LƯU Ý

Đây là những văn bản Huấn quyền của Giáo Hội mà anthanhlinhgiang đã thu thập được trong nhiều năm và từ nhiều nguồn khác nhau - có thể từ internet hoặc có thể từ những người thiện chí gửi đến. Vì thế có những văn bản không rõ nguồn được lấy từ đâu hoặc có thể không có tính chính xác trong khi dịch thuật hoặc đã bị chỉnh sửa. Vì vậy trong quá trình sử dụng, bạn nào thấy có điều bất trắc, xin vui lòng báo lại để anthanhlinhgiang điều chỉnh hoặc gỡ bỏ.

Những văn bản có nguồn gốc thì anthanhlinhgiang sẽ ghi rõ ràng để các bạn yên tâm.

Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 20 tháng 4, 2011

ĐTC Gioan Phaolô II - Di Chúc


DI CHÚC CỦA ĐỨC THÁNH CHA GIOAN-PHAOLÔ II
(bài dịch nguyên bản)
Nguồn: Simonhoadalat.com

PHẦN I
Vaticanô, thứ Năm ngày 07 tháng 04 năm 2005 (Zenit.org) - Dưới đây là bài dịch nguyên bản từ tiếng Ý, của Tờ Di Chúc tinh thần của ĐGH Gioan-Phaolô II, ấn hành bởi Tòa Thánh Vaticanô ngày 07 tháng 04 năm 2005.
DI CHÚC
Di chúc ngày 06.03.1979 (và những lần thêm kế tiếp)
Con tùy thuộc tất cả về Mẹ. (Totus Tuus ego sum)
Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực Thánh. Amen.
« Hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào Chủ các con đến » (Coi Mt 24, 42) - Những lời này gợi trong tôi lời gọi cuối cùng sẽ đến vào lúc mà Chúa sẽ muốn. Tôi ao ước theo Ngài và tôi ao ước rằng tất cả những gì thuộc về đời sống trần gian của tôi chuẩn bị tôi cho lúc này. Tôi không biết khi nào Ngài đến, nhưng như với mọi sự, tôi cũng đặt cả giây phút này trong tay Người Mẹ của Chúa tôi : Tất cả dâng cho Mẹ (Totus Tuus). Trong những bàn tay mẫu tử này, tôi đặt hết mọi sự và tất cả Những Người mà đời sống cũng như ơn gọi của tôi đã được gây mối giây liên lạc. Trong những Bàn Tay này, tôi xin trao cách đặc biệt Giáo Hội cũng như Quê Hương tôi và tất cả nhân loại. Tôi cảm tạ tất cả. Tôi xin tất cả thứ lỗi cho tôi. Tôi cũng xin một lời nguyện để cho Lòng Nhân Từ của Chúa tỏa hiện lớn hơn là sự yếu đuối và sự bất xứng của tôi.
Trong những dịp Linh-Thao, tôi đã đọc lại lời di chúc của Đức Thánh Cha Phao-lô VI. Bài đọc này đã thúc đẩy tôi viết bản di chúc này.
Tôi không để lại sau tôi một của cải gì mà cần thiết phải giữ cả. Về những đồ vật mà tôi dùng thường ngày và hữu ích cho tôi, tôi xin sao chúng được phân phối tất cả một cách thuận tiện nhất. Những điều ghi chép bằng tay xin được đốt đi. Về điểm này, tôi yêu cầu Cha Stanislao lo liệu, người mà tôi cám ơn cho sự cộng tác và giúp đỡ trong suốt bao năm trường với đầy cảm thông. Tất cả những lời cảm tạ khác, ngược lại, tôi xin giữ trong tim tôi trước Chính Thiên Chúa, bởi vì rất khó để diễn tả những lời đó.
Về phần mai táng, tôi lập lại những điều khoản mà Đức Thánh Cha Phaolô VI đã đặt ra. (ở đây có một lời ghi chú bên lề : quan tài trong đất, chứ không trong hòm đá, 13.03.1992).
« Vì ở nơi Chúa là lòng nhân từ : và nơi Người là ơn cứu độ chan hòa » (trong kinh « Từ Vực Sâu » (De Profundis).
«Qui apud Dominum misericordia : et copiosa apud Eum redemptio »
Gioan-Phaolô II.
La Mã mùng 06.03.1979
Sau khi tôi chết, tôi xin những thánh lễ và lời cầu nguyện.
Ngày 05.03.1990
Giấy không đề ngày :
Tôi diễn tả với lòng trông cậy sâu xa nhất, mặc dù với tất cả sự yếu đuối của tôi, rằng Chúa sẽ cho tôi tất cả ân sũng cần thiết để đối chọi, theo thánh ý Ngài, bất cứ công việc, thử thách và khổ đau nào mà Ngài muốn cho đầy tớ của Ngài trong cuộc sống. Tôi cũng tin tưởng rằng, qua thái độ của tôi : những lời nói, những công việc và những sơ sót, Ngài sẽ không bao giờ để tôi có thể phản bội những bổn phận của tôi trên Ngai thánh giáo hoàng này.
24 tháng 02 – 01 tháng 03 năm 1980
Cũng trong dịp linh-thao này, tôi đã suy ngẫm về chân lý của Chức Vụ Linh Mục của Đức Kitô trong viễn tượng của chuyến hành trình, đối với mỗi người trong chúng ta, là chính lúc mình chết. Sự Phục Sinh của Đức Kitô, đối với chúng ta, là một dấu chỉ hùng hồn (được viết thêm phía trên : « quan trọng ») của lúc từ giã cõi đời này - để được sinh ra trong thế giới bên kia, thế giới tương lai.
Như thế tôi cũng đã đọc lại bản di chúc của tôi viết hồi năm ngoái, cũng vào dịp cấm phòng – tôi đã so sánh bản ấy với bản di chúc của vị đi trước tôi vĩ-đại và là Cha Phaolô VI, với chứng tá tuyệt vời về sự chết của một kitô hữu và một Giáo Hoàng – và tôi đã cải tân trong tôi ý thức về những câu hỏi mà bản di chúc ngày 06.03.1979 đề cập tới mà tôi đã chuẩn bị (một cách đúng hơn là tạm thời).
Ngày hôm nay, tôi chỉ mong thêm vào bản di chúc đó điều này : chớ gì mỗi người phải giữ trong tâm trí viễn tượng của sự chết và phải biết sẵn sàng trình diện trước Thiên Chúa và Đấng Thẩm Phán – và cùng là Đấng Cứu Độ và Người Cha. Tôi cũng thế, tôi ý thức sự nối tiếp này, giao phó giờ quan trọng này vào Mẹ của Đức Kitô và của Giáo Hội – vào Người Mẹ của niềm hy vọng của tôi.
Thời gian mà chúng ta đang sống, một cách rất khó diễn tả, thật là khó khăn và đáng lo ngại. Con đường của Giáo Hội cũng thật khó khăn và khô cằn, bằng chứng tiêu biểu của thời đại này, vừa đối với các tín hữu cũng như các vị chủ chăn. Trong một vài quốc gia (như chẳng hạn quốc gia mà tôi đã đọc một vài điều liên quan đến trong những dịp cấm phòng), Giáo Hội lâm vào một giai đoạn của bách hại đến độ cũng chẳng kém gì những thế kỷ đầu tiên, và còn hơn thế nữa, nó còn vượt quá bởi mức độ của sự khinh bỉ và oán ghét. « Máu các Thánh Tử Đạo, mầm giống của các Tín Hữu » (Sanguis martyrum – semen christianorum). Và thêm vào điều đó - biết bao nhiêu người vô tội mất tích, kể cả trong quốc gia này mà chúng ta đang sống …
Tôi ao ước một lần nữa trao phó trọn vẹn bản thân tôi vào ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ mình Ngài sẽ quyết định khi nào và như thế nào đời sống trần gian và chức phận mục vụ của tôi phải kết thúc. Trong cuộc sống và trong sự chết « Tất cả dâng cho Mẹ » (Totus Tuus) qua Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội. Bằng cách chấp nhận ngay từ bây giờ sự chết này, tôi hy vọng rằng Đức Kitô sẽ ban ơn cho tôi cho đoạn đường cuối cùng, nghĩa là sự Phục Sinh (của tôi). Tôi cũng hy vọng là Ngài sẽ biến sự chết này thành hữu ích cho cả mục tiêu này quan trọng hơn mà tôi hằng kiếm cách phục vụ : sự cứu rỗi con người, sự bảo trì gia đình nhân loại, và qua nhân loại tất cả các quốc gia và các dân tộc (trong các quốc gia này, tôi cũng xin một cách đặc biệt cho Quê Hương trần gian của tôi) ; hữu ích cho những người mà Ngài đã giao phó cho tôi một cách đặc biệt, cho vấn đề của Giáo Hội, cho sự vinh danh của chính Chúa nữa.
Tôi không muốn thêm gì nữa vào điều đã được viết cách đây một năm - chỉ nhắc lại sự bộc phát tự nhiên và cùng lúc sự tin tưởng mà tuần linh thao này đã lần nữa khơi dậy trong tôi.
Gioan-Phaolô II.
« Totus Tuus ego sum »
Ngày 05.03.1982
Qua dịp linh thao của năm nay, tôi đã đọc (nhiều lần) bản di chúc ngày 06.03.1979. Mặc dù tôi cho là bản đó còn là tạm thời (chưa nhất định), tôi để lại nó dưới hình thức như thế. Tôi không thay đổi gì cả (trong lúc này), và tôi cũng chẳng thêm thắt gì cả liên quan đến những dự định được viết trong bản di chúc.
Vụ ám sát tính mạng tôi vào ngày 13.05.1981, một hình thức nào đó, đã xác định sự chính xác của những lời đã được ghi chép trong dịp linh thao của năm 1980 (từ 24.02 đến 01.03).
Tôi cảm thấy lại càng sâu xa hơn khi tôi thấy mình hoàn toàn trong bàn tay của Thiên Chúa – và tôi luôn sẵn sàng theo ý Chúa Tôi, tự bỏ mình cho Ngài qua Mẹ Vô Nhiễm của Ngài (Totus Tuus).
Gioan-phaolô II.
05.03.1982
Liên quan đến câu cuối cùng của bản di chúc của tôi viết ngày 06.03.1979 (« về điều liên quan đến nơi chốn, nghĩa là nơi chôn cất, xin Hội Đồng các Hồng Y và các đồng bào của tôi quyết định »), - tôi muốn nói là : Đức Tổng Giám Mục thành Cracovie hay Hội Đồng Giám Mục nước Ba Lan – như thế tôi xin Hội Đồng các Hồng Y thỏa mãn, nếu có thể, những yêu cầu của những người đã được kể trên.
******
Ngày 01.03.1985 (trong dịp cấm phòng)
Lần nữa - về điều liên quan đến câu “Hồng Y Đoàn và các đồng hương” : “Hồng Y Đoàn” không có một sự bắt buộc nào phải kêu gọi các “người đồng hương” về điều liên quan đến vấn đề này ; tuy nhiên Hồng Y đoàn có thể làm điều đó, nếu vì một lý do nào đó Hồng Y đoàn cảm thấy điều đó phải làm.
Gioan-Phaolô II.
******
Dịp linh thao của năm Thánh 2000 (từ ngày 12 đến 18-03-2000)
(cho bản di chúc)
1. Khi, ngày 16 tháng 10 năm 1978, Hội Đồng mật các Hồng Y chọn Gioan-phaolô II, Vị Giáo Trưởng Giáo Hội Ba Lan, Đức Hồng Y Stefan Wyszynski nói với tôi : “bổn phận của Đức Tân Giáo Hoàng sẽ là phải đưa Giáo Hội vào đệ tam thiên niên kỷ”. Tôi không nhớ chính xác những lời nói của Ngài, nhưng đại để ý nghĩa của lời của Nhân Vật đã đi vào lịch sử như Vị Giáo Trưởng của thiên niên kỷ. Một vị Giáo Trưởng vĩ đại. Tôi đã là nhân chứng của sứ vụ Ngài, của sự phó thác hoàn toàn của Ngài, của những cuộc phấn đấu của Ngài, của sự chiến thắng của Ngài. “Sự chiến thắng, khi nó đến, sẽ là một sự chiến thắng qua Mẹ Maria”. Đức Hồng Y lập lại thường xuyên những lời này của vị đi trước Ngài, Đức Hồng Y August Hlond.
Tôi như thế đã được, một hình thức nào đó, chuẩn bị cho phận vụ mà ngày 16 tháng 10 năm 1978 đã được trao phó cho tôi. Vào lúc mà tôi viết những lời này, Năm Thánh 2000 đã là một thực thể tác động. Đêm 24 tháng 12 năm 1999 chúng tôi đã mở Cánh Cửa biểu tượng của Năm Thánh trong Vương Cung Thánh Đường thánh Phêrô, sau đó là cửa của nhà thờ Thánh Gioan đệ La Trăng (Saint Jean du Latran), rồi đến cửa của nhà thờ Đức Maria Trưởng (Sainte Marie Majeure) – vào Năm Mới, và ngày 19 tháng 01, cánh cửa của Thánh Đường Thánh Phaolô ngoại thành (Saint Paul-hors-les-murs). Biến cố cuối cùng này, vì tính cách hoàn vũ của nó, được ghi ấn trong ký ức một cách đặc biệt.
2. Lần lượt theo sự tiến triển của Năm Thánh 2000, thế kỷ thứ 20 tự đóng dần, ngày này tiếp ngày nọ, sau chúng ta và thế kỷ thứ 21 đang mở trước chúng ta. Theo những dự án của Đấng Quan Phòng, tôi đã được sống trong một thế kỷ khó khăn đang đi vào lịch sử, và bây giờ, năm mà tôi trở thành Bát Tuần (“octogesima adveniens” (lời chú giải : đây là Tông Thư của ĐGH Phaolô VI viết ngày 14.05.1971 về kỷ niệm 80 năm Thông Điệp Rerum Novum của ĐGH Lêô XIII), phải tự hỏi nếu không phải đã đến giờ phải lập lại với Siméon trong Kinh-Thánh “Bây giờ xin hãy cho tôi ra đi” (Nunc dimittis).
Ngày 13 tháng 05 năm 1981, ngày ám sát ĐGH trong buổi yết kiến chung tại công trường thánh Phêrô, Chúa Quan Phòng đã cứu tôi khỏi sự chết một cách nhiệm mầu. Đấng chính là Thiên Chúa duy nhất của sự sống và sự chết đã kéo dài đời sống tôi, một cách nào đó, Ngài đã cho lại tôi đời sống. Từ giây phút đó, đời sống tôi tùy thuộc vào Ngài nhiều hơn nữa. Tôi hy vọng Ngài sẽ giúp tôi nhìn nhận đến lúc nào tôi phải tiếp tục phận sự này mà Ngài đã gọi tôi ngày 16 tháng 10 năm 1978. Tôi xin Chúa vui lòng gọi tôi về với Ngài khi Ngài muốn (coi Rm 14, 8). Tôi cũng hy vọng rằng Lòng Nhân Từ của Chúa vui lòng cho tôi những sức mạnh cần thiết để làm phận vụ này chừng nào tôi còn phải chu toàn phận vụ Giáo Hoàng trong Giáo Hội.
3. Như mỗi năm vào dịp linh thao, tôi đã đọc bản di chúc của tôi viết ngày 06.03.1979. Tôi tiếp tục giữ những điều khoản được lưu tác trong đó. Điều mà, qua những lần cấm phòng kế tiếp, đã được thêm vào, phản ảnh tình thế chung khó khăn và căng thẳng đã in hằn những năm 80. Tình huống này đã thay đổi kể từ mùa thu năm 1989. Thập niên cuối cùng của thế kỷ đã qua, đã không có những căng thẳng của những thập niên trước ; điều này không có nghĩa là thập niên cuối đã không có những vấn đề mới, những khó khăn. Xin ca tụng lòng Chúa Quan Phòng một cách đặc biệt cho sự kiện là giai đoạn của “chiến tranh lạnh” đã được chấm dứt không có tranh chấp bạo lực hạt nhân mà sự đe dọa của nó lơ lửng trên thế giới trong suốt giai đoạn trước.
4. Đứng thẳng trước ngưỡng cửa của đệ tam thiên-niên-kỷ, “giữa lòng Giáo Hội”, tôi ước mong lần nữa diễn tả sự biết ơn của tôi với Chúa Thánh Linh đã ban đặc ân cho Công Đồng Vaticanô II; mà đối với Công Đồng, với toàn thể Giáo Hội – và nhất là với cộng đoàn giám mục hoàn cầu – tôi mang một món nợ. Tôi tự tin rằng những thế hệ tương lai còn có thể múc, trong thời gian lâu dài, những sự phong phú mà Công Đồng này của thế kỷ thứ XX đã ban cho chúng ta. Dưới cương vị của một giám mục đã tham dự vào biến cố công đồng này từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng, tôi ước mong trao phó di sản vĩ đại này lại cho tất cả những vị đang và trong tương lai sẽ được gọi để thực hiện những quyết định của Công Đồng. Về phần tôi, tôi cảm tạ Vị Chủ Chăn đời đời đã cho phép tôi phục vụ sự-nghiệp lớn lao này trong suốt những năm tháng của ngôi vị giáo hoàng của tôi.
“Giữa lòng Giáo Hội” (In medio Ecclesiae) ... kể từ ngay những năm đầu của sứ mệnh như Giám Mục – chính xác hơn là nhờ vào Công Đồng – tôi đã thu thập được kinh nghiệm của sự thông công huynh đệ của hàng Giám Mục. Như linh mục của tổng giáo phận Cracovie, tôi đã thực nghiệm sự thông hiệp huynh đệ trong linh-mục đoàn – Công Đồng đã đem lại một kích thước mới cho kinh nghiệm này.
5. Có biết bao nhiêu người mà tôi phải viết ra đây ! Có lẽ Chúa đã gọi về với Ngài một số lớn trong nhóm. Về phần những người còn tại thế, ước gì những lời của bản di chúc này nhắc nhớ đến họ, tất cả và mọi nơi, dù họ ở bất cứ nơi nào.
Từ lúc mà tôi chu toàn bổn phận giáo hoàng – nghĩa là hơn 20 năm – “Trong lòng Giáo Hội”, tôi đã thực nghiệm sự cộng tác khoan dung và cũng rất là phong phú của rất nhiều Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, rất nhiều linh mục, những tu sĩ – nam và nữ - cuối cùng là rất nhiều giáo dân, trong lòng Giáo Triều La Mã, tại giáo phận La Mã cũng như ngoài những nơi này.
Làm sao không thể ôm vào lòng với một sự biết ơn đáng nhớ tất cả các hàng giáo phẩm trên thế giới mà tôi đã gặp trong những lần thăm viếng “mộ các tông đồ” (Ad limina apostolorum). Cũng Làm sao mà không nhớ đến biết bao nhiêu anh em đông đúc kitô hữu – không công giáo ! Vị Giáo Trưởng Do-Thái-Giáo thành La Mã và rất nhiều những vị đại diện các tôn giáo ngoài kitô giáo ! Và biết bao nhiêu những vị đại diện thế giới của lãnh vực văn hoá, của khoa học, của chính trị và của những phương tiện truyền thông xã hội.
6. Dần dà mức giới hạn của đời sống trần gian của tôi tăng trưởng, bằng tư tưởng tôi trở về thuở ban đầu, về cha mẹ tôi, về anh và chị tôi (người mà tôi đã không được biết vì đã chết trước khi tôi sinh ra), về giáo xứ Wadowice, nơi mà tôi lãnh nhận bí tích rửa tội, đến « thành phố này mà tôi đã từng yêu mến biết bao » , đến các đồng hương của tôi, các bạn bè của tôi, bạn trai và gái, đến trường tiểu học, trường trung học, đại học, đến giai đoạn quê hương bị chiếm đóng, lúc tôi làm việc như một thợ thuyền, và sau đó đến giáo xứ Niegowic, đến giáo xứ S. Floriano ở Cracovie, đến mục vụ các đại học, trong nơi chốn ... trong tất cả mọi nơi ... ở Cracovie và tại La Mã ... đến những người đã được trao phó cho tôi một cách đặc biệt bởi Thiên Chúa.
Với tất cả, tôi muốn nói một điều duy nhất : “Chớ gì Thiên Chúa ban thưởng cho quý vị”
“Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin trao phó hồn con”
« In manus Tuas, Domine, commendo spiritum meum »
17.3.2000
Trần Văn-Toàn, chuyển dịch
PHẦN II
Di chúc của ĐGH Gioan-phaolô II : sự thực thi Công Đồng Vaticanô II.
Vaticanô, thứ năm mùng 07 tháng 04 năm 2005 (Zenit.org) – Di chúc của ĐGH Gioan-phaolô II là sự thực thi những quyết định của Công Đồng Vaticanô II, như lời Ngài yêu cầu trong bản di chúc thiêng liêng của Ngài.
« Con xin trao phó trọn vẹn cho Mẹ », chính như thế, bởi châm ngôn của Ngài, mà ĐGH bắt đầu bản di chúc của Ngài, ngày 06 tháng 03 năm 1979. Ngài thêm : « nhân danh Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Amen ».
Bản di chúc của ĐGH Gioan-phaolô II, gồm 15 trang viết tay, và 5 trang đánh máy, đã được đọc vào buổi họp thứ tư của Hồng Y Đoàn vào sáng thứ tư vừa qua, bằng tiếng Ý theo nguyên bản bằng tiếng Balan, và đã được ấn hành bằng tiếng Ý bởi văn phòng báo chí của Tòa Thánh ngày thứ năm hôm nay.
Không phải là « một » bản di chúc viết một lần, nhưng nhiều suy tưởng đã được thêm vào qua 6 dịp cấm phòng mùa chay tại Vaticanô. Lần đầu tiên, vào tháng 03 năm 1979, dịp cấm phòng đầu tiên của Karol Wojtla như Giáo Hoàng, và lần cuối cùng, phần dài nhất, vào năm 2000, giữa năm Thánh, năm mà ĐGH nói lời « Bây giờ xin hãy để con ra đi ».
Những lời di chúc của Ngài là những lời nào ?
Trong phần thứ tư của bản di chúc thiêng liêng này viết vào năm 2000, GIOAN-Phaolô II cảm tạ Chúa Thánh Linh cho món quà của Công Đồng Vaticanô II mà ĐGH đã theo dõi, như Ngài nhắc lại, từ đầu – nghĩa là dưới thời ĐGH Gioan XXIII - cuối cùng, dưới thời ĐGH Phaolô VI. Còn Ngài, Giáo Hội, hàng giáo phẩm mang đó một món nợ, theo lời giải thích của ĐGH Gioan-phaolô II. Với một tính cách long trọng, Ngài tuyên bố : « tôi tin tưởng rằng trong rất lâu nữa, các thế hệ tương lai còn có thể múc được nhiều phong phú của Công Đồng thế kỷ XX này đã ban cho chúng ta.
ĐGH tuyên bố : « Tôi ước muốn trao phó di sản vĩ đại này lại cho tất cả những vị đang và sẽ được gọi trong tương lai để thực thi những điều của Công Đồng ».
Điều mà Đức Karol Wojtyla nói đã thực nghiệm cách đặc biệt trong Công Đồng, chính là sự « hiệp thông huynh đệ của hàng giáo phẩm » của tất cả Giáo Hội, như, theo lời Ngài nói, Ngià đã thực nghiệm tại Cracovie, « sự hiệp thông huynh đệ của linh mục đoàn ».
Trong phần trước đoạn cuối của bản di chúc của năm Thánh, ĐGH còn mở rộng hơn nữa chân trời bằng cách nhắc đến sự cộng tác « tận tâm » và « phong phú » với các Hồng Y, các Tổng Giám Mục và các Giám Mục, các linh mục, các tu sĩ và giáo dân.
Ngài nhấn mạnh cách đặc biệt đến những lần gặp gỡ với các giám mục qua những lần thăm viếng « mộ các thánh tông đồ ». Rồi những lần gặp gỡ của Ngài với các « huynh đệ » của những tôn giáo kitô khác, với Đức Giáo Trưởng Do-Thái-Giáo tại La Mã, những vị đại diện của các tôn giáo ngoài kitô giáo, của những lãnh vực « của văn hóa, của khoa học, của chính trị, của những phương tiện truyền thông xã hội ».
Những trang đầu.
Nhưng chúng ta hãy trở lại những trang đầu của tờ di chúc của ĐGH Gioan-phaolô II. Ngày 06 tháng 03 năm 1979, Đức Gioan-phaolô II cho những chỉ thị thật cụ thể : Ngài vừa đọc lại tờ di chúc của ĐGH Phaolô VI và xin được chôn cất trong lòng đất như vị này, và những điều viết riêng của Ngài được đốt đi. Ngài trao phó công việc đó cho thư ký riêng của Ngài đã theo Ngài từ 40 năm nay, từ Cracovie, và Ngài đã làm lễ tấn phong Giám Mục, Đức Cha Stanislas Dziwisz.
ĐGH nghèo. Tất cả những đồ dùng cá nhân cần thiết mỗi ngày, người ta có thể tùy nghi phân phối tùy theo thuận tiện, nếu không như Ngài nói, Ngài không có của cải gì cả : ngay cả những tiền nhuận bút của những sách Ngài viết, ĐGH cho hết. Những quà tặng, Ngài muốn tặng tất cả cho Đức Cha Stanislas.
Những người khác được đề cập đến với lòng ngưỡng mộ : ĐGH Phaolô VI và Đức Hồng Y Wyszynski. Một người khác được đề cập đến với lòng biết ơn, năm 2000, Đức Giáo Trưởng Do-Thái-Giáo thành La Mã, và dưới danh nghĩa Đại-Giáo-Trưởng, chính vị này đã tiếp đón ĐGH vào năm 1986 trong Nhà Nguyện lớn của thành La Mã. Đó chính là Đức Đại Giáo Trưởng đáng kính, Elio Toaff.
Từ bản di chúc năm 1979, ĐGH cảm ơn mỗi người, và xin mọi người « thứ lỗi ». Bản văn đầu tiên này bắt đầu bằng lời trích của trang kinh thánh theo thánh Mát-thêu : « Hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào Chúa sẽ đến ».
Ngài thêm vào đoạn đầu tiên này, năm 1990, lời ghi chú này : « sau khi tôi chết, tôi xin các thánh lễ và các lời cầu nguyện ».
Trong một trang không đề ngày, Ngài diễn tả lòng trông cậy của Ngài, mặc dù « sự yếu đuối của Ngài », rằng Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài những ân sủng cần thiết để Ngài « đương chọi theo Thánh Ý Chúa tất cả những công vụ được trao phó cho Ngài, những thử thách và những khổ đau ».
Sẵn sàng trình diện trước mặt Thiên Chúa.
Vào năm 1980, trong dịp cấm phòng được giảng bởi Đức Cha Lucas Moreira Neves, người Ba Tư, Thư Ký của Hội Đồng các Giám Mục, và sau này là Hồng Y, ngày nay đã qua đời, ĐGH đã đọc lại bản di chúc năm 1979, và bản của Đức Phaolô VI, và Ngài nhìn nhận tính cách « tạm thời » của bản di chúc này.
Nhưng sứ điệp thiêng liêng của Ngài lúc bấy giờ là như sau : « ngày hôm nay, tôi ước muốn thêm rằng mỗi người bây giờ phải giữ trong tâm trí viễn tượng của sự chết và phải sẵn sàng trình diện trước Thiên Chúa và Đấng Thẩm Phán – và đồng thời là Đấng Cứu Độ và là Người Cha. Và tôi cũng thế, tôi luôn suy nghĩ về điều này, bằng cách trao phó giờ phút quan trọng này vào Mẹ Đức Kitô và của Giáo Hội – vào Người Mẹ của sự hy vọng của tôi ».
Năm đó, Ngài nhắc đến những sự bách hại mà Giáo Hội là nạn nhân trong một vài quốc gia « một thời đại của bách hại đến độ cũng chẳng kém gì giai đoạn của những thế kỷ đầu tiên, nó còn lớn hơn nữa, bởi tầm độ của sự tàn bạo và sự hận thù. « Sanguis martyrum - semen christianorum » (máu các thánh tử vì đạo, hạt giống của những kitô hữu).
Ngài lập lại lời « tuỳ thuộc trọn vẹn » về Chúa, « trong sự sống và trong sự chết », « bởi Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội ». « Tôi đã chấp nhận sự chết này, ĐGH viết, tôi hy vọng rằng Đức Kitô sẽ ban cho tôi ân sủng vào đoạn đường cuối này, nghĩa là sự Vượt Qua của tôi. Tôi hy vọng như thế Chúa sẽ làm cho sự chết của tôi trở thành hữu ích cho mục đích lớn lao này mà tôi luôn tìm kiếm để phục vụ : sự cứu độ của con người, sự duy trì gia đình nhân loại, và qua nhân loại tất cả những quốc gia và mọi dân tộc (Ngài cũng đề cập đến « quê hương trần gian » của Ngài) (…).
Sau vụ ám sát
Sau vụ ám sát, vào dịp cấm phòng tháng 03 năm 1982, được giảng bởi Linh Mục dòng Tên người Pháp, Stanislas Lyonnet, giáo sư tại trường Đại học Grégorienne, Ngài đọc lại bản di chúc năm 1979, vẫn coi bản đó như là tạm thời. Ngài chỉ thêm : « sự ám hại đời sống tôi, ngyà 13.05.1981, đã xác nhận một cách nào đó sự chính xác của những lời được ghi chép trong dịp linh thao năm 1980 ».
Có một lúc, trong dịp cấm phòng này, ĐGH do dự về nơi chôn cất Ngài, mơ tưởng được chôn cất bên Balan. Ngài xin Hồng Y Đoàn nghe những lời xin của Đức Tổng Giám Mục thành Cracovie và của Hội Đồng Giám Mục Balan. Vào năm 1985, Ngài « thanh minh » bằng cách viết rằng Hồng Y Đoàn không có « một sự bắt buộc nào cả » để tham dò « các vị bản xứ » về vấn đề này. Hồng Y Đoàn có thể làm điều đó nếu Hồng Y Đoàn thấy điều đó là « chính đáng ».
Về vấn đề này, Đức Hồng Y Jacques Martin thuật lại rằng ĐGH một ngày nọ xin ý kiến ngài về điều đó. Đức Hồng Y trả lời đại để như sau : điều đó sẽ là một niềm vui lớn lao cho nước Balan, nhưng là một nỗi buồn cho mọi phần còn lại của thế giới kytô hữu.
Bản di chúc của Năm Thánh
Hai trang cuối cùng đã được viết giữa những ngày 12 và 18 tháng 03 năm 2000, trong dịp cấm phòng được giảng bởi Đức Cố Hồng Y người Việt nam Phanxicô-Gia-vi-ê Nguyễn Văn Thuận, lúc đó chưa là Hồng Y nhưng đã là Bộ Trưởng Bộ Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình. Một dịp tĩnh tâm mà bản văn đã được ấn hành bằng tiếng pháp và đã gặt hái được thành quả lớn lao.
Trước hết ĐGH nhắc lại phận vụ « đưa Giáo Hội vào thiên niên kỷ thứ ba » theo những lời của Đức Hồng Y Stefan Wyszynski, ngày 16 tháng 10 năm 1978. Ngài nhấn mạnh rằng những lời này đến từ « Nhân vật đã vào lịch sử như Giáo Trưởng của thiên niên kỷ. Một Giáo Trưởng vĩ đại ».
Ngài thêm : « Tôi đã là nhân chứng của sứ mệnh Ngài, của sự dâng hiến trọn vẹn của Ngài, của những sự tranh đấu của Ngài, của sự chiến thắng của Ngài ». ĐGH nhấn mạnh rằng Đức Giáo Trưởng « của thiên niên kỷ » đã có thói quen lập lại : « khi sự chiến thắng sẽ đến, đó chính là nhờ Mẹ Maria ». Một sự ngụ ý về sự chấm dứt của sự đè nén của Cộng Sản tại Balan và trong khối Liên Xô.
ĐGH đã thấy những lời này được thực hiện trong triều đại giáo hoàng của Ngài. « Vào lúc mà tôi viết những lời này, Năm Thánh của năm 2000 đã là một thực thể đang tác động ». Ngài nhắc đến sự mở rộng của những cửa thánh của 4 đền thờ các thánh tổ phụ, từ đền thánh Phêrô, « đêm 24 tháng 12 năm 1999 » và đền thánh Phaolô ngoại thành, ngày 18 tháng 01 năm 2000, để mở cửa Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các kitô hữu. ĐGH nhấn mạnh tính cách « hoàn vũ » của sự mở rộng cách đặc biệt « được in hằn » trong « ký ức Ngài » : Ngài được bao quanh bên trái Ngài bởi Đức Giáo Chủ Chính Thống Giáo Athanasios, và bên phải Ngài, bởi vị Chủ Tịch của Giáo Hội Anh Giáo, Đức Tổng Giám Mục của Cantobery, Đức Georges Carey.
« Bây giờ cho con ra đi” (Nunc Dimittis)
ĐGH nói tiếp theo rằng trước thềm của năm thứ 80, Ngài đã nói với Thiên Chúa như cụ già Siméon trong Phúc Âm theo thánh Luca : “Bây giờ xin hãy để con ra đi” (Nunc Dimittis) : “Giờ đây, Chúa có thể để tôi tờ Ngài ra đi trong bình an theo lời Ngài hứa”. Lời đó làm câm nín những tiếng đồn về tất cả ý tưởng từ nhiệm của Ngài !
ĐGH trở lại sau đó về vụ ám sát năm 1981. “Chúa Quan Phòng, như Ngài viết, đã cứu tôi khỏi sự chết cách nhiệm mầu. Đấng duy nhất là Thiên Chúa của sự sống và của sự chết, chính Người đã kéo dài sự sống này, một hình thức nào đó Người đã cho tôi lại sự sống. Từ lúc đó sự sống tùy thuộc về Người nhiều hơn nữa”.
Tôi hy vọng, như ĐGH xác định, rằng Chúa sẽ giúp đỡ tôi nhận ra đến khi nào tôi phải tiếp tục phận vụ này mà Người đã gọi tôi ngày 16 tháng 10 năm 1978. Tôi xin Chúa vui lòng gọi tôi về với Người khi Người muốn điều đó (...). Tôi cũng hy vọng rằng chừng nào tôi còn phải chu toàn phận vụ giáo hoàng trong Giáo Hội, Lòng Nhân Từ của Chúa sẽ vui lòng ban cho tôi những sức mạnh cần thiết cho phận vụ này”.
Sự chấm dứt chiến tranh lạnh.
Cũng năm đó, trong bản di chúc này, giống như một tờ nhật ký thiêng liêng, ĐGH Gioan-Phaolô II cho biết rằng Ngài đã đọc lại bản di chúc năm 1979. Ngài nhận thấy rằng năm đó và những năm kế tiếp những lời ghi chú của Ngài “phản ảnh” những căng thẳng đè nặng trên thế giới, và Ngài cảm tạ “Chúa Quan Phòng” đã để “chiến tranh lạnh” được kết thúc không “có tranh chấp vũ lực hạt nhân” mà sự “hiểm nguy đè nặng trên nhân loại”.
Cuối cùng, đây là những câu cuối, đầy cảm xúc và mãnh liệt, của bản di chúc của Đức Gioan-Phaolô II, Người, lúc 80 tuổi, nhớ về những người thân của mình và về thành Wadowice “thành phố này của tình yêu tôi”, như Ngài viết “Dần dà theo đà tăng trưởng của mức cuối của đời sống trần gian của tôi, tôi quay về thuở ban đầu bằng tư tưởng, đến cha mẹ tôi, đến anh tôi và chị tôi (người mà tôi đã không được biết vì chị tôi đã qua đời trước khi tôi chào đời), đến giáo xứ Wadowice, nơi mà tôi đã lãnh nhận bí tích rửa tội, đến thành phố này mà tôi đã biết bao trìu mến, đến những người đồng hương của tôi, đến các bạn hữu của tôi, trai và gái, đến trường tiểu học, trường trung học, trường đại học, cho đến giai đoạn bị chiếm đóng, khi tôi làm việc như một người thợ, và sau đó đến giáo xứ Niegowic, đến giáo xứ Thánh Floriano ở Cracovie, đến mục vụ các đại học, trong môi trường .. trong mọi nơi ... ở Cracovie và tại La Mã ... đến những người đã được trao phó cho tôi một cách đặc biệt bởi Thiên Chúa. Với tất cả, tôi muốn nói một điều duy nhất : “Ước gì Thiên Chúa ban thưởng cho quý vị”.
Những lời cuối của Ngài là những lời của Đức Kitô khi chết trên thập tự : “In manu Tuas, Domine, commendo spiritum meum” (Trong tay Người, lạy Chúa, con xin trao phó linh hồn con).
Ngài đề ngày của Năm của Chúa 2000, ngày 17 tháng 03.
Trần Văn Toàn, chuyển ngữ

DI CHÚC CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN-PHAOLÔ II
(ĐÍNH CHÁNH CỦA HÃNG THÔNG TẤN ZENIT)
La Mã, thứ tư ngày 13 tháng 04 năm 2005 (Zenit.org). - Một câu dịch sai nghĩa đã được phát hiện trong bản dịch bằng tiếng Ý, dịch từ bản chính bằng tiếng Ba Lan của tờ di chúc của Đức Gioan-Phaolô II, mà bản chuyển dịch sang pháp ngữ đã dựa trên bản tiếng Ý đó [coi Bài « Di chúc của Đức Gioan-Phaolô II (bài dịch nguyên bản) mà Trần Văn Toàn đã chuyển dịch từ bản Pháp ngữ qua việt ngữ, ngày mùng 07 tháng 04 vừa qua]. .
Ở đoạn 6 của phần chót « Dịp linh thao của năm Thánh 2000 » , phải đọc là «Giáo Xứ Wadowice … « thành phố này của tuổi trẻ tôi » chứ không phải là « thành phố này mà tôi đã từng yêu mến biết bao » :
6. Dần dà mức giới hạn của đời sống trần gian của tôi tăng trưởng, bằng tư tưởng tôi trở về thuở ban đầu, về cha mẹ tôi, về anh và chị tôi (người mà tôi đã không được biết vì đã chết trước khi tôi sinh ra), về giáo xứ Wadowice, nơi mà tôi lãnh nhận bí tích rửa tội, đến thành phố này của tuổi trẻ tôi, đến các đồng hương của tôi, các bạn bè của tôi, …..
Trần Văn-Toàn