới trong việc phục vụ lợi ích chung .
16. Việc kiểm duyệt trước của chính quyền phải được bác bỏ; "kiểm duyệt … chỉ nên được dùng trong trường hợp tối cần thiết".34 Nhưng Internet không thể là một ngoại lệ so với các phương tiện truyền thông khác trong việc áp dụng các luật lệ hợp lý nhằm chống lại việc kêu gọi thù hận, nhục mạ, gian lận, tài liệu khiêu dâm trẻ em và tài liệu khiêu dâm nói chung, và các vi phạm khác. Hành vi kể là tội phạm trong những bối cảnh khác cũng kể là tội phạm trong bối cảnh của không gian điện toán, và các nhà chức trách dân sự có bổn phận và quyền để áp đặt những luật lệ ấy. Những quy định mới cũng có thể là cần thiết để đối phó với những tội ác đặc biệt trên Internet như việc reo rắc virus điện toán, ăn cắp tài liệu chứa đựng trên các đĩa cứng, và những việc tương tự.
Luật lệ trên Internet đáng ao ước, và về nguyên tắc việc tự tuân theo kỷ luật kỹ nghệ là tốt nhất. "Giải pháp cho nhiều vấn đề nảy sinh từ thương mại hóa và tư nhân hóa vô luật lệ không nằm trong tình trạng kiểm soát truyền thông nhưng trong việc kỷ luật hơn theo các tiêu chuẩn phục vụ công chúng và trong trách nhiệm lớn hơn với công chúng".35 Các quy tắc về đạo đức kỹ nghệ có thể đóng một vai trò hữu ích, miễn là chúng có ý định đứng đắn, và phải bao gồm các đại diện của công chúng trong việc hình thành và thực thi; đồng thời song song với việc khích lệ những người làm truyền thông có trách nhiệm, cần thi hành những kỷ luật thích hợp cho những sự vi phạm, bao gồm cả việc phê bình công khai.36 Nhiều trường hợp đôi khi có thể phải cần đến sự can thiệp của nhà nước: chẳng hạn, bằng cách thiết lập những ban cố vấn tiêu biểu cho những ý kiến khác nhau trong cộng đồng.37
17. Tinh chất đa quốc và cầu nối biên giới của Internet, và vai trò của nó trong tiến trình toàn cầu hóa đòi hỏi sự hợp tác quốc tế trong việc định ra các tiêu chuẩn và thiết lập những cơ chế để đề cao và bảo vệ lợi ích chung trên toàn cầu.38 Liên quan đến kỹ thuật truyền thông, cũng như nhiều thứ khác, "có một nhu cầu cấp bách cho sự bình đẳng ở cấp quốc tế".39 Hành động quả quyết trong lãnh vực tư cũng như công là cần thiết để san bằng và cuối cùng loại trừ sự chia cách điện số.
Nhiều vấn đề khó khăn liên quan đến Internet đòi hỏi một sự nhất trí quốc tế: chẳng hạn, làm sao bảo vệ sự riêng tư của các cá nhân và các tập thể lương thiện mà không ngăn cản các cơ quan thi hành pháp luật và lực lượng an ninh theo dõi các tội phạm và bọn khủng bố; làm sao bảo vệ tác quyền và quyền sở hữu tài sản trí tuệ mà không hạn chế ciệc truy nhập tới tài liệu trong lãnh vực công cộng (public domain) - và làm sao để định nghĩa chính cụm từ "lãnh vực công cộng"; làm sao thiết kế và duy trì những kho chứa thông tin bề thế miễn phí cho mọi người với nhiều ngôn ngữ khác nhau; làm sao bảo vệ quyền của nữ giới liên quan đến việc truy nhập vào Internet và những khía cạnh khác của kỹ thuật thông tin mới. Cách riêng, vấn đề làm sao san bằng chia cách điện số giữa kẻ giàu thông tin và kẻ nghèo thông tin rất cần một chú ý khẩn cấp trong các khía cạnh kỹ thuật, giáo dục và văn hóa.
Ngày nay, có một "ý thức lớn dần về tình liên đới quốc tế" đem lại cách riêng cho hệ thống Liên Hiệp Quốc "một cơ hội duy nhất để đóng góp vào sự hoàn cầu hóa tình liên đới bằng cách phục vụ như một nơi hội họp cho các quốc gia và xã hội dân sự và như một nơi hội tụ các quan tâm và nhu cầu khác nhau ... Sự hợp tác giữa các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ sẽ giúp bảo đảm rằng lợi ích của các nước - dù là hợp pháp - và của các nhóm khác trong các nước đó, sẽ không được nêu ra hay bảo vệ với cái giá là sự chà đạp lợi ích hay quyền lợi của các dân tộc khác, đặc biệt những dân tộc kém may mắn".40 Trong chiều hướng này, chúng tôi hy vọng rằng Hội Nghị Thượng Đỉnh về Xã Hội Thông Tin được dự trù diễn ra vào năm 2003 sẽ tạo ra một đóng góp tích cực cho sự bàn thảo về những vấn đề này.
18. Như chúng tôi đã nêu lên ở trên, một văn kiện đính kèm với văn kiện này gọi là "Giáo Hội Và Internet" đề cập đặc biệt đến việc sử dụng Internet của Giáo Hội và vai trò của Internet trong đời sống Giáo Hội. Ở đây chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng Giáo Hội Công Giáo, cùng với các thực thể tôn giáo khác, cần có một một sự hiện diện hữu hình và tích cực trên Internet và trở nên một bên trong cuộc đối thoại công khai về sự phát triển của nó. "Giáo Hội không giả định vai trò thống soái trong những quyết định và lựa chọn này, nhưng Giáo Hội mong giúp được bằng cách chỉ ra những tiêu chuẩn đạo đức và luân lý liên hệ đến tiến trình này - những tiêu chuẩn có thể tìm thấy trong những giá trị nhân bản và Kitô Giáo".41
Internet có thể tạo ra những đóng góp có giá trị rất lớn lao cho cuộc sống con người. Nó có thể đẩy mạnh thịnh vượng và hòa bình, sự tăng trưởng tri thức và sáng tạo, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc và các quốc gia trên một quy mô toàn cầu.
Nó cũng có thể giúp những người nam người nữ trong sự tìm kiếm lâu dài của họ để hiểu biết chính mình. Trong mọi thời đại, kể cả thời đại của chúng ta, người ta thường hỏi cùng những câu hỏi căn bản: "Tôi là ai? Tôi từ đâu đến và tôi sẽ đi về đâu? Tại sao có sự dữ? Cái gì diễn ra sau cuộc sống này?"42. Giáo Hội không thể áp đặt những câu trả lời, nhưng Giáo Hội có thể - và phải - công bố với thế giới những câu trả lời mà Giáo Hội đã nhận được; và hôm nay, như luôn mãi, Giáo Hội mang đến một đấng tối hậu trả lời thỏa mãn những câu hỏi sâu xa nhất về cuộc đời - Đức Giêsu Kitô, đấng "mạc khải hoàn toàn cho con người về chính Ngài và đưa ra ánh sáng ơn gọi cao trọng nhất của Ngài"43 Như chính thế giới hôm nay, thế giới truyền thông, bao gồm cả Internet, đã được mang bởi Đức Kitô, dù còn lộn xộn nhưng thực sự, vào bên trong biên giới của Nước Chúa và đặt để cho việc phục vụ lời cứu độ. Tuy nhiên, "thay vì giảm bớt những lo toan phát triển trái đất này, niềm trông mong một thế giới mới cần thúc giục chúng ta, vì chính nơi đây thân thể của một nhân loại mới lớn dần, tiên báo cách này cách khác thời đại đang tiến đến gần".44
Thành Vatican, Tháng 2 Ngày 22, Năm 2002, Lễ Kính Ngai Tòa Thánh Phêrô Tông Đồ.
+ John P. Foley
Chủ Tịch
+ Pierfranco Pastore
Thư Ký

 

(1) Pontifical Council for Social Communications, Pastoral Instruction Aetatis Novae on Social Communications on the twentieth anniversary of Communio et progressio, n. 4.
(2) Pontifical Council for Social Communications, The Church and Internet.
(3) Cf. Pontifical Council for Social Communications, Ethics in Communications, n. 5.
(4) Ibid., n. 21.
(5) Vatican Council II, Gaudium et spes, n. 26; cf. Catechism of the Catholic Church, n. 1906.
(6) John Paul II, Sollicitudo rei socialis, n. 38.
(7) John Paul II, Address to the Pontifical Academy of Social Sciences, n. 2, April 27, 2001.
(8) John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Ecclesia in America, n. 20.
(9) John Paul II, Address to the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See, n. 3, January 10, 2000.
(10) Address to the Pontifical Academy of Social Sciences, n. 2.
(11) Ibid., n. 3.
(12) Pontifical Commission for Social Communications, Pastoral Instruction on the Means of Social Communication, Communio et progressio, n. 19.
(13) Address to the Diplomatic Corps, n. 4.
(14) John Paul II, Apostolic Letter Novo millennio ineunte, n. 43.
(15) Ethics in Communications, n. 2.
(16) Pontifical Council for Social Communications, Pornography and Violence in the Communications Media: A Pastoral Response, n. 20.
(17) Ecclesia in America, n. 56.
(18) Message for the Celebration of the World Day of Peace 2001, n. 11.
(19) Ibid., n. 16.
(20) John Paul II, Message for the 33rd World Communications Day, n. 4, January 24, 1999.
(21) John Paul II, Message for the 31st World Day of Communications, 1997.
(22) Address to the Pontifical Academy of Social Sciences, n. 5.
(23) Ibid., n. 11.
(24) Novo millennio ineunte, n. 47.
(25) Message for the World Day of Peace 2001, n. 10.
(26) John Paul II, Centesimus annus, n. 47.
(27) Gaudium et spes, n. 59.
(28) Communio et progressio, nn. 25, 26.
(29) John Paul II, Address to the Jubilee of Journalists, n. 2, June 4, 2000.
(30) Ethics in Communications, n. 29.
(31) John Paul II, Veritatis splendor, n. 32.
(32) Ethics in Communications, n. 1.
(33) Cf. John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Familiaris consortio, n. 76.
(34) Communio et progressio, n. 86.
(35) Aetatis Novae, n. 5.
(36) Cf. Communio et progressio, n. 79.
(37) Ibid., n. 88.
(38) Cf. Address to the Pontifical Academy of Social Sciences, n. 2.
(39) Ethics in Communications, n. 22.
(40) John Paul II, Address to the UN Secretary General and to the Administrative Committee on Coordination of the United Nations, nn. 2, 3, April 7, 2000.
(41) Aetatis Novae, n. 12.
(42) John Paul II, Encyclical Letter Fides et ratio, n. 1.
(43) Gaudium et spes, n. 22.
(44) Ibid., n. 39.
Bản dịch Việt Ngữ của J.B Đặng Minh An

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nhận xét!