LƯU Ý

Đây là những văn bản Huấn quyền của Giáo Hội mà anthanhlinhgiang đã thu thập được trong nhiều năm và từ nhiều nguồn khác nhau - có thể từ internet hoặc có thể từ những người thiện chí gửi đến. Vì thế có những văn bản không rõ nguồn được lấy từ đâu hoặc có thể không có tính chính xác trong khi dịch thuật hoặc đã bị chỉnh sửa. Vì vậy trong quá trình sử dụng, bạn nào thấy có điều bất trắc, xin vui lòng báo lại để anthanhlinhgiang điều chỉnh hoặc gỡ bỏ.

Những văn bản có nguồn gốc thì anthanhlinhgiang sẽ ghi rõ ràng để các bạn yên tâm.

Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

ĐTC Gioan Phaolô II - Tông Huấn Ecclesia In Asia - Giáo Hội Tại Châu Á


TÔNG HUẤN ECCLESIA IN ASIA
GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á
CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

LỜI GIỚI THIỆU
Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á - (GA) - (Ecclesia in Asia -EIA) đã được Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II công bố nhân cuộc viếng thăm đáng ghi nhớ tại New Delhi, Ấn Độ ngày 6 tháng 11 năm 1999, một cuộc viếng thăm nhằm kết thúc Thượng Hội Đồng. Trong dịp đó, các giám mục, các giáo sĩ, những người sống đời thánh hiến và giáo dân từ khắp Châu Á đã quy tụ lại để đón nhận văn kiện này. Đây là một văn kiện phản ánh các cuộc thảo luận và các đề nghị của Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu nhằm thực hiện chương trình phúc âm hóa mới của Hội Thánh trên lục địa này.
Tông Huấn đã đúc kết và chuẩn nhận những suy tư sâu sắc, những nhận định đúng đắn và những phương hướng hành động của Thượng Hội Đồng Giám Mục bàn về Châu Á. Tông Huấn sẽ giúp chúng ta hiểu biết về chính Châu Á của mình với những điểm thuận lợi cũng như những khía cạnh phức tạp khó khăn. Quả vậy, Châu Á nổi bật về sự đa dạng của các dân tộc, những nền văn hóa và những tôn giáo truyền thống lâu đời. Người Á Châu biết quý trọng sự thinh lặng và chiêm niệm, sống giản dị hòa hợp, từ bỏ, bất bạo động, làm việc chăm chỉ, có kỷ luật, ham học hỏi và truy tầm triết lý. Trong cái hồn Á Châu có một thiên hướng tâm linh bẩm sinh và sự khôn ngoan đạo đức, tôn trọng sự sống, từ bi với mọi loài, gần gũi thiên nhiên, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, tổ tiên, tôn kính người cao tuổi, ý thức sâu sắc về cộng đoàn. Đó chính là cốt tủy làm nên "bản sắc Á Châu" (x. số 6). Tuy nhiên Tông Huấn cũng cho chúng ta thấy những phức tạp, những khó khăn và thách đố trong đời sống cá nhân và xã hội cũng như trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Đức Thánh Cha đã tổng hợp tất cả thực tại phong phú ấy một cách kỳ diệu và đầy khôn ngoan rồi quy tụ về Đức Giêsu Kitô như là Đấng Cứu Độ duy nhất của toàn thể loài người và vũ trụ.
Chúng ta có thể tự hỏi tại sao Đấng cứu độ thế giới sinh ra tại Châu Á, mà cho đến ngày nay, phần lớn dân lục địa này, vẫn không biết tới Ngài. Và nhiều khi chúng ta e ngại không dám công bố tính cách duy nhất của ơn cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô trước số tín đồ đông đảo của các tôn giáo truyền thống lâu đời ở Châu Á. Đức Thánh Cha hiểu nỗi băn khoăn đó và Ngài đã giới thiệu, chỉ dẫn cho chúng ta cách thế khôn ngoan và hữu hiệu để loan báo Đức Giêsu Kitô, cũng như để thực hiện sứ mạng yêu thương và phục vụ của Ngài hầu làm cho mỗi người dân Á Châu được sống và sống dồi dào.
Từng câu, từng chữ của Tông Huấn đều đáng cho mỗi người chúng ta tìm hiểu và học hỏi, vì nội dung và ý nghĩa phong phú của chúng. Nhất là Tông Huấn sẽ giúp ta đổi mới đời sống đức tin, đổi mới cách loan báo Tin Mừng cho đồng bào cũng như cho các anh em khác. Nhận thức tầm quan trọng đó, nên mọi tín hữu công giáo đều thấy mình có bổn phận phải học hỏi, phổ biến và thực thi Tông Huấn.
Chính vì vậy, trong từng cấp: từ cấp Quốc gia đến Giáo phận và Giáo xứ, Tông Huấn ước mong được phổ biến đến mọi thành phần của Hội thánh và tất cả những người thiện chí. Chúng ta cũng hãy cố gắng xử dụng mọi phương tiện sẵn có trong thế giới hôm nay để phổ biến và áp dụng Tông huấn, sao cho Tông Huấn được hiện diện trong các chương trình mục vụ của giáo xứ, giáo phận, trong các chương trình đào đạo linh mục, tu sĩ, giáo dân, trong các buổi hội họp và thường huấn… Đến nay, nhiều nước Á Châu đã có những áp dụng Tông Huấn rất tích cực.
Sau đây, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bản dịch Việt ngữ của Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, được chuyển ngữ từ bản gốc tiếng Anh. Xin chân thành cám ơn những người đã góp phần trong việc phiên dịch, cũng như sửa chữa cho bản văn thêm chính xác để có thể dễ dàng tiếp cận với mọi người. Chúng tôi cũng rất mong đón nhận được những góp ý.
(Xin lưu ý : Lời giới thiệu, nhập đề và dẫn nhập của mỗi chương là của Ban Dịch Thuật)
BAN DỊCH THUẬT
MỤC LỤC
NHẬP ĐỀ
1. Kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa tại Châu Á
2. Bối cảnh của Hội Nghị đặc biệt vừa qua
3. Diễn tiến Hội Nghị đặc biệt
4. Chia sẻ kết quả Hội Nghị đặc biệt
Chương I : BỐI CẢNH Á CHÂU
5. Á Châu, nơi sinh ra của Đức Giêsu & Giáo Hội
6. Các thực tế tôn giáo và văn hóa
7. Các thực tế kinh tế và xã hội
8. Các thực tế chính trị
9. Giáo Hội tại Châu Á : trong quá khứ và trong hiện tại
Chương II : ĐỨC GIÊSU CỨU TINH :
MỘT MÓN QUÀ GỬI TẶNG CHÂU Á
10. Món quà đức tin
11. Đức Giêsu Kitô, là Thiên-Chúa-làm-người, Đấng ban ơn cứu độ
12. Con người và sứ mạng của Con Thiên Chúa
13. Đức Giêsu Kitô : sự thật về con người
14. Tính duy nhất và phổ quát của sự cứu độ nơi Đức Giêsu
Chương III : CHÚA THÁNH THẦN
LÀ ĐỨC CHÚA VÀ LÀ ĐẤNG BAN SỰ SỐNG
15. Thánh Thần TC trong việc sáng tạo và trong lịch sử
16. Chúa Thánh Thần và sự nhập thể của Ngôi Lời
17. Chúa Thánh Thần và Thân Thể Đức Kitô
18. Chúa Thánh Thần và sứ mạng của Giáo Hội tại Châu Á
Chương IV : ĐỨC GIÊSU CỨU THẾ :
MỘT QUÀ TẶNG CẦN LOAN BÁO
19. Ưu tiên cho việc loan báo
20. Loan báo Đức Giêsu Kitô tại Á Châu
21. Thách đố của việc hội nhập văn hóa
22. Những lãnh vực then chốt cần hội nhập văn hóa
23. Cuộc sống Kitô hữu là một cách loan báo
Chương V :
HIỆP THÔNG VÀ ĐỐI THOẠI ĐỂ TRUYỀN GIÁO
24. Hiệp thông và truyền giáo phải đi đôi với nhau
25. Hiệp thông trong nội bộ Giáo Hội
26. Sự liên đới giữa các Giáo Hội
27. Các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương
28. Chia sẻ hy vọng và khổ đau
29. Sứ mạng đối thoại
30. Đối thoại đại kết
31. Đối thoại giữa các tôn giáo
Chương VI : PHỤC VỤ THĂNG TIẾN CON NGƯỜI
32. Học thuyết xã hội của Giáo Hội
33. Phẩm giá con người
34. Ưu tiên yêu thương người nghèo
35. Tin Mừng về sự sống
36. Chăm sóc sức khoẻ
37. Giáo dục
38. Xây dựng hòa bình
39. Hiện tượng toàn cầu hóa
40. Nợ nước ngoài
41. Môi trường
Chương VII :
NHỮNG NGƯỜI LÀM CHỨNG CHO TIN MỪNG
42. Một Giáo Hội làm chứng
43. Các mục tử
44. Đời thánh hiến và các Hội Truyền Giáo
45. Giáo dân
46. Gia đình
47. Giới trẻ
48. Truyền thông xã hội
49. Các vị tử đạo
KẾT LUẬN
50. Lời tri ân và khích lệ
51. Cầu nguyện với Thân Mẫu Đức Kitô



TÔNG HUẤN ECCLESIA IN ASIA
GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á
CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

gửi đến các giám mục,
linh mục và phó tế,
nam nữ tu sĩ và toàn thể giáo dân
về: Đức Giêsu Kitô Cứu Thế,
sứ mạng yêu thương
và phục vụ của Ngài tại Châu Á:
". . . để họ được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10).
NHẬP ĐỀ
Ai có thể hiểu được vì sao Thiên Chúa đã khởi sự kế hoạch cứu độ nhân loại của Ngài trên mảnh đất Á Châu, qua những con người của lục địa này và hoàn thành kế họach đó bằng cách sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô sinh xuống làm một người Á Châu !
Vui mừng trước đặc ân lớn lao này, Giáo Hội tại Châu Á không ngừng cất cao lời ca ngợi tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Nhưng một điều khác cũng không kém huyền nhiệm là Đấng Cứu Độ thế giới đã sinh ra tại Châu Á, mà tới nay, sau 2000 năm, phần lớn dân châu lục này vẫn chưa biết tới Ngài
Câu hỏi này đặt ra những vấn đề lớn cho Giáo Hội Á Châu. Chính vì thế mà mùa xuân năm 1998, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu để các Nghị Phụ hiệp thông trong tình yêu, tìm hiểu môi trường Châu Á, chia sẻ kinh nghiệm mục vụ, khẳng định niềm tin vào Đấng Cứu Thế, nhất là để thực hiện một cuộc dấn thân mới vào sứ mạng loan báo Tin Mừng.
KẾ HOẠCH KỲ DIỆU CỦA THIÊN CHÚA TẠI CHÂU Á
1. GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á hát mừng ngợi khen "Thiên Chúa cứu độ" (Tv 68,20) vì Chúa đã chọn khởi sự kế hoạch cứu độ của Ngài trên mảnh đất Á Châu, qua những con người của lục địa này. Thật vậy, chính tại Châu Á, ngay từ đầu Thiên Chúa đã mặc khải và thực hiện ý định cứu độ của Ngài. Ngài hướng dẫn các tổ phụ (x. St 12) và kêu gọi Môsê đưa dân Ngài đến hưởng tự do (x. Xh 3,10). Ngài ngỏ lời với dân được chọn ấy thông qua nhiều ngôn sứ, thủ lãnh, vua chúa và những phụ nữ kiên vững trong đức tin. Và "khi thời gian tới hồi viên mãn" (Gl 4,4), Ngài đã sai Con Một của mình đến, là Đức Giêsu Kitô Cứu thế, làm một người Á Châu! Vui mừng trước những điều tốt đẹp của các dân tộc và các nền văn hóa, và sức sống tôn giáo tại châu lục này, đồng thời ý thức về hồng ân đức tin duy nhất mà mình đã tiếp nhận vì thiện ích của mọi người, Giáo Hội tại Châu Á không ngừng cất cao lời "Hãy tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 118,1).
1§2 Vì Đức Giêsu đã sinh ra, đã sống, đã chịu chết và phục sinh trên Đất Thánh, nên mảnh đất Tây Á nhỏ bé này đã trở thành một miền đất của hứa hẹn và hy vọng cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu đã quen biết mảnh đất này và yêu thương nó, Ngài đã lấy lịch sử, khổ đau và hy vọng của dân tộc ở đó làm lịch sử, khổ đau và hy vọng của mình. Ngài yêu quý dân tộc Do thái và đón nhận những truyền thống và di sản của họ. Quả vậy, Thiên Chúa đã chọn dân này từ lâu và đã tỏ mình cho họ biết để chuẩn bị đón Đấng Cứu Thế đến, và cũng từ mảnh đất này, qua việc rao giảng Tin Mừng dựa vào quyền năng của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đã ra đi "làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19). Cùng với Giáo Hội trên toàn thế giới, Giáo Hội tại Châu Á sẽ bước sang thiên niên kỷ thứ ba, với tâm tình cảm phục mọi kỳ công Thiên Chúa đã làm từ những bước khởi đầu ấy đến nay; vững tin rằng "nếu trong thiên niên kỷ thứ nhất của Kitô Giáo, Thập Giá đã được trồng trên đất Âu Châu, và trong thiên niên kỷ thứ hai, Thập Giá được trồng trên đất Mỹ Châu và Phi Châu, thì trong thiên niên kỷ thứ ba, Giáo Hội sẽ được một mùa gặt bội thu trên lục địa rộng lớn và tràn trề sức sống này" ( 1 ).
BỐI CẢNH CỦA HỘI NGHỊ ĐẶC BIỆT VỪA QUA
2. Trong tông thư Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba (Tertio Millennio Adveniente), tôi đã vạch ra một chương trình cho Giáo Hội đón mừng thiên niên kỷ thứ ba của Kitô Giáo, một chương trình tập trung giải quyết những thách đố đặt ra cho công cuộc tân phúc âm hóa. Một nét quan trọng của chương trình này là tổ chức các Thượng Hội Đồng theo châu lục để các giám mục có thể đề cập vấn đề phúc âm hóa cho phù hợp với tình hình và nhu cầu riêng của mỗi châu lục. Các Thượng Hội Đồng này, được tổ chức liên tiếp và liên kết với nhau bằng một chủ đề chung là việc tân phúc âm hóa, đã tỏ ra là phần quan trọng trong việc Giáo Hội chuẩn bị đón Năm Đại Toàn Xá 2000.
2§2 Cũng trong tông thư ấy, khi nhắc tới Hội Nghị đặc biệt dành cho Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, tôi có lưu ý rằng, tại phần đất này "vấn đề cấp thiết là làm sao cho Kitô Giáo gặp gỡ các văn hóa và tôn giáo lâu đời của địa phương. Đây là một thách đố lớn đặt ra cho việc phúc âm hóa, vì các hệ thống tôn giáo ở đây như Phật Giáo hay Ấn Độ Giáo đã mang tính chất cứu độ rất rõ" ( 2 ) Thật vậy, quả là một điều khó hiểu, tại sao Đấng Cứu độ thế giới sinh ra tại Châu Á, mà cho đến ngày nay, phần lớn dân lục địa này, vẫn không biết tới Ngài. Thượng Hội Đồng vừa qua đúng là một cơ hội quan phòng cho Giáo Hội tại Châu Á để suy nghĩ nhiều hơn về điều khó hiểu ấy và cam kết sẽ dấn thân một cách mới mẻ để thi hành sứ mạng làm cho Đức Giêsu Kitô được mọi người biết tới nhiều hơn. Hai tháng sau khi công bố Tông Thư Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba, lúc ngỏ lời với Hội Nghị khoáng đại lần thứ sáu của Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu tại Manila - nước Philíppin, vào dịp mừng Ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ 10 đáng nhớ ấy, tôi đã nhắc các giám mục: "Nếu Giáo Hội tại Châu Á có nhiệm vụ phải hoàn thành thiên mệnh mà Chúa đã quan phòng cho mình, thì ưu tiên số một của quý vị sẽ phải là phúc âm hóa - tức rao giảng cuộc tử nạn và phục sinh cứu độ của Đức Giêsu Kitô một cách vui tươi, kiên nhẫn và tiệm tiến" ( 3).
2§3 Sự hưởng ứng tích cực của các giám mục và các Giáo Hội địa phương hướng tới Hội Nghị đặc biệt của Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã được thấy rất rõ trong giai đoạn chuẩn bị Hội Nghị. Ở cấp độ nào cũng thấy, các giám mục đã bày tỏ những ước nguyện và ý kiến của mình một cách chân tình dựa trên hiểu biết thấu đáo về lục địa của mình. Các ngài làm việc này với ý thức đầy đủ về mối hiệp thông giữa các ngài với Giáo Hội toàn cầu. Phù hợp với ý tưởng ban đầu của Tông Thư Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba, thể theo những đề nghị Uỷ Ban Trù Bị Thượng Hội Đồng sau khi ủy ban đã cân nhắc các quan điểm của các giám mục và các Giáo Hội địa phương trên lục địa Á Châu, tôi đã chọn đề tài cho Thượng Hội Đồng: Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, sứ mạng yêu thương và phục vụ của Ngài tại Châu Á: "Để họ được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10). ). Qua câu nói diễn tả đề tài này, tôi hy vọng rằng Thượng Hội Đồng sẽ "làm sáng tỏ và giải thích đầy đủ hơn chân lý: Đức Kitô là Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người; Ngài là Đấng Cứu Chuộc duy nhất của thế giới, được phân biệt rõ ràng với các vị sáng lập các tôn giáo lớn khác" ( 4 ). Trong lúc tiến gần đến Năm Đại Toàn Xá, Giáo Hội Á Châu cần làm sao cho mình có thể công bố tin vui sau đây với một sinh lực mới: Này đây Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta (Ecce natus est nobis Salvator mundi), và sinh ra tại Châu Á!
DIỄN TIẾN HỘI NGHỊ ĐẶC BIỆT
3. Nhờ ơn Chúa, Hội Nghị đặc biệt của Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã diễn ra từ ngày 18 tháng 4 đến ngày 14 tháng 5 năm 1998 tại Vatican. Hội Nghị này diễn ra sau các Hội Nghị đặc biệt cho Phi Châu (1994) và Mỹ Châu (1997), và tiếp theo là Hội Nghị đặc biệt cho Đại Dương Châu được tổ chức vào cuối năm 1998. Trong gần một tháng, các Nghị Phụ và các tham dự viên khác đã tập hợp chung quanh Đấng Kế Vị thánh Phêrô, chia sẻ với nhau trong tinh thần hiệp thông phẩm trật, nói lên và diễn tả Giáo Hội tại Châu Á một cách cụ thể. Đó quả là một thời gian của ân sủng đặc biệt! (5 ). Những phiên họp trước đó của các giám mục Á Châu đã góp phần chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng, tạo điều kiện cho một bầu khí hiệp thông sâu xa đầy tình huynh đệ trong Giáo Hội. Về mặt này, phải kể tới sự đóng góp của các phiên họp khoáng đại và các hội nghị chuyên đề trước đó do Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu và các văn phòng của Liên Hiệp ấy bảo trợ. Nhờ đó đông đảo giám mục Á Châu có dịp gặp gỡ định kỳ, tăng cường mối liên hệ giữa các ngài với nhau, liên hệ cá nhân và liên hệ trong thừa tác vụ. Tôi được hân hạnh đến viếng thăm một số phiên họp ấy, thỉnh thoảng chủ sự các cuộc cử hành Thánh Thể long trọng khi khai mạc hay bế mạc các phiên họp ấy. Vào những dịp đó, tôi có cơ hội quan sát trực tiếp cuộc hội ngộ trong tinh thần đối thoại giữa các Giáo Hội địa phương, kể cả các Giáo Hội Đông Phương, qua các mục tử của họ. Những hội nghị này và nhiều hội nghị khác theo từng vùng của các giám mục Á Châu nhờ Thiên Chúa quan phòng, đã giúp chuẩn bị xa cho Thượng Hội Đồng Giám Mục này.
3§2 Chính cuộc cử hành Thượng Hội Đồng này cũng xác nhận thêm tầm quan trọng của sự đối thoại, coi đó như cung cách sinh hoạt điển hình của đời sống Giáo Hội tại Châu Á. Chia sẻ kinh nghiệm, đưa ra ý kiến một cách chân thành và thẳng thắn, đó chính là phương thế đưa tới sự gặp gỡ đích thực giữa các não trạng, đưa tới sự hiệp thông trí tuệ và con tim, đó là một sự hiệp thông trong tình yêu, biết tôn trọng và vượt lên trên các dị biệt. Cảm động hơn cả là sự gặp gỡ giữa các Giáo Hội mới khai sinh và các Giáo Hội lâu đời, bắt nguồn từ thời các tông đồ. Chúng tôi sung sướng khôn tả khi được nhìn thấy các giám mục của các Giáo Hội tại Myanmar, Việt Nam, Lào, Campuchia, Mông Cổ, Siberia và tại các nước cộng hòa mới vùng Trung Á, ngồi bên cạnh các anh em của họ mà lâu nay họ vẫn hằng mong ước được gặp gỡ và trao đổi. Tuy nhiên, chúng tôi cũng cảm thấy buồn khi không thấy các giám mục Trung Hoa lục địa đến dự. Sự vắng mặt của các vị ấy là lời nhắc nhở thường xuyên cho chúng ta về những hy sinh và những đau khổ anh hùng mà Giáo Hội đang phải gánh chịu ở nhiều nơi tại Châu Á.
3§3 Cuộc gặp gỡ trong tinh thần đối thoại giữa các giám mục và Đấng Kế Vị thánh Phêrô, người được giao cho trách nhiệm củng cố anh em mình (x. Lc 22,32). Quả thật là một dịp làm cho đức tin và sứ mạng thêm vững mạnh. Ngày qua ngày, lúc nào đại sảnh của Thượng Hội Đồng cũng như các phòng họp đều tràn ngập các báo cáo phản ánh đức tin sâu sắc, tình yêu tự hiến, niềm hy vọng không lay chuyển, sự dấn thân giữa gian khổ triền miên, lòng can đảm bền bỉ và sự tha thứ đầy nhân ái; tất cả đều chứng minh cách hùng hồn sự thật Lời Chúa Giêsu nói: "Thầy sẽ ở với anh em luôn mãi" (Mt 28,20). Thượng Hội Đồng là một thời gian ân sủng, vì đó là một cuộc gặp gỡ Chúa Cứu Thế, Đấng vẫn luôn hiện diện trong Giáo Hội thông qua quyền năng của Chúa Thánh Thần, được mọi người cảm nhận trong một cuộc đối thoại huynh đệ, bằng đời sống, bằng sự hiệp thông và bằng sứ vụ truyền giáo.
CHIA SẺ KẾT QUẢ HỘI NGHỊ ĐẶC BIỆT
4. Qua Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng, tôi muốn chia sẻ với Giáo Hội Á Châu và với Giáo Hội trên khắp thế giới những kết quả của Hội Nghị đặc biệt này. Tông Huấn muốn chuyển tới mỗi người sự phong phú chứa đựng trong biến cố thiêng liêng vĩ đại ấy, biến cố của sự hiệp thông và của tính tập đoàn giữa các giám mục. Thượng Hội Đồng này là một cuộc cử hành tưởng niệm nguồn gốc Á Châu của Kitô Giáo. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhớ tới cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, đó là Giáo Hội sơ khai, đàn chiên nhỏ của Đức Giêsu trên lục địa mênh mông này (x. Lc 12,32). Các Nghi Phụ nhớ lại những gì Giáo Hội đã tiếp nhận và đã nghe được từ ban đầu (x. Kh 3,3), và sau khi hồi tưởng lại, họ ca tụng "lòng nhân hậu bao la" của Thiên Chúa (x. Tv 145,7), một lòng nhân hậu không bao giờ giảm sút. Thượng Hội Đồng cũng là một dịp cho người ta nhận ra các truyền thống tôn giáo và văn minh thời xưa, các triết lý sâu xa và sự khôn ngoan đã làm cho Châu Á trở nên như ngày hôm nay. Trên hết, hội nghị khẳng định lại rằng chính các dân tộc Á Châu mới là tài sản thật của châu lục và là niềm hy vọng cho tương lai. Suốt quá trình diễn ra Thượng Hội Đồng, các Nghị Phụ hiện diện đều chứng kiến một cuộc gặp mặt có kết quả lạ thường giữa các nền văn hóa và văn minh Á Châu cổ kính cũng như hiện đại, các vị cũng ngạc nhiên trước sự dị biệt lẫn đồng quy của các Giáo Hội ấy, nhất là khi thấy các biểu tượng, bài ca, điệu vũ và màu sắc được trình diễn một cách hòa hợp với nhau, chung quanh Bàn Tiệc duy nhất của Chúa trong các cuộc cử hành phụng vụ Thánh Thể khai mạc và bế mạc.
4§2 Đây không phải là một cuộc cử hành xuất phát từ niềm tự hào về các thành tích mà con người đã đạt được, mà là một cuộc cử hành nảy sinh do ý thức được những gì Đấng Toàn Năng đã làm cho Giáo Hội tại Châu Á (x. Lc 1,49). Khi nhắc lại thân phận khiêm tốn của cộng đoàn Công Giáo, cũng như sự yếu đuối của các thành phần, Thượng Hội Đồng cũng muốn trở thành tiếng mời gọi hoán cải, để Giáo Hội tại Châu Á ngày càng trở nên xứng đáng hơn với những ân huệ Thiên Chúa đã không ngừng ban cho.
4§3 Vừa là một cuộc tưởng niệm vừa là một cuộc cử hành, Thượng Hội Đồng cũng là sự khẳng định mạnh mẽ về đức tin của mình vào Đức Giêsu Kitô Cứu Thế. Để cảm tạ hồng ân đức tin ấy, các Nghị Phụ nhận thấy không có cách nào khác để cử hành đức tin một cách tốt đẹp hơn là khẳng định đức tin một cách nguyên vẹn và suy tư về đức tin trong tương quan với bối cảnh mà trong đó đức tin phải được công bố và tuyên xưng tại Châu Á ngày nay. Các vị thường nhấn mạnh rằng đức tin ấy đã được công bố trên lục địa này với lòng tin tưởng và can đảm, mặc dù giữa bao thử thách và khó khăn. Thay mặt cho bao nhiều triệu người tại Châu Á này, những người không tin tưởng vào ai khác ngoài Đức Chúa, các Nghị Phụ đã tuyên xưng: "Chúng tôi đã tin và nhận biết Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Ga 6,69). Đứng trước những vấn nạn nhức nhối gây ra bởi những đau khổ, bạo hành, kỳ thị và nghèo đói mà đa số người dân Á Châu phải gánh chịu, các ngài dâng lời cầu xin: "Con tin, nhưng xin thêm đức tin cho con" (Mc 9,24).
4§4 Năm 1995, tôi có kêu mời các giám mục Á Châu đang tụ họp tại Manila "hãy mở rộng cánh cửa Châu Á cho Đức Kitô" (6 ). Nương tựa vào sự hiệp thông nhiệm mầu với vô số các vị tử đạo, thường chẳng được mấy ai biết, cũng như kiên định trong niềm hy vọng nhờ có Chúa Thánh Thần hiện diện, các Nghị Phụ đã can đảm kêu mời tất cả các môn đệ của Đức Kitô tại Châu Á thực hiện một cuộc dấn thân mới vào sứ mạng truyền giáo. Suốt trong Hội Nghị của Thượng Hội Đồng, các giám mục và các tham dự viên đã minh chứng cho biết bản sắc và sự nhiệt tình thiêng liêng của người Á Châu sẽ bảo đảm biến Châu Á thành một miền đất có mùa gặt bội thu trong thiên niên kỷ đang tới.
Chú thích:
(1) Đức Gioan Phaolô II, "Diễn văn tại Hội Nghị Khoáng Đại lần thứ 6 của Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu", Manila (15.1.1995), 11 : Insegnamenti XVIII, 1 (1995), 159.
(2) Tông thư "Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba" (10.11.1994), 38 : AAS 87 (1995), 30
(3) "Diễn văn...", 11 : Insegnamenti XVIII, 1 (1995), 159.
(4) Tông thư "Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba", 38 : AAS 87 (1995), 30.
(5) X. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, "Nuntius" (Sứ điệp kết thúc), 2.
(6) "Diễn văn...", 10 : Insegnamenti XVIII, 1 (1995), 159.
Nguyễn Văn Hưởng
CHƯƠNG MỘT : BỐI CẢNH Á CHÂU
Châu Á là nơi khai sinh của Đức Giêsu và cũng là nơi Chúa Giêsu lập Giáo Hội. Châu lục lớn nhất này chiếm hai phần ba dân số thế giới. Đây cũng là chiếc nôi của các tôn giáo lớn của thế giới và là nơi phát sinh nhiều truyền thống tâm linh khác.
Các dân tộc Châu Á đang sống trong một bối cảnh kinh tế xã hội và chính trị rất đa dạng, đồng thời phải đối mặt với biết bao vấn đề khó khăn phức tạp như sự chênh lệnh giàu nghèo, vấn đề di cư, sự hình thành các đô thị khổng lồ - môi trường thuận lợi cho các tệ nạn và tội ác.
Giáo Hội đã kiên trì rao giảng Tin mừng qua nhiều giai đoạn lịch sử, và ngày nay, tuy sống trong một môi trường phức tạp như vậy, nhưng Giáo Hội tin tưởng vào tâm tình đạo đức truyền thống của các dân tộc này, những người luôn biết tôn trọng và khao khát các giá trị tâm linh, lúc nào cũng đang trên đường đi tìm Đấng Tuyệt Đối. Giáo Hội nhìn thấy Thiên Chúa đang mở ra những chân trời mới của một nhân loại đang sẵn sàng đón nhận Tin Mừng
CHÂU Á, NƠI SINH RA CỦA ĐỨC GIÊSU VÀ GIÁO HỘI
5. Cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa, một biến cố sẽ được toàn thể Giáo Hội long trọng kỷ niệm vào Năm Đại Toàn Xá 2000, đã diễn ra trong một bối cảnh lịch sử và địa lý nhất định. Bối cảnh ấy cũng có một tầm ảnh hưởng quan trọng trên cuộc đời và sứ mạng của Đấng Cứu Thế trong thân phận làm người. "Nơi Đức Giêsu người Nazareth, Thiên Chúa đã nhận lấy những yếu tố đặc thù của bản tính nhân loại, kể cả việc thuộc về một dân tộc nhất định và một xứ sở nhất định. Nét đặc thù vật lý của xứ sở và những yếu tố địa lý của miền đất ấy là điều không thể tách rời được với sự thật là Ngôi Lời đã nhận lấy thân xác con người"(7 ). Bởi đó, biết được cái thế giới trong đó Đấng Cứu Thế "cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14) là chìa khoá quan trọng giúp ta hiểu biết chính xác hơn ý định của Chúa Cha hằng hữu, cũng như tình thương vô biên của Ngài đối với mỗi thụ tạo: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16).
5§2 Cũng vậy, Giáo Hội sống và hoàn thành sứ mạng của mình trong những hoàn cảnh cụ thể của không gian và thời gian. Nếu Dân Chúa trên lục địa Á Châu muốn hưởng ứng những gì Chúa muốn họ làm trong công cuộc tân phúc âm hóa, thì điều thiết yếu là họ phải biết nhận thức một cách sâu sắc những thực tại đa dạng và phức tạp của lục địa này. Các Nghị Phụ nhấn mạnh: việc thi hành sứ mạng yêu thương và phục vụ của Giáo Hội tại Châu Á bị chi phối bởi hai nhân tố: một là phải nhận thức mình là cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu Kitô quy tụ chung quanh các mục tử của mình, hai là cũng phải hiểu biết các thực tế xã hội, chính trị, tôn giáo, văn hóa và kinh tế của Châu Á (8 ). Trong quá trình Hội Nghị, tình hình Á Châu đã được đưa ra xem xét kỹ lưỡng bởi những người có dịp tiếp xúc mỗi ngày với các thực tế cực kỳ khác nhau của đại lục mênh mông này. Sau đây là kết quả suy tư của các Nghị Phụ, được trình bày một cách tổng hợp.
CÁC THỰC TẾ TÔN GIÁO VÀ VĂN HÓA
6. Châu Á là lục địa rộng nhất thế giới và là quê hương của gần hai phần ba dân số thế giới, trong đó Trung Quốc và Ấn Độ chiếm gần nửa dân số địa cầu. Nét nổi bật nhất của lục địa này là sự đa dạng của các dân tộc, những người "thừa hưởng những nền văn hóa, tôn giáo và truyền thống cổ xưa"(9). Chúng ta không khỏi sững sờ trước con số khổng lồ của dân cư Á Châu và trước bức tranh ghép phức tạp của biết bao nền văn hóa, ngôn ngữ, tín ngưỡng và truyền thống, làm nên phần cơ bản của lịch sử và di sản của gia đình nhân loại.
6§2 Châu Á cũng là chiếc nôi của các tôn giáo lớn trên thế giới, như Do Thái Giáo, Kitô Giáo, Hồi Giáo và Ấn Độ Giáo. Đó là nơi khai sinh của nhiều truyền thống tâm linh khác như Đạo Phật, Đạo Lão, Đạo Khổng, Đạo Bái Hoả (Zoroastrianism), đạo Giaina (Jainism), đạo Sikh và Thần Đạo (Shintoism). Chưa kể hàng triệu người theo các tôn giáo truyền thống hay bộ tộc, có nghi thức quy củ và giáo lý chính thức ở những mức độ khác nhau. Giáo Hội hết sức kính trọng các truyền thống này và luôn tìm cách đối thoại chân thành với các tín đồ của các tôn giáo và các truyền thống ấy. Các giá trị tôn giáo mà các đạo ấy giảng dạy đang chờ được kiện toàn trong Đức Giêsu Kitô.
6§3 Người dân Á Châu rất tự hào về các giá trị tôn giáo và văn hóa của mình, như yêu mến sự thinh lặng và chiêm niệm, sống giản dị, hòa hợp, từ bỏ, bất bạo động, làm việc chăm chỉ, có kỷ luật, sống thanh đạm, ham học hỏi và truy tầm triết lý (10 ). Người Á Châu rất yêu chuộng các giá trị như: tôn trọng sự sống, từ bi với mọi loài, gần gũi thiên nhiên, hiếu thảo với cha mẹ, tôn kính người cao tuổi và tổ tiên, ý thức sâu sắc về cộng đoàn (11 ). Cách riêng, họ coi gia đình là nguồn sức mạnh đem lại sự sống, là một cộng đoàn liên kết chặt chẽ và có ý thức liên đới cao (12 ). Các dân Á Châu thường được tiếng là có tinh thần bao dung tôn giáo và sống chung hòa bình. Trong bối cảnh đa tôn giáo và đa văn hóa, tuy không phủ nhận đã xảy ra những căng thẳng và xung đột gay gắt, nhưng vẫn nói được rằng Châu Á luôn chứng tỏ có khả năng đặc biệt thích nghi và cởi mở một cách tự nhiên để làm cho các dân tộc giúp nhau thêm phong phú. Ngoài ra, dù chịu ảnh hưởng của trào lưu hiện đại hóa (modernization) và tục hóa, các tôn giáo Á Châu vẫn chứng tỏ mình có nhiều sinh lực và khả năng canh tân, như có thể thấy qua các phong trào cải cách ngay trong các tập thể tôn giáo khác nhau. Nhiều người, nhất là người trẻ, rất khao khát các giá trị tâm linh, sự xuất hiện các phong trào tôn giáo mới gần đây là một bằng chứng rõ ràng.
6§4 Tất cả những dẫn chứng trên cho thấy trong cái hồn Á Châu có một thiên hướng tâm linh bẩm sinh và sự khôn ngoan đạo đức. Đây chính là cốt tủy làm trung tâm cho cảm thức về "bản sắc Á Châu" ngày càng phát triển hơn. "Bản sắc Á Châu" này sẽ được khám phá và khẳng định rõ nhất không phải bằng cách đối đầu và phản kháng, nhưng bằng cách bổ sung và phối hợp hài hòa với nhau. Trong khung cảnh bổ sung và phối hợp hài hòa ấy, Giáo Hội có thể truyền bá Tin Mừng một cách vừa trung thành với truyền thống của mình vừa phù hợp với cái hồn Á Châu.
CÁC THỰC TẾ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
7. Về phương diện phát triển kinh tế, ta phải nhìn nhận tình hình trên lục địa Á Châu quả là có rất nhiều khác biệt nên khó mà phân loại cách đơn giản. Một số quốc gia đã phát triển cao, một số quốc gia khác đang phát triển thông qua các chính sách kinh tế hữu hiệu và một số khác nữa đang sống trong cảnh bần cùng, được xếp vào số các nước nghèo nhất trên địa cầu. Trong quá trình phát triển ấy, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa tục hóa đang lấn lướt, nhất là tại các khu vực đô thị. Những ý thức hệ này đang làm xói mòn các giá trị truyền thống, xã hội và tôn giáo, đe doạ các nền văn hóa Á Châu, gây thiệt hại tới mức không lường được.
7§2 Các Nghị Phụ đã nói tới những thay đổi nhanh chóng đang diễn ra ngay trong chính các xã hội Á Châu, cùng với những khía cạnh tích cực và tiêu cực của những thay đổi này. Trong số đo,  phải kể đến hiện tượng đô thị hóa và sự xuất hiện các đô thị khổng lồ. Các đô thị này thường có nhiều khu vực rộng lớn rơi vào tình trạng suy thoái, trở thành nơi phát sinh các tổ chức tội ác, khủng bố, mãi dâm và nạn bóc lột các thành phần yếu kém trong xã hội. Di cư cũng là một hiện tượng xã hội quan trọng, đặt hằng triệu người vào những tình cảnh rất khó khăn về kinh tế, văn hóa và đạo đức. Người ta di cư trong phạm vi Châu Á hay từ Châu Á sang các châu lục khác vì nhiều lý do, trong đó có lý do nghèo khổ, chiến tranh và xung đột sắc tộc, sự phủ nhận các quyền con người và những quyền tự do căn bản. Việc thành lập các tổ hợp công nghệ khổng lồ cũng là một nguyên nhân nữa đưa tới sự di cư trong phạm vi Châu Á hay ngoài Châu Á, kéo theo những hậu quả tai hại cho đời sống và các giá trị gia đình. Các Nghị Phụ cũng nhắc tới việc có nhiều nhà máy năng lượng hạt nhân được xây dựng mà chỉ chú ý tới giá thành và hiệu năng nhưng ít quan tâm tới sự an toàn cho con người và sự bảo tồn môi trường.
7§3 Du lịch cũng là một điều khiến ta phải chú ý đặc biệt. Dù đó là một ngành công nghiệp hợp pháp mang những giá trị văn hóa và giáo dục riêng, nhưng trong một số trường hợp nó ảnh hưởng tai hại đến nền đạo đức và phong cảnh thiên nhiên của nhiều quốc gia Á Châu, biểu hiện qua sự chà đạp nhân phẩm nhiều thiếu nữ và trẻ em do dịch vụ mãi dâm (13 ). Việc chăm sóc mục vụ cho người di cư cũng như cho người du lịch trở nên khó khăn và phức tạp, đặc biệt tại Châu Á, vì tại đây chưa có những cơ cấu hạ tầng cho việc này. Khi lập chương trình mục vụ ở mọi cấp, chúng ta cần cứu xét tới các thực tế trên đây. Trong bối cảnh này, chúng ta không được phép quên những người di cư từ các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, đang cần sự chăm sóc mục vụ phù hợp với các truyền thống Giáo Hội của họ (14 ).
7§4 Nhiều quốc gia Á Châu đang phải đối mặt với những khó khăn có liên quan với việc gia tăng dân số; đây "không chỉ là vấn đề dân số hay kinh tế, nhưng đặc biệt còn là một vấn đề luân lý" (15 ). Rõ ràng vấn đề dân số có liên hệ mật thiết với vấn đề thăng tiến con người, nhưng những giải pháp sai lạc đe doạ tới phẩm giá và tính bất khả xâm phạm của sự sống ngày càng xuất hiện nhiều, tạo ra một thách đố đặc biệt cho Giáo Hội tại Châu Á. Ở đây có lẽ ta nên nhắc lại sự đóng góp của Giáo Hội vào việc bảo vệ và thăng tiến sự sống thông qua các tổ chức chăm sóc sức khoẻ, phát triển xã hội và giáo dục, làm lợi cho các dân tộc, nhất là những người nghèo. Thật là xứng hợp việc Hội Nghị đặc biệt này đã tuyên dương Mẹ Têrêsa Calcutta quá cố, "người nổi tiếng trên khắp thế giới vì đã chăm sóc những người nghèo nhất với lòng yêu thương và vị tha" (16 ). Mẹ vẫn tiếp tục là biểu tượng cao cả của việc phục vụ sự sống mà Giáo Hội đang cống hiến tại Châu Á, can đảm đi ngược lại với nhiều sức mạnh đen tối đang hoạt động trong xã hội.
7§5 Một số Nghị Phụ nhấn mạnh tới những ảnh hưởng từ bên ngoài đang đè nặng trên văn hóa Á Châu. Nhiều hình thức ứng xử mới xuất hiện như một hậu quả của việc quá lệ thuộc các phương tiện truyền thông đại chúng, các loại sách báo, âm nhạc và phim ảnh đang tràn ngập lục địa. Tuy không phủ nhận các phương tiện thông tin xã hội có thể là một lực lượng đáng kể phục vụ cho điều hay cái đẹp (17 ), nhưng chúng ta không thể bỏ qua tác động tiêu cực mà các phương tiện ấy thường gây ra. Nhiều khi những hiệu quả có ích của các phương tiện ấy có thể bị lấn át, bởi có những người kiểm soát và sử dụng các phương thế ấy theo những lợi ích chính trị, kinh tế và ý thức hệ đáng nghi ngờ. Kết quả là những mặt tiêu cực của kỹ nghệ truyền thông và giải trí ấy đã làm cho các giá trị truyền thống bị đe doạ, đặc biệt là tính linh thiêng của hôn nhân và sự ổn định của gia đình. Các hình ảnh bạo lực, khoái lạc chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa thái quá và duy vật chủ nghĩa "đang đánh vào trung tâm của các nền văn hóa Á Châu, vào tính tôn giáo của người dân, vào cả gia đình và xã hội" (18). Đây là một tình huống đang đặt ra một thách thức lớn cho Giáo Hội và cho việc loan báo sứ điệp của Giáo Hội.
7§6 Tình trạng nghèo đói triền miên và nạn bóc lột con người đang là những vấn đề đáng quan ngại nhất. Tại Châu Á có hằng triệu người bị áp bức từ bao thế kỷ nay cứ phải đứng bên lề xã hội về mặt kinh tế, văn hóa và chính trị (19 ). Khi nghĩ tới tình cảnh của các phụ nữ thuộc các xã hội Á Châu, các Nghị Phụ ghi nhận rằng "dù sự ý thức của các phụ nữ về phẩm giá và quyền lợi của mình là một trong những dấu chỉ có ý nghĩa nhất của thời đại, nhưng họ vẫn phải sống nghèo nàn và bị bóc lột, đó vẫn là một vấn đề nghiêm trọng trên khắp châu lục này" (20 ). Tỷ lệ phụ nữ mù chữ cao hơn nhiều so với nam giới; các thai nhi thuộc phái nữ có nguy cơ bị giết hại nhiều hơn, ngay cả sau khi được sinh ra. Cũng còn hằng triệu người bản địa hay các bộ tộc trên khắp Châu Á phải sống cô lập về xã hội, văn hóa và chính trị đối với tập thể dân cư đang chiếm đa số (21 ). Thật là khích lệ khi được nghe các giám mục tại Thượng Hội Đồng cho biết rằng các vấn đề trên đây đang nhận được nhiều sự chú ý hơn ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế, Giáo Hội cũng đang tích cực tìm cách quan tâm tới tình hình nghiêm trọng ấy.
7§7 Các Nghị Phụ đã lưu ý rằng những suy nghĩ vắn tắt trên đây về các thực tại kinh tế và xã hội của Châu Á sẽ chưa đầy đủ, nếu người ta quên không nhận ra sự tăng trưởng kinh tế rất đáng kể của một số xã hội Á Châu trong những thập niên gần đây: một thế hệ mới gồm các người thợ lành nghề, các nhà khoa học và kỹ thuật, đang gia tăng mỗi ngày và con số đông đảo các thành phần ấy chính là điềm tốt báo hiệu sự phát triển của Châu Á. Tuy nhiên, trong sự tiến bộ ấy không phải mọi sự đều ổn định và vững chắc, như cuộc khủng hoảng tài chính có ảnh hưởng lan rộng mới đây mà nhiều nước Á Châu phải chịu đã chứng minh. Tương lai Châu Á tùy thuộc vào sự cộng tác trong nội bộ Châu Á và với các quốc gia thuộc các châu lục khác, nhưng luôn luôn phải dựa vào chính những gì người Á Châu tự làm để đạt tới mục tiêu là phát triển.
CÁC THỰC TẾ CHÍNH TRỊ
8. Giáo Hội luôn luôn cần phải có một sự hiểu biết đúng đắn về tình hình chính trị ở các quốc gia mà mình đang nỗ lực hoàn thành sứ mạng. Tại Châu Á ngày nay tình hình chính trị rất phức tạp, với đủ mọi ý thức hệ từ những hình thức chính phủ dân chủ đến những hình thức cai trị thần quyền. Các chế độ độc tài quân sự và các ý thức hệ vô thần hiện diện rất nhiều. Một số nước còn công nhận một tôn giáo chính thức cho quốc gia mình, trong khi các cộng đồng thiểu số và các tín đồ thuộc các tôn giáo khác thì chỉ được dành cho rất ít hay không có chút tự do tôn giáo nào. Một số quốc gia khác, tuy không công khai theo chế độ thần quyền, cũng đẩy các cộng đồng thiểu số xuống hàng công dân hạng hai, rất ít được bảo vệ trong các quyền căn bản của con người. Tại một số nơi các Kitô hữu không được phép thực hành đức tin một cách tự do và không được phép loan báo Đức Giêsu Kitô cho người khác (22 ). Họ bị bách hại và bị từ chối không cho được một chỗ đứng xứng hợp trong xã hội. Các Nghị Phụ đặc biệt nhớ tới dân tộc Trung Quốc và tỏ ý hy vọng mãnh liệt rằng một ngày nào đó tất cả các anh chị em Công Giáo tại Trung Quốc sẽ được phép thực hành tôn giáo của mình một cách tự do và tuyên xưng công khai sự hiệp thông trọn vẹn của mình với Tòa Thánh Phêrô (23 ).
8§2 Trong khi đánh giá cao sự tiến bộ mà nhiều quốc gia Á Châu đã đạt được dưới những hình thức cai trị khác nhau, các Nghị Phụ cũng lưu ý chúng ta về tình trạng tham nhũng phổ biến có mặt ở các cấp chính quyền và xã hội (24 ). Quá nhiều khi dân chúng cảm thấy bất lực không thể tự bảo vệ mình trước những nhà chính trị, những viên chức tòa án, các nhà hành chánh và các quan chức tham ô. Tuy nhiên, khắp nơi tại Châu Á, càng ngày người ta càng ý thức hơn rằng mình có khả năng thay đổi những cơ chế bất công ấy. Càng ngày càng có nhiều người đòi hỏi một sự công bằng xã hội lớn hơn, đòi hỏi được tham gia nhiều hơn vào chính phủ và đời sống kinh tế, được có cơ hội đồng đều trong giáo dục và được phân chia công bằng các nguồn lợi quốc gia. Càng ngày người ta càng ý thức về nhân phẩm và nhân quyền hơn, cương quyết bảo vệ chúng nhiều hơn. Những tập thể thiểu số về chủng tộc, văn hóa, và xã hội lâu nay im hơi lặng tiếng, nay đang tìm cách chủ động trong việc thăng tiến xã hội của mình. Thánh Thần Thiên Chúa luôn giúp đỡ và hỗ trợ các nỗ lực của dân chúng muốn thay đổi xã hội nhằm thoả mãn khát vọng của con người là được sống dồi dào hơn như Thiên Chúa hằng mong muốn (x. Ga 10,10).
GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á: TRONG QUÁ KHỨ VÀ TRONG HIỆN TẠI
9.Lịch sử của Giáo Hội tại Châu Á đã có từ lâu đời như chính Giáo Hội vậy, vì chính tại Châu Á Đức Giêsu đã thổi Thánh Thần xuống trên các môn đệ và sai họ ra đi tới tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng và quy tụ các cộng đoàn tín hữu. "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con" (Ga 20,21; x Mt 28,28-20; Mc 16,15-18; Lc 24,47; Cv 1,8). Theo lệnh của Chúa, các Tông Đồ đã rao giảng lời Chúa và thành lập các Giáo Hội. Ôn lại đôi điều trong lịch sử vừa phức tạp vừa hấp dẫn này có thể giúp ích cho chúng ta.
9§2 Từ Giêrusalem, Giáo Hội đã phát triển sang Antiôkia, Rôma và xa hơn nữa, tới tận Êthiôpia ở miền Nam, Scythia ở miền Bắc và Ấn Độ ở miền Đông; tại đây truyền thống cho rằng chính thánh Tôma tông đồ đã có mặt năm 52 sau Công Nguyên và đã thành lập các Giáo Hội ở miền Nam Ấn Độ. Vào các thế kỷ thư ba và thứ bốn, tinh thần truyền giáo của cộng đoàn Syria miền Đông với Edessa làm trung tâm, rất đáng được chú ý. Các cộng đoàn khổ tu ở Syria đã là một lực lượng truyền giáo đáng kể tại Châu Á từ thế kỷ thứ ba trở đi. Họ đem đến cho Giáo Hội nguồn sinh lực thiêng liêng, nhất là trong những thời kỳ bị bách hại. Vào cuối thế kỷ thứ ba, Armenia trở thành nước đầu tiên toàn dân đón nhận Kitô Giáo, và nay đang chuẩn bị mừng 1700 năm lãnh nhận phép rửa. Vào cuối thế kỷ thứ năm, sứ điệp Kitô Giáo đã lan tới các vương quốc Ả Rập, nhưng vì nhiều lý do, kể cả sự chia rẽ giữa các Kitô hữu, sứ điệp đã không đâm rễ được nơi các dân tộc này.
9§3 Các thương gia Ba Tư đã mang Tin Mừng đến Trung Quốc vào thế kỷ thứ năm. Giáo Hội Kitô Giáo đầu tiên được xây dựng tại đó vào đầu thế kỷ thứ bảy. Vào đời Đường (618 - 907 sau CN), Giáo Hội đã phát triển được gần hai thế kỷ. Sự sa sút của Giáo Hội vốn đã sinh động tại Trung Quốc vào cuối thiên niên kỷ thứ nhất là một trong những trang sử đáng buồn của Dân Chúa trên lục địa này.
9§4 Vào thế kỷ 13, Tin Mừng được loan báo cho những người Mông Cổ, người Thổ Nhĩ Kỳ và một lần nữa cho người Trung Quốc. Nhưng Kitô Giáo rất mau biến mất tại các vùng này vì nhiều lý do, trong số đó phải kể tới sự xuất hiện của Hồi Giáo, sự cô lập về địa lý, thiếu thích nghi với các nền văn hóa địa phương, và có lẽ trên hết là do thiếu chuẩn bị để gặp gỡ các tôn giáo lớn tại Châu Á. Vào cuối thế kỷ 14, Giáo Hội tại Châu Á giảm sút cách thảm hại, ngoại trừ cộng đoàn Nam Ấn Độ vì sống cô lập. Giáo Hội tại Châu Á phải chờ đợi một kỷ nguyên mới của nỗ lực truyền giáo.
9§5 Những nỗ lực tông đồ của thánh Phanxicô Xaviê, việc Đức Giáo Hoàng Gregoriô XV thành lập Bộ Truyền Bá Đức Tin, và những chỉ thị yêu cầu các nhà truyền giáo phải tôn trọng và đánh giá cao các nền văn hóa địa phương, tất cả những điều này đã góp phần tạo ra những kết quả tích cực hơn vào thế kỷ 16 và 17. Rồi sang thế kỷ 19 hoạt động truyền giáo một lần nữa lại được hồi sinh. Nhiều dòng tu dốc hết tâm lực cho công tác này. Bộ Truyền Bá Đức Tin được tổ chức lại. Người ta bắt đầu nhấn mạnh nhiều hơn tới việc xây dựng các Giáo Hội địa phương. Song song với việc rao giảng Tin Mừng, nhiều công tác từ thiện và giáo dục được tổ chức. Nhờ đó, Tin Mừng tiếp tục đến với nhiều người hơn, cách riêng là những người nghèo và những người bị thiệt thòi trong xã hội, nhưng ở một vài nơi Tin Mừng cũng đến với cả những người thuộc thành phần ưu tú về mặt xã hội và trí thức. Đã có những nỗ lực mới giúp đưa Tin Mừng hội nhập văn hóa, những nỗ lực như thế vẫn chưa đủ. Mặc dù đã hiện diện nhiều thế kỷ và đã có rất nhiều nỗ lực tông đồ, nhưng ở nhiều nơi Giáo Hội vẫn bị coi là xa lạ đối với người Á Châu, thực tế mà nói, trong tâm trí nhiều người, Giáo Hội còn bị coi là đã liên kết với các chính quyền thực dân.
9§6 Tình hình của Giáo Hội Á Châu trước Công Đồng Vaticanô II là như thế. Tuy nhiên, nhờ sức thúc đẩy của Công Đồng, người ta đã bắt đầu có một cách hiểu mới về việc truyền giáo và kèm theo đó, là một niềm hy vọng lớn lao. Tính phổ quát của chương trình cứu độ, bản chất truyền giáo của Giáo Hội và trách nhiệm của mọi người trong Giáo Hội đối với nhiệm vụ này, đã được tái khẳng định cách mạnh mẽ trong sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội Đến với lương dân (Ad Gentes), nay trở thành cái khung cho một cuộc dấn thân mới. Trong Hội Nghị đặc biệt vừa qua, các Nghị Phụ đã xác nhận gần đây có sự tăng trưởng của cộng đoàn Giáo Hội nơi các dân tộc thuộc nhiều khu vực khác nhau trên châu lục này. Các ngài cũng kêu gọi nỗ lực truyền giáo nhiều hơn nữa trong những năm sắp tới, nhất là khi chứng kiến những khả năng mới trong việc loan báo Tin Mừng tại vùng Siberia và các nước thuộc vùng Trung Á vừa giành được độc lập như Kazakh-stan, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Turkmenistan (25).
9§7 Nhìn một cách bao quát các cộng đoàn Công Giáo tại Châu Á, thật là đa dạng và huy hoàng do những nguồn gốc và quá trình phát triển lịch sử khác nhau, và do đã thừa hưởng nhiều truyền thống thiêng liêng và phụng vụ của các Nghi Lễ khác nhau. Tuy nhiên, tất cả các cộng đoàn ấy đều hợp nhất với nhau trong việc loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, qua đời sống chứng nhân Kitô giáo, qua các công tác từ thiện và tình liên đới nhân loại. Trong khi một số Giáo Hội địa phương được thi hành sứ mạng một cách bình an và tự do, thì cũng có những Giáo Hội khác phải sống trong những tình huống bạo lực và xung đột hoặc bị các tập thể khác đe doạ vì lý do tôn giáo hay vì những lý do khác. Trong một thế giới văn hóa đa dạng của Châu Á này, Giáo Hội phải đối mặt với rất nhiều thách thức về triết học, thần học và mục vụ. Nhiệm vụ của các Giáo Hội trở nên khó khăn hơn do chỉ là thiểu số, ngoại trừ Philíppin nơi người Công Giáo chiếm đa số.
9§8 Nhưng bất kể trong hoàn cảnh nào, Giáo Hội tại Châu Á cũng thấy mình đang sống giữa những con người tỏ ra rất khát khao Thiên Chúa. Giáo Hội biết rằng khát vọng ấy chỉ có thể được thoả mãn hoàn toàn bởi Đức Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa cho hết mọi dân tộc. Các Nghị Phụ đã tha thiết mong rằng Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng này sẽ tập trung chú ý tới khát vọng ấy, đồng thời sẽ cổ võ để Giáo Hội tại Châu Á mạnh mẽ công bố bằng lời nói cũng như bằng việc làm rằng Đức Giêsu Kitô chính là Vị Cứu Tinh.
9§9 Thánh Thần Thiên Chúa đã luôn hoạt động trong lịch sử Giáo Hội Á Châu, hẳn cũng sẽ tiếp tục hướng dẫn Giáo Hội ấy. Nhiều yếu tố tích cực gặp thấy nơi các Giáo Hội địa phương, mà các Nghị Phụ thường lưu ý trong Hội Nghị, càng làm chúng ta thêm hy vọng vào "một mùa xuân mới của đời sống Kitô hữu" (26 ). Một lý do vững chắc cho phép ta hy vọng như thế là càng ngày càng có nhiều giáo dân được huấn luyện tốt hơn, nhiệt tình và đầy ơn Thánh Thần, nhận thức sâu sắc hơn ơn gọi riêng của mình trong cộng đoàn Giáo Hội. Trong số đó các giáo dân giảng viên giáo lý là những người rất đáng cho chúng ta chân nhận và ca ngợi một cách đặc biệt (27 ). Các phong trào tông đồ và đặc sủng cũng là một ơn huệ do Chúa Thánh Thần ban cho, đem lại sức sống mới và nghị lực cho công việc đào tạo các giáo dân nam nữ, các gia đình và giới trẻ (28 ). Các hiệp hội và các phong trào của Giáo Hội nhằm thăng tiến nhân phẩm và công lý đã giúp làm cho mọi người có thể cảm nhận được tính phổ quát của sứ điệp Tin Mừng là ơn được nhận làm con cái Thiên Chúa (x. Rm 8,15-6).
9§a Trong khi đó, vẫn có những Giáo Hội đang sống trong những hoàn cảnh rất khó khăn, "đang trải qua những thử thách nặng nề trong việc thực hành đức tin"(29 ). Các Nghị Phụ rất xúc động khi nghe tường thuật về những chứng tá anh hùng, sự bền chí không gì lay chuyển được và sự tăng trưởng đều đặn của Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc, hay khi nghe thuật lại những nỗ lực của Giáo Hội Nam Hàn trong việc cứu trợ đồng bào Bắc Hàn, cũng như sự kiên định cách khiêm tốn của cộng đoàn Công Giáo tại Việt Nam, tình trạng cô lập của các Kitô hữu tại những nơi như Lào và Myanmar, sự sống chung khó khăn tại một số nước có đa số theo Hồi Giáo (30 ). Thượng Hội Đồng quan tâm đặc biệt tới tình hình của Giáo Hội tại Đất Thánh và tại Thành Thánh Giêrusalem, "trái tim của Kitô Giáo" (31 ), một thành phố thân yêu đối với tất cả con cháu Abraham. Các Nghị Phụ bày tỏ sự tin tưởng rằng hòa bình của khu vực, thậm chí của cả thế giới, tùy thuộc phần lớn vào hòa bình và hòa giải lâu nay vẫn chưa thấy ló dạng ở Giêrusalem (32 ).
9§b Tôi không thể kết thúc phần lược qua tình hình Giáo Hội Á Châu này, dù vẫn biết còn chưa đầy đủ, mà không nhắc tới các thánh và các vị tử đạo của Châu Á, những vị đã được công nhận cũng như những vị mà chỉ có Thiên Chúa biết; tấm gương của các vị ấy chính là nguồn đem lại "sự phong phú thiêng liêng và là phương thế rất tốt để phúc âm hóa" (33 ). Những tấm gương ấy, tuy lặng lẽ, nhưng nói lên được rất nhiều về tầm quan trọng của đời sống thánh thiện cũng như tinh thần sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình cho Tin Mừng. Các vị ấy chính là thầy dạy và là người che chở, là vinh dự của Giáo Hội Á Châu trong công cuộc phúc âm hóa. Cùng với toàn thể Giáo Hội, tôi cầu xin Chúa hãy gửi thêm nhiều hơn nữa những thợ gặt nhiệt tình đến thâu hoạch các linh hồn mà tôi nhận thấy đã rất sẵn sàng và đông vô kể (x. Mt 9,37-38). Lúc này, tôi muốn nhắc lại một câu đã viết trong Thông Điệp Sứ vụ Đấng Cứu Thế (Redemptoris Missio) "Thiên Chúa đang mở ra trước mắt Giáo Hội những chân trời của một nhân loại đã sẵn sàng đón nhận hạt giống Tin Mừng" (34). Quang cảnh một chân trời mới, đầy hứa hẹn ấy, tôi thấy đang được thực hiện tại Châu Á này, nơi Đức Giêsu đã chào đời và Kitô Giáo được khai sinh.
Chú thích:
(7) Đức Gioan-Phaolô II, "Thư đề cập đến việc hành hương tới các địa điểm có liên quan tới lịch sử cứu độ" (29.6.1999), 3 : L'Osservatore Romano (30-06 - 01-07-1999), 8.
(8) X. Đề nghị 3.
(9) Đề nghị 1.
(10) X. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, "Đề cương", 3.
(11) Như trên.
(12) X. Đề nghị 32
(13) X. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, "Tài liệu làm việc", 9.
(14) X. Đề nghị 36 và 50.
(15) X. Đề nghị 44.
(16) X. Đề nghị 27.
(17) X. Đề nghị 45.
(18) Hội Nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, "Tài liệu làm việc", 9.
(19) X. Đề nghị 39.
(20) X. Đề nghị 35.
(21) X. Đề nghị 38.
(22) X. Đề nghị 22.
(23) X. Đề nghị 52.
(24) X. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, "Đề cương", 6.
(25) X. Đề nghị 56
(26) Đức Gioan Phaolô II - Tông thư "Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba", 18 : AAS 87 (1995), 16.
(27) X. Đề nghị 29.
(28) X. Đề nghị 29 và 31.
(29) X. Đề nghị 51.
(30) X. Đề nghị 51, 52 và 53.
(31) X. Đề nghị 57.
(32) X. như trên.
(33) X. Đề nghị 54.
(34) "Diễn văn...", số 3 : AAS 83 (1991), 252.
Nguyễn Văn Hưởng
ĐỨC GIÊSU CỨU TINH:
MỘT MÓN QUÀ GỬI TẶNG CHÂU Á
Chương 2 & Chương 3 là những suy tư thần học làm nền tảng cho những đường hướng mục vụ ở các chương sau.
Đức Giêsu Kitô vừa là quà tặng Giáo Hội nhận được, vừa là món quà để chia sẻ. Giáo Hội nhận được từ tay Thiên Chúa để thông chia cho toàn thể nhân loại.
Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa làm người, Ngài đã mặc khải trọn vẹn về Chúa Cha và chương trình cứu độ của Chúa Cha cho nhân loại. Ngài còn mặc khải cho con người biết rõ phẩm giá tuyệt vời của mình. Với sứ mạng khôi phục lại sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và loài người, cũng như giữa con người và con người với nhau, Ngài đã muốn quy tụ mọi con cái Thiên Chúa thành một gia đình yêu thương. Là Đấng Cứu Độ duy nhất, Ngài đã hoàn thành chương trình cứu độ phổ quát của Chúa Cha. Ngài đã chết trên thập giá và phục sinh vinh hiển, để nhân loại được tha thứ tội lỗi và được hòa giải với Chúa Cha.
Giáo Hội nỗ lực nói với Châu Á rằng : mọi giá trị đích thực của các truyền thống, các tôn giáo và văn hóa… đều đạt tới mức sung mãn và hoàn thành nơi Đức Kitô. Cũng chính Ngài là Tin mừng cho bất cứ ai đang đi tìm ý nghĩa của cuộc đời và sự thật của con người.
MÓN QUÀ ĐỨC TIN
10. Trong khi thảo luận về các thực tế phức tạp của Châu Á, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng càng lúc càng thấy rõ sự đóng góp duy nhất của Giáo Hội đem tới cho các dân tộc châu lục này là loan báo Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật, là Vị Cứu Tinh duy nhất cho mọi dân tộc (35). Điểm khác biệt giữa Giáo Hội với các cộng đồng tôn giáo khác là niềm tin Giáo Hội đặt vào Đức Giêsu Kitô; và Giáo Hội không thể giữ ánh sáng đức tin quý giá ấy ở dưới thùng (x. Mt 5,15) vì sứ vụ của Giáo Hội là phải chia sẻ ánh sáng ấy cho mọi người. "Giáo Hội muốn cống hiến sự sống mới đã tìm được nơi Đức Giêsu Kitô cho hết mọi dân tộc ở Châu Á, khi thấy họ đang đi tìm một sự sống viên mãn, để họ cũng có thể có sự giao hảo tốt như mình đối với Chúa Cha và Con Ngài là Đức Giêsu Kitô trong quyền năng của Chúa Thánh Thần" (36). Chính niềm tin vào Đức Giêsu Kitô đã thúc đẩy Giáo Hội thi hành công cuộc phúc âm hóa tại Châu Á, một công cuộc thường phải thi hành trong những hoàn cảnh rất khó khăn, thậm chí nguy hiểm. Các Nghị Phụ ghi nhận rằng công bố Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh duy nhất có thể sẽ gây nên những khó khăn đặc biệt trong các nền văn hóa tại đây, vì nhiều tôn giáo Á Châu dạy rằng các thần linh của các tôn giáo đó đều tự tỏ hiện như là trung gian đem lại phúc cứu độ. Thế nhưng, thay vì làm nản lòng các Nghị Phụ, những thách đố đặt ra cho các nỗ lực phúc âm hóa trên đây càng thôi thúc các ngài tìm cách chuyển tải "đức tin mà Giáo Hội Á Châu đã kế thừa từ các tông đồ, cũng là đức tin mà Giáo Hội Á Châu đang kiên trung gìn giữ cùng với Giáo Hội qua mọi thời mọi nơi" (37). Thật vậy, các Nghị Phụ tin chắc rằng "trái tim của Giáo Hội Á Châu sẽ không được nghỉ ngơi bao lâu toàn bộ Châu Á chưa tìm được sự nghỉ ngơi trong bình an của Chúa Kitô phục sinh" (38).
10§2 Niềm tin của Giáo Hội vào Đức Giêsu vừa là một quà tặng Giáo Hội nhận được, vừa là món quà để chia sẻ; đó chính là món quà lớn nhất mà Giáo Hội có thể tặng cho Châu Á. Chia sẻ chân lý của Đức Giêsu Kitô cho người khác là nghĩa vụ cao cả của tất cả những ai đã nhận được ơn đức tin. Trong thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Thế (Redemptoris Missio), tôi có viết: "Giáo Hội cũng như mỗi Kitô hữu trong Giáo Hội không được cất giấu hay độc quyền chiếm giữ sự mới mẻ và giàu có này, mà họ đã nhận được từ tay Thiên Chúa nhân lành để thông chia cho toàn thể nhân loại" (39). Cũng trong thông điệp ấy, tôi viết: "Những ai đã gia nhập vào Giáo Hội Công Giáo đều cần phải coi đó là một đặc ân, nên mình càng phải có bổn phận làm chứng cho đức tin và cho đời sống Kitô hữu, đó là cách phục vụ anh chị em và cũng là cách đáp trả ý muốn của Thiên Chúa" (40).
10§3 Xác tín như thế, các Nghị Phụ lại càng ý thức trách nhiệm bản thân của mình là phải học hỏi, cầu nguyện và ngẫm suy để lãnh hội chân lý vĩnh cửu là Đức Giêsu, hầu có thể đem sức mạnh và sinh lực của chân lý ấy đối diện với những thách đố đang và sẽ đặt ra cho công cuộc phúc âm hóa tại Châu Á.
ĐỨC GIÊSU KITÔ, LÀ THIÊN-CHÚA-LÀM-NGƯỜI, ĐẤNG BAN ƠN CỨU ĐỘ.
11. Kinh Thánh đã làm chứng rằng Đức Giêsu đã sống cuộc sống thực sự của một con người. Đức Giêsu mà chúng ta loan báo là Vị Cứu Tinh duy nhất có mặt trên đời này như một Thiên Chúa làm người với đầy đủ nhân tính. Ngài giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Sinh ra bởi một Người Mẹ Đồng Trinh trong khung cảnh nghèo nàn tại Bêlem, Ngài cũng yếu đuối như mọi trẻ em khác, thậm chí còn phải sống kiếp người lánh nạn vì cơn giận của một nhà cầm quyền bạo tàn (x. Mt 2,13-15). Ngài tùng phục cha mẹ, những người không phải lúc nào cũng hiểu đường lối Ngài, nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và tuân phục các vị (x. Lc 2,41-52). Trong khi chuyên chăm cầu nguyện, Ngài luôn luôn kết hợp thân mật với Thiên Chúa mà Ngài gọi là Cha, làm cho những người nghe phải ngạc nhiên (x. Ga 8,34-59).
11§2 Ngài gần gũi với những người nghèo, những người bị bỏ rơi, những người thấp hèn, tuyên bố rằng chính họ là những người thật sự được chúc phúc vì có Thiên Chúa ở cùng. Ngài ăn uống với các người tội lỗi, bảo đảm với họ rằng trong bàn tiệc của Chúa Cha sẽ có chỗ cho họ nếu họ biết từ bỏ con đường tội lỗi mà quay về với Chúa Cha. Khi đụng chạm đến người ô uế và để họ đụng chạm đến mình, Ngài muốn cho họ hiểu rằng thế nào là được Thiên Chúa ở gần. Ngài khóc thương cho một người bạn đã chết, phục sinh một người con đã chết để trả lại cho người mẹ goá bụa, tiếp đón trẻ em, rửa chân cho các môn đệ. Chưa bao giờ con người thấy lòng thương xót của Thiên Chúa lại gần gũi với mình như thế.
11§3 Tất cả người bệnh, kẻ què, người mù, kẻ câm điếc, đều đã có dịp cảm nghiệm được Ngài chữa lành và được tha thứ khi Ngài chạm đến. Ngài chọn ra một nhóm làm bạn đồng hành và những cộng sự gần gũi nhất của mình, điều lạ thường là trong nhóm này người đánh cá ở bên người thu thuế, người theo phái nhiệt thành quá khích ở bên người thiếu hiểu biết về Lề Luật, và có cả phụ nữ nữa. Một gia đình mới đang được xây dựng trong tình yêu đáng kinh ngạc của Chúa Cha ôm ấp tất cả. Đức Giêsu giảng dạy rất đơn sơ, ưa dùng những thí dụ lấy từ cuộc sống hằng ngày để nói về tình thương của Thiên Chúa và Vương Quốc của Thiên Chúa; còn dân chúng thì nhìn nhận Ngài nói năng có uy quyền.
11§4 Tuy vậy, Ngài vẫn bị tố cáo là đã phạm thượng, đã vi phạm Luật thánh, làm hại dân chúng nên cần phải loại trừ. Sau một cuộc xét xử chỉ căn cứ trên những chứng gian (x. Mc 14,56), Ngài đã bị kết án tử hình như một tội phạm phải treo trên thập giá. Bị bỏ rơi và bị nhục mạ như thế, có vẻ như Ngài đã thất bại. Ngài được chôn cất vội vàng trong một ngôi mộ mượn tạm. Nhưng vào ngày thứ ba sau khi chết, cho dù có sự canh gác cẩn thận của binh lính, người ta đã khám phá thấy mộ trống! Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết, rồi hiện ra với các môn đệ trước khi trở về với Chúa Cha, nơi Ngài đã từ đó mà đến.
11§5 Cùng với tất cả các Kitô hữu, chúng ta tin rằng cuộc sống cá biệt này, một mặt thấy thật bình thường và đơn sơ, mặt khác lại rất lạ lùng và mầu nhiệm, đã đưa Nước Thiên Chúa vào lịch sử nhân loại và "đem sức mạnh của Nước ấy vào mọi khía cạnh của đời sống con người và xã hội, vốn bị vây bọc bởi tội lỗi và sự chết" (41). Bằng lời nói và việc làm của mình, nhất là bằng đau khổ, cái chết và sự sống lại, Đức Giêsu đã thi hành ý muốn của Cha Ngài là hòa giải toàn thể nhân loại với Chúa Cha, sau khi quan hệ giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo bị tội nguyên tổ cắt đứt. Trên thập giá, Ngài đã mang lấy tội lỗi của thế giới trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Thánh Phaolô nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta đã chết do tội mình, nhưng đã được tái sinh nhờ cái chết của Ngài: "Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta. Người đã xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra để chống lại chúng ta. Người đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá" (Cl 2,13-14). Bằng cách này, ơn cứu độ đã được thực hiện một lần dứt khoát. Đức Giêsu là vị Cứu Tinh của chúng ta theo nghĩa đầy đủ nhất của chữ này, vì lời nói và việc làm, nhất là sự phục sinh của Ngài từ cõi chết, đã mặc khải cho chúng ta thấy Ngài đúng là Con Thiên Chúa, Ngôi Lời tiền hữu, Đấng hiển trị muôn đời trong tư cách là Đức Chúa và là Đấng Mêsia.
CON NGƯỜI VÀ SỨ MẠNG CỦA CON THIÊN CHÚA.
12. Điều mà Kitô Giáo gây "vấp phạm" là tin rằng Thiên Chúa chí thánh, toàn năng và toàn tri đã mang lấy bản tính con người của chúng ta, đã chịu khổ hình và chịu chết để đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người (x.1Cr 1,23). Đức tin mà chúng ta đã thừa hưởng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô đã mặc khải và đã hoàn thành chương trình cứu độ thế giới và toàn thể nhân loại của Chúa Cha, căn cứ vào "Ngài là ai" và Ngài làm gì căn cứ vào Ngài là ai". Ngài là ai và Ngài làm gì, điều đó chỉ có ý nghĩa trọn vẹn khi được đặt vào trong mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi. Mối bận tâm liên lỉ trong đời Giáo Hoàng của tôi là làm sao nhắc các tín hữu nhớ tới sự hiệp thông đời sống của Ba Ngôi chí thánh và sự hiệp thông của Ba Ngôi trong chương trình sáng tạo và cứu chuộc. Các thông điệp của tôi như: Đấng Cứu Chuộc loài người (Redemptor Hominis), Thiên Chúa giàu lòng thương xót (Dives in misericordia), Thánh Thần là Chúa và là Đấng tác sinh (Dominum et Vivificantem) đều là những suy tư lần lượt về Chúa Con, Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, và về vai trò riêng biệt của mỗi Ngôi ấy trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta không được phép cô lập hay tách rời Ngôi vị này với các Ngôi vị kia, bởi vì mỗi Ngôi vị chỉ được mặc khải trong mối hiệp thông về sự sống và hoạt động của Ba Ngôi. Hoạt động cứu độ của Đức Giêsu bắt nguồn từ sự hiệp thông của Thiên Chúa, đồng thời mở đường cho tất cả những ai tin vào Ngài thì được hiệp thông thân mật với Ba Ngôi cũng như với mỗi một vị trong Ba Ngôi.
12§2 Đức Giêsu từng tuyên bố: "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14,9). Chỉ trong Đức Giêsu Kitô ta mới thấy sự viên mãn của Thiên Chúa hiện diện trong thể xác (x. Cl 2,9), đặt Ngài làm Lời Cứu Độ duy nhất và tuyệt đối của Thiên Chúa (x. Dt 1,1-4). Vì là Lời trọn vẹn của Chúa Cha, nên Đức Giêsu đã cho chúng ta biết Thiên Chúa và ý muốn cứu độ của Ngài một cách đầy đủ nhất. Ngài đã từng nói: "Không ai đến với Cha mà không qua Thầy" (Ga14,6). Ngài là "đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6), vì như Ngài nói, "Chúa Cha đang ở trong Thầy, chính Người làm công việc của mình" (Ga 14,10). Chỉ trong con người Đức Giêsu lời cứu độ của Thiên Chúa mới tỏ hiện hoàn toàn đầy đủ, lời đó mở ra thời sau hết (x. Dt 1,1-2). Vì thế, trong buổi sơ khai của Giáo Hội, Thánh Phêrô dám tuyên bố: Ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ" (Cv 4: 12)
12§3 Sứ mạng của Chúa Cứu Thế đạt tới cao điểm trong mầu nhiệm Vượt Qua. Trên thập giá, khi "giang tay ra giữa trời và đất như một dấu hiệu vĩnh cửu của Giao Ước (của Chúa Cha)" (42), Đức Giêsu đã thốt lên lời cuối cùng cầu xin Chúa Cha tha tội cho nhân loại: "Lạy Cha, xin tha cho họ; vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34). Đức Giêsu đã tiêu diệt tội lỗi bằng chính sức mạnh tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha và đối với toàn thể nhân loại. Ngài đã mang vào mình những thương tích mà tội lỗi đã gây ra cho nhân loại, và đã ban ơn giải thoát thông qua sự hoán cải. Kết quả đầu tiên của việc này được thấy rõ qua người trộm sám hối bị treo trên một thập giá khác bên cạnh Ngài (x. Lc 23,43). Lời cuối cùng của Ngài chính là tiếng kêu lên của một người con trung thành: "Lạy Cha, con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46). Qua câu nói diễn tả tình yêu tuyệt vời ấy, Ngài đã trao phó tất cả cuộc đời và sứ mạng của mình vào tay Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài đến. Như thế là Ngài đã giao lại cho Chúa Cha toàn thể thụ tạo và nhân loại để Chúa Cha đón nhận lấy trong lòng từ bi nhân ái.
12§4 Chúa Cha đã chấp nhận tất cả những gì Chúa Con đã làm và cả con người của Ngài. Sau đó, Chúa Cha đã tặng lại món quà này cho thế giới, bằng cách phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết và đặt Ngài ngự bên hữu, nơi mà tội lỗi và sự chết không còn quyền hành gì nữa. Thông qua hy tế Vượt Qua của Đức Giêsu, Chúa Cha đã ban cho thế giới ơn hòa giải cùng với ơn sống sung mãn, và không bao giờ lấy lại nữa. Ân huệ cao vời này chỉ đến được với chúng ta qua Người Con chí ái của Ngài, Đấng duy nhất có khả năng đáp lại tình thương của Chúa Cha một cách trọn vẹn, một tình thương đã bị tội lỗi khước từ. Trong Đức Giêsu Kitô, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta mới biết được Thiên Chúa không ở xa chúng ta, không ở trên và cách biệt với con người, nhưng Ngài ở rất gần, thậm chí kết hợp với mỗi người và mọi người trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Đây là sứ điệp mà Kitô Giáo muốn gởi tới cho thế giới, và sứ điệp đó cũng là nguồn an ủi và hy vọng tuyệt vời cho mọi tín hữu.
ĐỨC GIÊSU KITÔ: SỰ THẬT VỀ CON NGƯỜI
13. Làm sao nhân tính của Đức Giêsu và mầu nhiệm khôn tả Con Thiên Chúa nhập thể có thể chiếu ánh sáng cho ta hiểu được thân phận con người? Con Thiên Chúa nhập thể không chỉ mặc khải trọn vẹn về Chúa Cha và chương trình cứu độ của Chúa Cha; Ngài còn "cho con người biết rõ về chính bản thân mình" (43). Lời nói cũng như việc làm của Ngài, nhất là cái chết và sự sống lại của Ngài, đã cho ta hiểu một cách sâu xa thế nào là thân phận làm người. Chỉ qua Đức Giêsu, con người mới có thể biết được sự thật về chính mình. Cuộc sống nhân loại trọn vẹn của Đức Giêsu, dành tất cả cho việc yêu mến và phục vụ Chúa Cha cũng như loài người, đã cho chúng ta thấy ơn gọi của mỗi người là đón nhận tình yêu và đáp lại bằng chính tình yêu của mình. Trong Đức Giêsu chúng ta ngỡ ngàng khi thấy con tim nhân loại có khả năng vô hạn để yêu Chúa và yêu người, ngay cả khi phải đau khổ nhiều. Nhưng đáng kể hơn hết là chính trên thập giá, Đức Giêsu đã đập tan quyền lực chống đối tình yêu, một sự chống đối làm hại chính con người, mà tội lỗi đã gây ra cho chúng ta. Về phần Ngài, Chúa Cha đã đáp lại bằng cách cho Đức Giêsu sống lại làm trưởng tử của tất cả những ai đã được Thiên Chúa tiền định cho trở nên giống hình ảnh Con Ngài (x. Rm 8,29). Chính vào lúc đó, một lần thay cho tất cả, Đức Giêsu đã trở nên sự mặc khải cũng như hoàn tất công trình tái tạo và đổi mới nhân loại theo chương trình của Thiên Chúa. Lúc ấy, trong Đức Giêsu, chúng ta mới khám phá ra sự cao cả và phẩm giá của mỗi người chúng ta tuyệt vời tới mức nào trong trái tim của Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài (x. St 1,26); và chúng ta cũng tìm thấy đó là nguồn gốc sinh ra thọ tạo mới, mà chúng ta đã trở thành nhờ ơn Ngài.
13§2 Công Đồng Vaticanô II dạy rằng "nhờ sự Nhập Thể, Con Thiên Chúa đã kết hiệp một cách nào đó với mỗi con người" (44). Trong chân lý cao sâu ấy, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã thấy được nguồn mạch cuối cùng đem lại niềm hy vọng và sức mạnh cho các dân tộc Á Châu giữa bao chiến đấu và bất trắc của cuộc sống. Khi con người biết đáp lại bằng lòng tin sống động vào quà tặng tình yêu của Thiên Chúa, thì sự hiện diện của Ngài mang lại yêu thương và bình an, biến đổi tâm hồn con người từ bên trong. Trong thông điệp Đấng Cứu Chuộc loài người (Redemptor Hominis), tôi có viết "Xét tận gốc rễ sâu xa nhất thì sự cứu chuộc thế giới - tức là mầu nhiệm cao cả của tình yêu trong đó thụ tạo được đổi mới - là sự công chính sung mãn trong một trái tim nhân loại, trái tim Trưởng Tử của Thiên Chúa, để rồi sự công chính ấy có thể trở thành sự công chính trong trái tim nhiều người, đã được tiền định từ đời đời trong Trưởng Tử của Thiên Chúa hầu trở thành con cái Thiên Chúa, và được mời gọi tới hưởng ân sủng, được mời gọi sống tình yêu" (45 ).
13§3 Như thế, sứ mạng của Đức Giêsu không những khôi phục lại sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và loài người; mà còn thiết lập một mối hiệp thông mới giữa con người với con người đã vì tội lỗi mà trở nên xa lạ với nhau. Vượt lên trên mọi chia rẽ, Đức Giêsu làm cho mọi người có thể sống với nhau như anh chị em khi cùng nhìn nhận một người Cha duy nhất ở trên trời (x. Mt 23,9). Nơi Ngài một sự hòa hợp mới đã xuất hiện, trong đó "Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô. " (Gl 3,28). Đức Giêsu là sự bình an của chúng ta, "Đấng đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại thành một, Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét" (Ep 2,14). Qua tất cả lời nói và việc làm, Đức Giêsu chính là tiếng nói, là bàn tay và là cánh tay của Chúa Cha, quy tụ tất cả mọi con cái Thiên Chúa thành một gia đình yêu thương. Ngài đã cầu xin cho các môn đệ sống hiệp thông với nhau, như Ngài đã luôn sống hiệp thông với Cha (x. Ga 17,11). Trong số những lời cuối cùng của Ngài, ta nghe thấy: "Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy; anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy… Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15,9.12). Đức Giêsu được Thiên Chúa của sự hiệp thông sai đến, Ngài là Thiên Chúa thật và và là người thật, nên đã thiết lập sự hiệp thông giữa trời và đất nơi chính bản thân mình. Chúng ta tin rằng "Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Ngài cũng như muốn nhờ Ngài mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời" (Cl 1,19-20). Chúng ta có thể tìm thấy sự cứu độ nơi bản thân Con Thiên Chúa đã làm người và nơi sứ mạng đã được giao cho một mình Ngài với tư cách là Con, một sứ mạng phục vụ và yêu thương để cho mọi người được sống. Cùng với Giáo Hội trên khắp thế giới, Giáo Hội tại Châu Á cũng tuyên xưng chân lý đức tin sau đây: "Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, đó là một con người, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người" (1Tm 2,5-6).
TÍNH DUY NHẤT VÀ PHỔ QUÁT CỦA SỰ CỨU ĐỘ TRONG ĐỨC GIÊSU
14. Các Nghị Phụ nhắc lại rằng Ngôi Lời tiền hữu hay Con Thiên Chúa được sinh ra từ đời đời "đã hiện diện nơi thụ tạo, trong lịch sử và trong mọi con người khát vọng sự thiện"(46). Nhờ Ngôi Lời, đã có mặt trong vũ trụ cả trước khi nhập thể, mà thế giới được hiện hữu (x. Ga 1,1-4.10; Cl 1,15-20). Thế nhưng, Ngôi Lời nhập thể đã sống, đã chết và chỗi dậy từ cõi chết, nên Đức Giêsu Kitô được công bố là sự hoàn thành của tất cả thọ tạo, của tất cả lịch sử, và tất cả niềm khao khát sống sung mãn của con người (47). Sau khi sống lại từ cõi chết, Đức Giêsu Kitô đang "hiện diện với mọi người và toàn thể thọ tạo một cách mới mẻ và mầu nhiệm" (48). Nơi Ngài, "các giá trị đích thực của mọi truyền thống tôn giáo và văn hóa như từ bi và tuân phục thiên ý, nhân từ và ngay thẳng, bất bạo động và liêm khiết, thảo hiếu và hòa hợp với thọ tạo đều đạt tới mức sung mãn và hoàn thành"(49). Từ giây phút đầu tiên của thời gian cho tới khi kết thúc, Đức Giêsu vẫn là Vị Trung Gian duy nhất và phổ quát. Ngay cả đối với những người không minh nhiên tuyên xưng niềm tin vào Ngài như là Vị Cứu Tinh, thì ơn cứu độ vẫn đến từ Đức Giêsu Kitô như một hồng ân qua sự thông ban Chúa Thánh Thần.
14§2 Chúng ta tin rằng Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa thật và là người thật, chính là Vị Cứu Tinh duy nhất, vì chỉ có mình Ngài là Chúa Con mới hoàn tất chương trình cứu độ phổ quát của Chúa Cha. Là biểu hiện cuối cùng của mầu nhiệm tình yêu Chúa Cha dành cho hết mọi người, quả thật, Đức Giêsu là Đấng duy nhất, và "chính sự duy nhất của Đức Kitô làm cho Ngài có một ý nghĩa tuyệt đối và phổ quát, nhờ đó, tuy vẫn thuộc về lịch sử nhưng Ngài đã trở thành trung tâm và cùng đích của lịch sử" (50).
14§3 Không cá nhân nào, không dân tộc nào, không văn hóa nào lại không thể tiếp nhận được tiếng gọi của Đức Giêsu phát ra từ chính trung tâm của thân phận con người. "Ngài đang nói với chúng ta từ chính cuộc sống của Ngài, từ bản tính nhân loại của Ngài, từ lòng trung thành của Ngài đối với sự thật, và từ tình yêu của Ngài đối với tất cả. Hơn nữa, Ngài còn nói với chúng ta từ chính cái chết của Ngài trên thập giá, tức là từ chính sự đau khổ và cô đơn vô cùng sâu xa của Ngài" (51). Khi chiêm ngắm Đức Giêsu trong bản tính nhân loại của Ngài, các dân tộc Á Châu sẽ tìm được câu trả lời cho những vấn nạn sâu xa nhất của mình, sẽ thấy những niềm hy vọng của mình được thực hiện, sẽ thấy phẩm giá mình được nâng cao và nỗi thất vọng bị chế ngự. Đức Giêsu là Tin Mừng cho mọi người ở mọi thời mọi nơi đang đi tìm ý nghĩa của cuộc đời và sự thật của con người.
Chú thích:
(35) X. Đề nghị 5.
(36) Hội Nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, "Tường trình trước khi thảo luận" : L'Osservatore Romano (22.4.1998), 5.
(37) Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, "Tường trình sau khi thảo luận", 3.
(38) X. Đề nghị 8.
(39) Số 11 : AAS 83 (1991), 260.
(40) X. như trên
(41) Hội Nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, "Tường trình sau khi thảo luận", 3.
(42) Sách lễ Rôma : Kinh Nguyện Thánh Thể 1 cho các thánh lễ Hòa Giải.
(43) Đức Gioan-Phaolô II, tông thư "Đấng Cứu Chuộc loài người" (4.3.1979), 10 : AAS 71 (1979), 274.
(44) Hiến chế mục vụ "Vui Mừng và Hy vọng", 22.
(45) "Diễn văn..." số 9 : AAS 71 (1979), 272t.
(46) Hội Nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, "Tường trình sau khi thảo luận", 3.
(47) X. như trên
(48) X. như trên
(49) X. Đề nghị 5.
(50) Đức Gioan Phaolô II, Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế" (7.12.1990), 6 : AAS 83 (1991), 255.
(51) Đức Gioan Phaolô II, Tông thư "Đấng Cứu Chuộc loài người" (4.3.1979), 7 : AAS 71 (1979), 269.
Nguyễn Văn Hưởng
CHƯƠNG BA
CHÚA THÁNH THẦN LÀ ĐỨC CHÚA
VÀ LÀ ĐẤNG BAN SỰ SỐNG
Chúa Thánh Thần đã tác động ngay từ khi tạo dựng, Ngài liên tục hoạt động trong lịch sử trên phạm vi thế giới và vũ trụ. Ngài mặc khải chương trình của Chúa Cha trong Cựu ước. Ngài có vai trò quan trọng ngay từ giây phút đầu tiên của Ngôi Lời nhập thể, và luôn can thiệp vào cuộc đời và sứ mạng của Đức Giêsu.
Ngài cũng hoạt động như thế trong thân thể của Đức Kitô là Hội Thánh, để Hội Thánh hiểu biết sự thật về Đức Kitô, hầu trở nên một cộng đoàn chứng nhân và truyền giáo.
Nhưng Chúa Thánh Thần không hoạt động riêng biệt. Mọi việc Ngài làm đều nhắm thúc đẩy Hội Thánh cộng tác vào việc hoàn thành chương trình của Chúa Cha và hoàn tất công chuộc cứu độ của Đức Kitô trên trần gian.
Tại Châu Á, Chúa Thánh Thần đã hoạt động từ thời các tổ phụ và liên tiếp cho đến ngày nay, để củng cố việc làm chứng đức tin. Ngài tạo ra các cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Chúa Cứu Thế và các Dân tộc để gíup họ nhận ra Thiên Chúa chân thật và Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế được Ngài sai đến.
Giáo Hội Á Châu cầu xin Chúa Thánh Thần đến, và sẵn sàng hoạt động theo sự soi sáng và thúc đẩy của Ngài.
THÁNH THẦN THIÊN CHÚA TRONG VIỆC SÁNG TẠO VÀ TRONG LỊCH SỬ
15. Nếu đúng là ý nghĩa cứu độ của Đức Giêsu chỉ có thể hiểu được trong bối cảnh chương trình cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi mà Đức Giêsu đã mặc khải, thì Chúa Thánh Thần phải có một vai trò tuyệt đối quan trọng trong mầu nhiệm Đức Giêsu và trong công cuộc cứu độ do Ngài mang đến. Các Nghị Phụ thường đề cập tới chức năng của Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu độ, và lưu ý rằng tách rời Đấng Cứu Chuộc và Thánh Thần một cách sai lạc sẽ làm tổn hại tới chân lý Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh duy nhất của hết mọi người.
15§2 Truyền thống Kitô Giáo thường liên kết Chúa Thánh Thần với sự sống và với việc ban sự sống. Kinh Tin Kính của Công Đồng Nicêa-Constantinopoli gọi Chúa Thánh Thần là "Đức Chúa và là Đấng ban sự sống" . Bởi thế, không có gì lạ khi nhiều chú giải về công trình sáng tạo được trình thuật trong sách Sáng Thế đã nhìn thấy Chúa Thánh Thần trong cơn gió mạnh thổi qua trên mặt nước (x. St 1,2). Chúa Thánh Thần đã có mặt từ giây phút đầu tiên của công trình sáng tạo và là biểu hiện đầu tiên của tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, và Ngài luôn có mặt trên thế giới này như thần lực ban sự sống (52). Vì sáng tạo vũ trụ là khởi đầu của lịch sử, nên có thể nói Chúa Thánh Thần là quyền năng tiềm ẩn đang hoạt động trong lịch sử, hướng dẫn lịch sử trên con đường dẫn đến chân lý và thiện hảo.
15§3 Việc mặc khải Chúa Thánh Thần là một ngôi vị, là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, là điều đặc biệt của Tân Ước. Trong suy tư Kitô Giáo, Ngài được coi là nguồn sống của mọi thụ tạo. Khi sáng tạo vũ trụ thì Thiên Chúa đã tự do thông ban tình yêu của Ngài, một sự thông ban đã đưa mọi sự từ hư vô sang hiện hữu. Không có gì được tạo thành mà không chứa chan sự trao đổi bất tận của tình yêu, đặc điểm của cuộc sống sâu xa của Ba Ngôi, bởi lẽ tất cả thọ tạo được chứa chan Thánh Thần: "Thánh Thần Thiên Chúa chan hòa khắp mặt đất" (Kn 1,7). Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc sáng tạo đã tạo ra trật tự, hài hòa và phụ thuộc lẫn nhau giữa tất cả mọi hữu thể.
15§4 Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người trở nên nơi cư ngụ của Chúa Thánh Thần trong một một phương cách mới khi con người được nâng lên làm nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Gl 4,5). Được tái sinh trong phép Rửa, con người cảm nghiệm được sự hiện diện và quyền năng của Chúa Thánh Thần, Ngài không phải chỉ là Tác giả của Sự Sống mà còn là Đấng thanh tẩy và cứu thoát, làm phát sinh những hoa trái "yêu thương, vui tươi, bình an, kiên nhẫn, tử tế, tốt lành, tin cậy nhau, dịu dàng và tiết độ" (Gl 5,22-23). Những hoa trái ấy của Chúa Thánh Thần là dấu chỉ "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần, mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5). Khi đã tự nguyện đón nhận tình yêu này, con người sẽ được tình yêu biến đổi thành dụng cụ hữu hình của Chúa Thánh Thần vô hình luôn luôn tác động. Nhất là khả năng mới để trao ban và đón nhận tình yêu, điều này chứng tỏ Chúa Thánh Thần đang hiện diện và hoạt động trong nội tâm. Một khi tâm trí con người được Thánh Thần biến đổi và tái tạo thì xã hội và văn hóa loài người sẽ chịu ảnh hưởng của Ngài (53). Quả thật, Thánh Thần là nguồn mạch các lý tưởng và việc làm cao đẹp, đem phúc lợi cho nhân loại trong cuộc hành trình qua lịch sử. "Thánh Thần Thiên Chúa trong sự quan phòng tuyệt vời đang điều khiển dòng lịch sử của thời đại và canh tân bộ mặt trái đất" (54)
15§5 Theo hướng dẫn của Công Đồng Vaticanô II, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã tập trung chú ý tới các hoạt động vừa nhiều và đa dạng của Chúa Thánh Thần, Đấng vẫn tiếp tục gieo các hạt giống chân lý vào các dân tộc, tôn giáo, văn hóa và tư tưởng của họ (55).Nói thế có nghĩa là những tôn giáo, văn hóa và tư tưởng ấy có thể giúp con người, cá nhân và tập thể, hoạt động chống lại sự dữ và phục vụ sự sống cũng như tất cả những gì tốt đẹp. Quyền lực của tử thần cô lập con người, xã hội và các cộng đồng tôn giáo, gieo rắc nghi ngờ và cạnh tranh, đưa người ta tới chỗ xung đột lẫn nhau. Ngược lại, Thánh Thần thì luôn nâng đỡ người ta trong việc tìm hiểu biết và đón nhận nhau. Vì thế, Thượng Hội Đồng đã có lý khi nhìn nhận Thánh Thần Thiên Chúa là tác nhân chủ yếu của việc đối thoại giữa Giáo Hội với mọi dân tộc, mọi nền văn hóa và mọi tôn giáo.
CHÚA THÁNH THẦN VÀ SỰ NHẬP THỂ CỦA NGÔI LỜI
16. Dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, lịch sử cứu độ đã diễn tiến trên phạm vi thế giới, và ngay cả trong phạm vi vũ trụ, theo như chương trình của Chúa Cha từ đời đời. Chương trình này đã được Thánh Thần khởi sự ngay từ khi tạo dựng vũ trụ, được Ngài mặc khải trong Cựu Ước, được Ngài hoàn thành nhờ ân sủng của Đức Giêsu Kitô, và cũng được chính Ngài tiếp tục trong cuộc tạo dựng mới cho tới khi Chúa trở lại trong vinh quang lúc thời gian kết thúc (56) Việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa được coi là công trình cao cả nhất của Chúa Thánh Thần: "Thật vậy, Đức Giêsu Kitô được thụ thai và sinh ra, đó chính là công trình vĩ đại nhất Chúa Thánh Thần đã hoàn thành trong lịch sử sáng tạo và cứu chuộc: ân huệ cao cả nhất chính là ơn hiệp nhất, nguồn mạch sinh ra mọi ơn khác" (57). Nhập Thể là biến cố trong đó Thiên Chúa kết hợp, một cách vừa mới mẻ vừa dứt khoát, không chỉ với con người mà còn với toàn thể thụ tạo và toàn thể lịch sử (58).
16§2 Vì được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,35; Mt 1,20), Đức Giêsu Nazaréth, là Đấng Mêsia và là Đấng Cứu Tinh duy nhất, đã được đầy Thánh Thần. Thánh Thần ngự xuống trên Ngài khi Ngài chịu phép rửa (x. Mc 1,10), rồi dẫn Ngài vào hoang địa để được thêm sức mạnh trước khi hoạt động công khai (x.Mc 1,12 ; Lc 4,1; Mt 4,1). Tại hội đường Nazaréth, Ngài bắt đầu sứ vụ ngôn sứ của mình bằng cách áp dụng cho mình thị kiến mà Isaia đã thấy trước về việc Ngài được xức dầu bằng Thánh Thần để ra đi rao giảng tin mừng cho người nghèo, đem lại tự do cho người bị giam cầm và công bố thời hồng ân của Chúa (x. Lc 4,18-19). Dựa vào quyền năng của Thánh Thần, Đức Giêsu chữa trị người bệnh và xua trừ ma quỷ, lấy đó làm dấu chỉ báo hiệu Nước Thiên Chúa đã đến (x. Mt 12,28). Sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài thông cho các môn đệ Chúa Thánh Thần mà Ngài đã hứa ban cho Giáo Hội khi về với Chúa Cha (x. Ga 20,22-23).
16§3 Tất cả những điều này cho thấy sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu đã mang dấu ấn không thể lầm lẫn về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần: đó là dấu ấn của sự sống, sự sống mới. Chúa Con được Chúa Cha sai tới và Thánh Thần được Chúa Cha và Chúa Con sai tới, hai việc này có liên hệ mật thiết và sinh động với nhau(59) Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong công việc sáng tạo và trong lịch sử loài người đạt tới một ý nghĩa mới mẻ hẳn khi Ngài can thiệp vào cuộc đời và sứ mạng của Đức Giêsu. "Những hạt giống của Ngôi Lời" mà Chúa Thánh Thần đã gieo vãi đều chuẩn bị cho muôn loài thụ tạo, lịch sử và con người đạt tới mức viên mãn trong Đức Kitô (60)
16§4 Các Nghị Phụ tỏ ra rất quan ngại về khuynh hướng muốn tách biệt hoạt động của Chúa Thánh Thần với hoạt động của Chúa Giêsu - Đấng Cứu Thế. Để giải đáp cho quan ngại ấy, tôi xin lặp lại những gì tôi đã viết trong thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Thế (Redemptoris Missio) :"(Thánh Thần)… không phải là Đấng thay thế Đức Kitô, Ngài cũng không lấp đầy chỗ trống như đôi khi có giả thuyết cho rằng đã có giữa Đức Kitô và Ngôi Lời. Bất cứ điều gì Thánh Thần làm được trong tâm hồn con người, trong lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hóa và trong các tôn giáo, đều là một sự chuẩn bị cho Tin Mừng và chỉ có thể hiểu được khi quy chiếu về Đức Kitô, Đấng là Ngôi Lời đã làm người nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, "để Ngài, với tư cách là một con người trọn vẹn, cứu độ hết mọi người và thâu tóm tất cả mọi sự trong Ngài" (61).
16§5 Bởi đó, không thể lấy lý do vì Chúa Thánh Thần đã hiện diện khắp nơi mà bào chữa cho việc không công bố một cách minh thị rằng Đức Giêsu Kitô là vị Cứu Tinh duy nhất. Trái lại, sự hiện diện khắp nơi của Chúa Thánh Thần không thể tách lìa với sự cứu độ phổ quát trong Đức Giêsu. Chúa Thánh Thần có mặt trong công trình sáng tạo và trong lịch sử là để đưa ta hướng về Đức Giêsu Kitô, vì nơi Ngài công trình sáng tạo và lịch sử được cứu chuộc và hoàn thành. Sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần ngay trước khi Đức Giêsu Kitô nhập thể cũng như vào giây phút cao điểm của lễ Ngũ Tuần đều hướng ta về Đức Giêsu và ơn cứu độ do Ngài mang đến. Chính vì thế không bao giờ được tách rời sự hiện diện phổ quát của Chúa Thánh Thần với hoạt động của Ngài trong Thân Thể Đức Kitô là Hội Thánh (62).
CHÚA THÁNH THẦN VÀ THÂN THỂ ĐỨC KITÔ
17. Chúa Thánh Thần luôn giữ gìn mối hiệp thông giữa Đức Giêsu và Giáo Hội của Ngài. Vì Chúa Thánh Thần cư ngụ trong Giáo Hội như trong đền thờ (x.1Cr 3,16), nên trước hết Ngài hướng dẫn Giáo Hội hiểu biết trọn vẹn sự thật về Đức Giêsu. Rồi, cũng chính Thánh Thần làm cho Giáo Hội có khả năng tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu, tiên vàn bằng việc minh chứng về chính Đức Giêsu, và như thế, là thực hiện lời Ngài đã hứa trước khi chết và sống lại, đó là sai Thánh Thần đến với các môn đệ để giúp họ làm chứng về Ngài (x. Ga 15,26-27). Công trình của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội còn là để chứng tỏ rằng các tín hữu được Thiên Chúa nhận làm dưỡng tử để thừa hưởng ơn cứu độ, tức là được hiệp thông trọn vẹn với Chúa Cha như đã hứa (x. Rm 8,15-17). Khi ban cho Giáo Hội những đoàn sủng và ân huệ khác nhau, Chúa Thánh Thần giúp Giáo Hội càng ngày càng lớn lên trong sự hiệp thông như một thân thể do nhiều bộ phận khác nhau làm nên (x.1Cr 12,4; Ep 4,11-16). Chúa Thánh Thần quy tụ mọi dân tộc với những phong tục tập quán khác nhau, những tiềm lực và tài năng khác nhau, làm cho Giáo Hội trở nên dấu chỉ của sự hiệp thông toàn thể nhân loại dưới quyền thủ lãnh của Đức Kitô (63). Chúa Thánh Thần uốn đúc Giáo Hội thành một cộng đoàn gồm các chứng nhân để nhờ quyền năng của Ngài làm chứng cho Đức Giêsu Cứu Tinh (x. Cv 1,8). Trong ý nghĩa đó, Chúa Thánh Thần là tác nhân chủ yếu của công cuộc phúc âm hóa. Từ đó, các Nghị Phụ kết luận: sứ mạng trần gian của Chúa Giêsu được hoàn thành nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, "thì cũng một Thánh Thần ấy được Chúa Cha và Chúa Con ban cho Giáo Hội trong ngày lễ Ngũ Tuần để hoàn thành sứ mạng yêu thương và phục vụ của Đức Giêsu tại Châu Á này" (64).
17§2 Chương trình cứu độ của Chúa Cha không kết thúc với cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Khi Thánh Thần của Đức Kitô được ban cho Giáo Hội, thì hoa trái sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu cũng được ban qua Giáo Hội cho mọi dân tộc thuộc mọi thời đại nhờ việc loan báo Tin Mừng và yêu thương phục vụ gia đình nhân loại. Như công đồng Vaticanô II đã nhận xét, "Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội cộng tác vào việc hoàn thành trọn vẹn chương trình của Thiên Chúa, Đấng đã đặt Đức Kitô làm nguồn ơn cứu độ cho toàn thế giới" (65). Được Chúa Thánh Thần tăng sức để hoàn tất công cuộc cứu độ của Đức Kitô trên trần gian, Giáo Hội chính là hạt giống của Nước Thiên Chúa, luôn náo nức mong cho Nước ấy đến lần sau hết. Căn tính và sứ mạng của Giáo Hội không thể tách rời với Nước Thiên Chúa đã được Đức Giêsu loan báo và khai mở qua tất cả những lời Ngài nói và những việc Ngài làm, nhất là qua cái chết và sự sống lại của Ngài. Thánh Thần nhắc nhở Giáo Hội rằng Giáo Hội không phải là cùng đích của chính mình; dù Giáo Hội có là gì và có làm gì đi nữa, thì Giáo Hội hiện hữu là để phục vụ Đức Kitô và công cuộc cứu độ trần gian. Trong nhiệm cục cứu độ hiện tại, tất cả những gì Chúa Thánh Thần làm trong công cuộc tạo dựng, trong lịch sử và trong Giáo Hội đều là một phần trong kế hoạch duy nhất và đời đời của Thiên Chúa Ba Ngôi trên mọi loài thụ tạo.
CHÚA THÁNH THẦN VÀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á
18. Chúa Thánh Thần đã hoạt động tại Châu Á vào thời các tổ phụ và các ngôn sứ, rồi còn hoạt động mạnh hơn nữa trong thời Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh sơ khai, nay vẫn đang hoạt động nơi các Kitô hữu Á Châu để củng cố chứng tá đức tin của họ giữa các dân tộc, giữa các nền văn hóa và các tôn giáo của lục địa. Cũng như cuộc đối thoại tình yêu cao cả giữa Thiên Chúa và con người đã được Chúa Thánh Thần chuẩn bị và được hoàn thành trên miền đất Á Châu này trong mầu nhiệm Đức Kitô, thì cuộc đối thoại hiện nay giữa Chúa Cứu Thế và các dân tộc của châu lục này cũng vẫn tiếp tục nhờ quyền năng của cùng một Thánh Thần đang hoat động trong Giáo Hội. Trong tiến trình này, các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân đều có vai trò quan trọng, như lời Đức Giêsu đã phán, vừa như một lời hứa vừa như một mệnh lệnh: "Anh em sẽ nhận được sức mạnh khi Thánh Thần đến với anh em; anh em sẽ là nhân chứng của Thầy tại Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđê và Samari, cho tới tận cùng trái đất" (Cv 1,8).
18§2 Giáo Hội tin chắc rằng ẩn sâu trong các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo của Châu Á này luôn có một sự khao khát "nước hằng sống" (x. Ga 4,10-15), một sự khao khát do chính Chúa Thánh Thần khơi dậy và chỉ mình Đức Giêsu Cứu Thế mới có thể thoả mãn. Giáo Hội hướng về Chúa Thánh Thần xin Ngài tiếp tục chuẩn bị tâm hồn các dân tộc Á Châu để họ đối thoại với Đấng Cứu Tinh nhân loại hầu đón nhận ơn cứu độ. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong sứ mạng yêu thương và phục vụ, Giáo Hội có thể tạo cơ hội cho Đức Giêsu Kitô và các dân tộc Á Châu gặp gỡ nhau, đang khi họ tìm kiếm sự sống sung mãn. Chỉ khi nào có cuộc gặp gỡ ấy người ta mới tìm được nước mạch vọt lên đem lại sự sống đời đời, nghĩa là sự nhận biết Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đức Giêsu Kitô do Ngài sai đến (x. Ga 17,3).
18§3 Giáo Hội biết rõ mình chỉ có thể hoàn thành sứ mạng khi vâng theo những sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Được trao cho nhiệm vụ trở thành dấu chỉ và dụng cụ chân thực để Chúa Thánh Thần hoạt động trong những thực tế phức tạp của Châu Á, Giáo Hội phải biết nhận ra đâu là tiếng Chúa Thánh Thần muốn mình làm chứng cho Đức Giêsu Cứu Thế một cách mới mẻ và hiệu quả trong tất cả các hoàn cảnh khác nhau của lục địa. Sự thật toàn vẹn về Đức Giêsu và ơn cứu độ mà Ngài đã đạt được luôn luôn là một ân huệ, chứ không bao giờ là kết quả của nỗ lực con người. "Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô" (Rm 8,16-17). Bởi đó, Giáo Hội không ngừng kêu lên: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy tràn ngập tâm hồn các tín hữu Chúa và đốt lửa tình yêu Chúa trong lòng họ!", đó là ngọn lửa mà Đức Giêsu đã đem xuống địa cầu. Ngày nay Giáo Hội Á Châu cũng chia sẻ nhiệt huyết của Ngài là mong sao cho ngọn lửa ấy được bùng lên (x. Lc 12,49). Với niềm khát khao mãnh liệt này, các Nghị Phụ đã tìm cách nhận ra đâu là những cánh đồng truyền giáo chính yếu cho Giáo Hội tại Châu Á khi bước vào thiên niên kỷ mới.
Chú Thích :
(52) X. Đức Gioan Phaolô II, Tông thư "Là Chúa và là Đấng tác sinh" (18.5.1986), 54 : AAS 78 (1986), 875.
(53) X. như trên
(54) Đức Gioan Phaolô II, Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế" (7.12.1990), 28 : AAS 83 (1991), 274 ; x. Hiến chế "Vui Mừng và Hy Vọng", 26.
(55) X. Đề nghị 11 ; Vaticanô II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội "Đến với lương dân", 4 và 15 ; Hiến chế tín lý về Giáo Hội "Ánh sáng muôn dân", 17 ; Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay "Vui Mừng và Hy Vọng", 11, 22 và 38 ; Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế" (7.12.1990), 28 : AAS 83 (1991), 273t.
(56) X. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, "Tường trình trước khi thảo luận" : L'Osservatore Romano (22.4.1998), 5.
(57) Đức Gioan Phaolô II, Tông thư "Là Chúa và là Đấng tác sinh" (18.5.1986), 50 : AAS 78 (1986), 870 ; x. Thánh Tôma Aquinô, "Tổng luận thần học", III, 2, 10-12 ; 6, 6 ; 7, 13.
(58) X. Đức Gioan Phaolô II, Tông thư "Là Chúa và là Đấng tác sinh" (18.5.1986), 50 : AAS 78 (1986), 870.
(59) X. như trên.
(60) X. Đức Gioan Phaolô II, Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế" (7.12.1990), 28 : AAS 83 (1991), 274.
(61) Số 29 : AAS 83 (1991), 275 ; x. Hiến chế "Vui Mừng và Hy Vọng", 45.
(62) X. Đức Gioan Phaolô II, Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế" (7.12.1990), 29 : AAS 83 (1991), 275.
(63) X. CĐ. Vaticanô II, Hiến chế "Ánh sáng muôn dân", 13.
(64) Đề nghị 12.
(65) Công đồng Vaticanô II, Hiến chế "Ánh sáng muôn dân", 17.
Ban Dịch Thuật
ĐỨC GIÊSU CỨU THẾ:
MỘT QUÀ TẶNG CẦN LOAN BÁO
Đứng trước một trào lưu muốn "tương đối hóa" chính Chúa Giêsu, Tông huấn nhấn mạnh tới việc phải ưu tiên giới thiệu Đức Giêsu Kitô trong công tác phúc âm hóa "Không có việc Phúc âm hóa thực sự nếu không công bố danh tính, giáo lý, cuộc đời, các lời hứa, Nước Trời và mầu nhiệm của Đức Giêsu Nadareth là Con Thiên Chúa".
Người dân Châu Á, tuy có nhiều truyền thống và tôn giáo khác nhau, nhưng luôn có chung một niềm "khao khát được biết sự thật về Thượng Đế, về con người" và về "những giá trị bảo đảm cho sự phát triển toàn vẹn con người". Vì thế Giáo Hội càng thấy mình có nhiệm vụ phải loan báo Tin Mừng.
Nhưng đây là một công việc không đơn giản. Làm thế nào để luôn tôn trọng tự do của con người, luôn kính trọng và quý mến các tôn giáo, trong khi vẫn phải tôn trọng hoạt động của Chúa Thánh Thần, vẫn phải loan báo Tin Mừng một cách rõ ràng và nguyên vẹn.
Hội nhập văn hóa giúp giải quyết vấn đề trên. Giáo Hội vừa phải khám phá lại diện mạo của Đức Kitô đồng thời tìm ra những phương cách nhờ đó con người Á Châu có thể nắm bắt được ý nghĩa cứu độ phổ quát của mầu nhiệm Đức Giêsu và Giáo Hội của Ngài.
ƯU TIÊN CHO VIỆC LOAN BÁO
19. Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, một lần nữa ta lại nghe thấy tiếng nói của Đức Kitô Phục Sinh vang lên trong tâm hồn mỗi Kitô hữu: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,18-20). Vững tin vào sự trợ giúp liên tục của chính Đức Giêsu và sự hiện diện cũng như quyền năng của Thần Khí Ngài, các tông đồ đã lập tức lên đường sau Lễ Ngũ Tuần để thực thi mệnh lệnh này: "Họ ra đi và rao giảng khắp nơi, còn Chúa thì luôn hoạt động với họ" (Mc 16,20). Những điều các tông đồ loan báo có thể tóm tắt trong những lời sau đây của thánh Phaolô: "Chúng tôi không rao giảng bản thân mình, mà rao giảng Đức Giêsu Kitô là Chúa, còn chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em vì Đức Giêsu" (2Cr 4,5). Được chúc phúc với ơn huệ đức tin, sau hai ngàn năm, Giáo Hội vẫn tiếp tục ra đi và đón gặp các dân trên thế giới để chia sẻ cho họ Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Giáo Hội là một cộng đoàn luôn rạo rực nhiệt tình truyền giáo nhằm làm cho mọi người nhận biết, yêu mến và bước theo Đức Giêsu.
19§2 Không thể có việc phúc âm hóa thật nếu không có việc loan báo một cách rõ ràng Đức Giêsu là Chúa. Chính vì thế, để trả lời cho những lẫm lẫn về bản tính đích thực của sứ mạng truyền giáo, Công Đồng Vaticanô II và Huấn Quyền Giáo Hội luôn luôn nhấn mạnh tới việc phải ưu tiên giới thiệu Đức Giêsu Kitô trong hết mọi hoạt động phúc âm hóa. Do đó, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói rõ "không có việc phúc âm hóa thật sự, nếu không công bố danh tính, giáo lý, cuộc đời, các lời hứa, Nước trời và mầu nhiệm của Đức Giêsu Nazarét, Con Thiên Chúa" (66). Đó chính là điều mà các thế hệ Kitô hữu đã làm trong bao nhiêu thế kỷ qua. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã có lý mà tự hào khi nhắc lại rằng "nhiều cộng đoàn Kitô hữu ở Châu Á đã duy trì được đức tin qua nhiều thế kỷ trong bao nghịch cảnh và đã kiên trì bám chặt vào di sản thiêng liêng này một cách anh hùng. Họ coi việc chia sẻ kho tàng vô biên này là niềm vui lớn lao và là một việc rất cấp thiết " (67).
19§3 Đồng thời, các tham dự viên Hội Nghị đặc biệt này cũng nhắc đi nhắc lại nhu cầu cần phải có một sự dấn thân mới trong việc loan báo Đức Giêsu Kitô ngay chính trên lục địa này, nơi đã được diễm phúc chứng kiến việc loan báo đầu tiên cách đây 2000 năm. Lời nói sau đây của Thánh Phaolô càng trở nên hiện thực hơn, khi biết rằng rất nhiều người trên châu lục này chưa bao giờ được gặp gỡ Đức Giêsu một cách rõ ràng và ý thức: "Tất cả những ai kêu cầu Danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát. Nhưng làm sao kêu cầu Đấng mà họ không tin? Và làm sao tin vào Đấng mà họ chưa hề được nghe? Và làm sao nghe nếu không ai rao giảng? " (Rm 10,13-14). Như thế, vấn đề lớn đang đặt ra cho Giáo Hội Á Châu hiện nay là làm sao chia sẻ với anh chị em Á Châu của mình điều mà chúng ta trân trọng giữ gìn như là một quà tặng bao gồm hết mọi quà tặng, tức là Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô.
LOAN BÁO ĐỨC GIÊSU KITÔ TẠI CHÂU Á
20. Giáo Hội tại Châu Á ngày càng náo nức với sứ vụ loan báo Đức Giêsu Kitô, vì biết rằng "nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, đã có nhiều cá nhân và nhiều dân tộc, mặc dù họ không ý thức, nhưng đang khao khát được biết sự thật về Thượng Đế, về con người và về cách thế làm sao để được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết"(68). Sự nhấn mạnh đến việc loan báo như thế không xuất phát từ một động cơ phe phái hay từ tham vọng chiêu mộ tín đồ, cũng không phải do tự cao tự đại. Giáo Hội rao giảng Tin Mừng vì vâng theo mệnh lệnh của Đức Kitô, bởi biết rằng ai cũng có quyền được nghe Tin Mừng của Thiên Chúa, Đấng đã tự mặc khải và hiến mình trong Đức Kitô ( ). Làm chứng cho Đức Giêsu Kitô chính là sự phục vụ cao đẹp nhất mà Giáo Hội có thể cống hiến cho các dân tộc Á Châu, vì nó đáp ứng nguyện vọng sâu xa của họ là đi tìm Đấng Tuyệt Đối, đồng thời cũng vén mở cho biết những sự thật và những giá trị bảo đảm cho sự phát triển toàn diện của con người.
20§2 Ý thức sâu xa về sự phức tạp vì có quá nhiều hoàn cảnh khác nhau tại Châu Á, vì phải nói "sự thật trong tình bác ái" (Ep 4,15), nên Giáo Hội luôn loan báo Tin Mừng với sự tôn trọng và quý mến đầy yêu thương đối với những người nghe. Loan báo mà vẫn tôn trọng các quyền lương tâm thì không xâm phạm tự do của con người, vì đức tin luôn đòi hỏi nơi phía mỗi người phải có sự hưởng ứng tự nguyện (70). Tuy nhiên, tôn trọng không có nghĩa là loại trừ nhu cầu phải loan báo Tin Mừng một cách rõ ràng và nguyên vẹn. Nhất là trong bối cảnh Á Châu có khá nhiều nền văn hóa và tôn giáo, cần phải nói rõ rằng "không phải vì kính trọng và quý mến các tôn giáo ấy, cũng chẳng vì tính phức tạp của các vấn đề được đặt ra mà ngưng không loan báo về Đức Giêsu Kitô cho những người không phải là Kitô hữu" (71). Năm 1986 trong lúc viếng thăm Ấn Độ, tôi đã nói rõ "con đường Giáo Hội đến với các tôn giáo khác là con đường kính trọng thật sự…Một sự kính trọng gồm hai khía cạnh: một đàng tôn trọng con người đang tìm kiếm những giải đáp cho các vấn nạn sâu xa nhất của cuộc sống, đàng khác tôn trọng hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi con người" (72). Thật vậy, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng sẵn sàng nhìn nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi các xã hội, văn hóa và tôn giáo Á Châu, nhờ các hoạt động đó mà Chúa Cha chuẩn bị tâm hồn các dân tộc Á Châu để đón nhận sự sống sung mãn nơi Đức Kitô" (73).
20§3 Tuy nhiên, ngay trong những cuộc tham khảo trước khi họp Thượng Hội Đồng, nhiều giám mục Á Châu đã nêu lên những khó khăn khi loan báo Đức Giêsu là vị Cứu Tinh duy nhất. Trong Hội Nghị, các vị cũng diễn tả tình hình ấy như sau: "Một số tín đồ của các tôn giáo lớn tại Châu Á không gặp vấn đề gì khi chấp nhận Đức Giêsu là một hiện thân của Thần Minh hay của Đấng Tuyệt Đối, hoặc như một Đấng "giác ngộ". Nhưng thật khó cho họ khi phải nhìn nhận Ngài là hiện thân duy nhất của Thần Minh" (74). Thật ra, nỗ lực chia sẻ ơn đức tin vào Đức Giêsu như là Vị Cứu Tinh duy nhất đã gặp phải rất nhiều khó khăn về triết học, văn hóa và thần học, nhất là khi căn cứ vào niềm tin của các tôn giáo lớn Á Châu, vốn quyện chặt với những giá trị văn hóa và những thế giới quan riêng biệt.
20§4 Theo ý kiến của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, những khó khăn còn tăng thêm vì Đức Giêsu thường được cho là xa lạ với Châu Á. Thật là nghịch lý khi nhiều người Á Châu có khuynh hướng nhìn Đức Giêsu như là một người Tây Phương hơn là một người Á Châu dù Ngài đã sinh ra trên chính mảnh đất Á Châu. Tin Mừng được loan báo bởi các nhà truyền giáo Tây Phương nên hẳn có bị ảnh hưởng bởi những nền văn hóa tại nơi xuất xứ của họ. Các Nghị Phụ ghi nhận sự việc này như là một điều không thể tránh được trong lịch sử loan báo Tin Mừng. Đồng thời các Nghị Phụ cũng nhân cơ hội này "đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn đối với các nhà truyền giáo, tu sĩ, giáo dân, ngoại quốc và bản địa, đã mang sứ điệp của Đức Giêsu Kitô và ơn đức tin đến. Các ngài cũng muốn tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với tất cả các Giáo Hội địa phương đã gửi và còn tiếp tục gửi các nhà truyền giáo đến Châu Á" (75).
20§5 Các nhà rao giảng Tin Mừng có thể tin tưởng khi dựa vào kinh nghiệm của thánh Phaolô, người đã dấn thân vào cuộc đối thoại với các thính giả của mình về các giá trị triết học, văn hóa và tôn giáo (x. Cv 14,13-17; 17,22-31). Ngay cả các công đồng chung của Giáo Hội khi định thức các giáo lý trong Giáo Hội cũng phải sử dụng đến các nguồn trong kho tàng ngữ học, triết học và văn hóa có sẵn. Thế là, các tài nguyên này đã trở thành một tài sản chung của cả Giáo Hội, có khả năng diễn tả giáo lý về Kitô học một cách thích hợp và phổ quát. Chúng là một phần trong di sản đức tin cần phải thu dụng lấy rồi phải chia sẻ mỗi khi tiếp xúc với các nền văn hóa khác nhau (76). Thật là một thách đố vượt bậc khi phải loan báo Đức Giêsu sao cho các dân tộc Á Châu có thể gắn bó với Ngài, mà vẫn trung thành với giáo lý thần học của Giáo Hội cũng như nguồn gốc Á Châu của mình.
20§6 Muốn giới thiệu Đức Giêsu Kitô là Vị Cưú Tinh duy nhất, chúng ta cần phải theo một phương pháp sư phạm (pedagogy), đưa người ta dần dần tới chỗ thủ đắc trọn vẹn mầu nhiệm ấy. Nói rõ hơn, phúc âm hóa sơ khởi cho những người ngoài Kitô Giáo và tiếp tục loan báo Đức Giêsu cho những người đã tin là hai công việc phải được tiến hành khác nhau. Chẳng hạn khi loan báo sơ khởi, thì "nên giới thiệu Đức Giêsu Kitô như là Đấng có thể thoả mãn những khát vọng sâu xa của con người diễn tả trong các thần thoại và văn chương truyền thống của các dân tộc Á Châu" (77). Nói chung, nên dành ưu tiên cho phương pháp kể chuyện vốn gần gũi với các hình thức văn hóa của Châu Á. Thật ra, việc loan báo Đức Giêsu Kitô có thể đạt hiệu quả cao nhất bằng cách kể lại cuộc đời Ngài, như các sách Tin Mừng đã kể. Những khái niệm hữu thể học liên hệ - mà khi giới thiệu Chúa Giêsu chúng ta phải sử dụng tới để diễn tả - có thể được bổ sung bằng những viễn tượng có tính tương quan, tính lịch sử, và phổ quát hơn. Các Nghị Phụ lưu ý: Giáo Hội cần phải cởi mở tiếp nhận các phương pháp mới mẻ có thể gây ngạc nhiên để giới thiệu khuôn mặt Đức Giêsu tại Châu Á này (78).
20§7 Thượng Hội Đồng còn nhắc nhở rằng việc giảng dạy giáo lý tiếp sau đó nên theo "một phương pháp sư phạm gợi ý" (an evocative pedagogy), nghĩa là sử dụng các câu chuyện, các dụ ngôn và biểu tượng, là những điều hết sức đặc thù trong phương pháp giảng dạy của người Á Châu" (79). Chính Đức Giêsu trong khi thi hành sứ vụ cũng cho thấy rõ giá trị của việc tiếp xúc cá nhân. Việc này đòi hỏi người rao giảng Tin Mừng phải quan tâm tới hoàn cảnh của người nghe, để có thể loan báo cho họ một cách phù hợp với trình độ trưởng thành của họ, bằng một hình thức và ngôn ngữ thích hợp. Nhìn trong viễn tượng ấy, đã nhiều lần các Nghị Phụ nhấn mạnh rằng phải rao giảng Tin Mừng bằng cách nào để đánh động được cảm quan của các dân tộc Á Châu, giới thiệu cho họ những hình ảnh về Đức Giêsu cách nào mà tâm trí và văn hóa Á Châu có thể lĩnh hội được, nhưng đồng thời vẫn phải trung thành với Kinh Thánh và Truyền Thống. Chẳng hạn như giới thiệu "Đức Giêsu Kitô là Thầy Dạy sự Khôn Ngoan, là Lương Y chữa lành bệnh tật, là Vị Giải Phóng, là nhà Hướng Dẫn Tâm Linh, là Đấng Giác Ngộ, là người Bạn đầy thông cảm của người nghèo, là người Samari nhân hậu, là Mục Tử tốt lành, là Người Sống Tùng Phục" (80). Có thể giới thiệu Đức Giêsu như hiện thân của Khôn Ngoan Thiên Chúa, nhờ đó những "hạt giống" của sự khôn ngoan thần linh vốn đã có nơi cuộc sống, tôn giáo và các dân tộc Á Châu sẽ sinh hoa kết trái (81). Đứng trước biết bao nhiêu đau khổ mà các dân tộc Á Châu phải chịu đựng, tốt nhất nên loan báo Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh Đấng "có thể mang lại ý nghĩa cho những người đang phải chịu đựng những đau khổ khôn tả" (82).
20§8 Đức tin mà Giáo Hội trao tặng cho con cái Châu Á không thể bị giới hạn trong sự hiểu biết và cách diễn tả của bất cứ một nền văn hóa nào, vì đức tin vượt trên tất cả những giới hạn đó và thúc đẩy mọi nền văn hóa vươn lên tới những tầm cao mới của sự hiểu biết và diễn đạt. Nhưng các Nghị Phụ cũng đồng thời ý thức nhu cầu thúc bách các Giáo Hội địa phương ở Châu Á phải làm sao giới thiệu mầu nhiệm Đức Kitô cho dân tộc mình theo những mô hình văn hóa và những cách tư duy của họ. Các ngài đã chỉ ra rằng cuộc hội nhập văn hóa của đức tin trên lục địa này bao hàm việc khám phá lại diện mạo Á Châu của Đức Giêsu, và tìm ra những phương cách mà nhờ đó các nền văn hóa Á Châu có thể nắm bắt được ý nghĩa cứu độ phổ quát của mầu nhiệm Đức Giêsu và Giáo Hội Ngài (83). Ngày nay cần phải noi theo gương sáng của những người mà ở đây ta chỉ đơn cử một vài vị như Giovanni da Montecorvino, Matteo Ricci và Roberto de Nobili, để có cái nhìn thấu đáo về các dân tộc và các văn hóa của họ.
THÁCH ĐỐ CỦA VIỆC HỘI NHẬP VĂN HÓA
21. Văn hóa là môi trường sinh động trong đó con người đến gặp Tin Mừng diện đối diện. Cũng như mỗi nền văn hóa là kết quả xuất phát từ cuộc sống và sinh hoạt của một tập thể nhân loại, thì đối lại những con người thuộc tập thể này lại được khuôn đúc trong một phạm vi rộng bởi chính nền văn hoá mà trong đó họ đang sinh sống. Nếu con người và xã hội thay đổi, văn hóa cũng sẽ thay đổi theo. Nếu văn hóa đổi thay thì con người và xã hội cũng được văn hóa ấy biến đổi theo. Nhìn trong viễn tượng ấy, ta càng thấy rõ hơn tại sao phúc âm hóa và hội nhập văn hóa có liên quan mật thiết và tự nhiên với nhau. Tin Mừng và việc phúc âm hóa tất nhiên không đồng nhất với văn hóa; chúng độc lập với văn hóa. Nhưng Nước Thiên Chúa lại đến với những con người đã có liên hệ sâu xa với một nền văn hóa, và không thể xây dựng Nước Thiên Chúa mà không vay mượn một số yếu tố lấy từ các nền văn hóa nhân loại. Bởi đó, Đức Phaolô VI nói rằng sự phân cách giữa Tin Mừng và văn hóa là thảm kịch của thời đại hôm nay, điều sẽ tác động sâu xa tới việc phúc âm hóa cũng như tới nền văn hóa (84).
21§2 Trong tiến trình gặp gỡ các nền văn hóa khác nhau của thế giới, Giáo Hội không những truyền đạt các chân lý và giá trị của mình, cũng như đổi mới các nền văn hóa ấy từ bên trong, mà còn thu dụng những yếu tố tích cực có sẵn từ các nền văn hóa ấy. Đây là con đường buộc các nhà truyền giáo phải đi qua khi giới thiệu đức tin Kitô Giáo và biến nó thành một phần trong di sản văn hóa của một dân tộc. Ngược lại, các nền văn hóa ấy, một khi đã được tinh lọc và đổi mới nhờ ánh sáng Tin Mừng, sẽ trở thành những cách diễn tả trung thực đức tin duy nhất của Kitô Giáo. Về phần mình "nhờ hội nhập văn hóa, Giáo Hội sẽ trở thành một dấu chỉ dễ hiểu hơn giúp người ta hiểu bản chất của mình, đồng thời Giáo Hội cũng trở thành một dụng cụ đắc lực hơn để thi hành sứ mạng" (85). Sự liên kết với các nền văn hóa luôn luôn là một phần trong cuộc hành trình của Giáo Hội qua lịch sử. Thế nhưng, ngày nay vấn đề này trở nên đặc biệt cấp thiết khi đứng trước tình hình đa chủng tộc, đa tôn giáo và đa văn hóa của Châu Á, nơi mà Kitô Giáo vẫn thường bị xem như ngoại lai.
21§3 Đến đây, ta cần nhớ lại điều mà các Nghị Phụ thường nói trong Thượng Hội Đồng: Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của việc hội nhập đức tin Kitô Giáo vào văn hóa Á Châu (86). Chúa Thánh Thần đã cho chúng ta hiểu biết chân lý toàn diện thì cũng có thể giúp chúng ta biết đối thoại với các giá trị văn hóa và tôn giáo của các dân tộc được kết quả, khi Ngài ban cho những ai thiện chí được nghị lực cần thiết để thắng vượt sự dữ và mưu mô của Thần Dữ, và như vậy là để tạo điều kiện cho hết mọi người được tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua bằng một cách thức chỉ có Chúa biết, thì một cách nào đó Ngài đã hiện diện nơi các dân tộc ấy rồi (87). Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần sẽ bảo đảm cho cuộc đối thoại ấy diễn ra trong sự thật, lương thiện, khiêm tốn và kính trọng (88). "Khi cống hiến cho người khác Tin Mừng Cứu Chuộc, Giáo Hội cố gắng tìm hiểu văn hóa của họ, tìm cách để nhận biết não trạng và tâm hồn của người nghe, những giá trị và tập quán, những vấn đề và khó khăn cùng những hy vọng và ước mơ của họ. Một khi biết được và hiểu được những khía cạnh khác nhau này của văn hóa, Giáo Hội mới có thể bắt đầu cuộc đối thoại cứu độ; Giáo Hội có thể giới thiệu Tin Mừng Cứu Độ cho tất cả những ai tự nguyện muốn lắng nghe và muốn đáp trả, giới thiệu một cách tôn trọng nhưng cũng rõ ràng và xác tín" (88). Bởi đó, những người Á Châu muốn đón nhận niềm tin Kitô Giáo cho riêng mình trong tư cách là người Á Châu, có thể an tâm rằng những hy vọng và uớc mơ, những lo âu và đau khổ của họ chẳng những đã được Đức Giêsu ôm ấp lấy, mà chúng còn trở thành chính điểm mà qua đó ơn đức tin và quyền năng Chúa Thánh Thần đi vào cốt lõi sâu thẳm nhất của cuộc sống họ.
21§4 Nhiệm vụ của các mục tử, dựa trên đoàn sủng của mình là hướng dẫn cuộc đối thoại ấy với sự nhận định khôn ngoan. Cũng vậy, các nhà chuyên môn trong các môn học đạo và đời cũng đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hội nhập văn hóa. Thế nhưng, tiến trình này phải là công việc thu hút toàn thể Dân Chúa, vì đời sống cả Giáo Hội nói chung đều phải phản ảnh niềm tin mà Giáo Hội đang loan báo và đang thủ đắc. Để bảo đảm cho việc này được thực hiện tốt đẹp, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã đề ra một số lãnh vực cần quan tâm đặc biệt, từ suy tư thần học, phụng vụ, đào tạo linh mục và tu sĩ, cho tới huấn giáo và linh đạo (90).
NHỮNG LÃNH VỰC THEN CHỐT CẦN HỘI NHẬP VĂN HÓA
22. Thượng Hội Đồng đã khuyến khích các nhà thần học trong một công việc tế nhị là phát triển một nền thần học được hội nhập văn hóa, nhất là trong lãnh vực Kitô học (91). Các Nghị Phụ ghi nhận rằng "việc làm thần học này cần phải được xúc tiến một cách can đảm, trung thành với Kinh Thánh và Truyền Thống Giáo Hội, chân thành gắn bó với Huấn Quyền, đồng thời không quên các thực tế mục vụ" (92). Tôi cũng thúc giục các nhà thần học hãy làm việc trong tinh thần hiệp nhất với các mục tử và dân chúng; những thành phần này - khi không chia rẽ nhưng hiệp nhất với nhau - sẽ phản ánh một cảm thức đức tin chân chính là điều các nhà thần học không bao giờ được bỏ qua" (93). Phải tiến hành công việc suy tư thần học với lòng tôn trọng những nhạy cảm của các Kitô hữu, để nhờ được hướng dẫn từ từ sẽ đạt tới các hình thức hội nhập diễn tả đức tin mà không làm cho dân chúng cảm thấy hoang mang và vấp phạm. Trong mọi trường hợp, việc hội nhập văn hóa phải được hướng dẫn bởi sự tương hợp với Tin Mừng và hiệp thông với đức tin của Giáo Hội toàn cầu, hoàn toàn phù hợp với Truyền Thống Giáo Hội và luôn nhắm củng cố đức tin của dân chúng (94). Muốn biết sự hội nhập văn hóa có chân thực hay không, ta cứ nhìn xem dân chúng tại đó có trở nên gắn bó hơn với đức tin Kitô Giáo không, bởi vì họ hiểu đức tin ấy rõ ràng hơn khi nhìn qua văn hóa của mình.
22§2 Phụng Vụ là nguồn mạch và là cao điểm của toàn bộ đời sống và sứ mạng Kitô Giáo (95). Phụng vụ là phương thế có vai trò quyết định trong việc phúc âm hóa, nhất là tại Châu Á, vì tại đây các lễ hội, việc phụng tự và các việc sùng bái bình dân khác có sức cuốn hút tín đồ của các tôn giáo biết chừng nào (96). Phần lớn phụng vụ của các Giáo Hội Đông Phương đã được hội nhập văn hóa một cách thành công qua nhiều thế kỷ có tác động qua lại với văn hóa địa phương. Còn các Giáo Hội mới được thành lập thì cần phải làm sao cho phụng vụ trở thành một nguồn lương thực tâm linh ngày càng phong phú hơn cho các tín hữu bằng cách vận dụng cách khôn ngoan và hiệu quả các yếu tố lấy từ các nền văn hóa địa phương. Tuy nhiên, đưa phụng vụ hội nhập văn hóa không phải chỉ là chú ý tới các giá trị văn hóa truyền thống, các biểu tượng và nghi lễ; nhưng cũng cần phải lưu ý tới những thay đổi trong ý thức cũng như thái độ của người dân do các nền văn hóa nặng tính thế tục và hưởng thụ đang ảnh hưởng đến cảm quan của người Á Châu về việc phụng tự và cầu nguyện. Cũng không được phép bỏ qua những nhu cầu riêng biệt của người nghèo, người di cư, người tị nạn, người trẻ và phụ nữ, nếu muốn Phụng vụ được hội nhập văn hóa một cách đích thực tại Châu Á.
22§3 Các Hội Đồng Giám Mục quốc gia và khu vực cần cộng tác mật thiết hơn với Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích để tìm ra những phương thế hữu hiệu cổ võ các hình thức thờ phượng thích hợp với bối cảnh Á Châu (97). Việc cộng tác ấy hết sức quan trọng, vì Phụng Vụ Thánh là nơi diễn tả và cử hành một niềm tin chung của hết mọi người, và vì Phụng vụ là di sản của toàn thể Giáo hội nên các Giáo hội địa phương không được quyết định gì về Phụng vụ một cách độc lập với Giáo Hội toàn cầu.
22§4 Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhấn mạnh cách riêng tới tầm quan trọng của Lời Kinh Thánh trong việc đem sứ điệp cứu độ đến với các dân tộc Á Châu, là nơi mà Lời được truyền đi đóng một vai trò quan trọng biết chừng nào trong việc bảo tồn và truyền đạt kinh nghiệm tôn giáo (98). Bởi đó, cần phải phát triển công tác tông đồ Kinh Thánh một cách hiệu quả, sao cho các bản văn thánh được phổ biến rộng rãi hơn, được sử dụng dồi dào hơn và giúp cầu nguyện sâu xa hơn nơi các thành phần Giáo Hội Á Châu. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã lưu ý phải lấy đó làm nền tảng cho mọi công việc truyền giáo, huấn giáo, rao giảng và các hình thức tu đức (99). Cần phải khuyến khích và hỗ trợ những cố gắng phiên dịch Kinh Thánh ra các ngôn ngữ địa phương. Việc đào tạo về Kinh Thánh phải được coi là một phương thế quan trọng để giáo dục dân chúng trong đức tin và trang bị cho họ thi hành nhiệm vụ loan báo Tin Mừng. Phải đưa các khoá học Kinh Thánh có định hướng mục vụ vào trong chương trình đào tạo hàng giáo sĩ, người sống đời thánh hiến và giáo dân, luôn nhấn mạnh tới việc áp dụng các điều được giảng dạy vào các thực tế phức tạp của đời sống tại Châu Á (100). Cũng nên phổ biến Kinh Thánh cho tín đồ các tôn giáo khác, vì tự lời Chúa đã có sức mạnh đánh động các tâm hồn và qua Kinh Thánh, Chúa Thánh Thần mặc khải chương trình cứu độ của Thiên Chúa cho thế giới. Hơn nữa, thể văn kể chuyện trong Kinh Thánh rất gần với các bản văn tôn giáo điển hình của Châu Á (101 ).
22§5 Một khía cạnh then chốt khác của việc hội nhập văn hóa, chi phối phần lớn tương lai của tiến trình này, là việc đào tạo các người rao giảng Tin Mừng. Trong quá khứ, việc đào tạo này thường rập khuôn theo phong cách, phương pháp và chương trình nhập từ Tây Phương vào. Tuy vẫn đánh giá cao những ích lợi do phương thức đào tạo ấy mang lại, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng đã nhìn nhận đang có một sự phát triển tích cực trong các nỗ lực gần đây nhằm thích nghi việc đào tạo các người rao giảng Tin Mừng cho phù hợp với bối cảnh văn hóa của Châu Á. Ngoài nền tảng vững vàng về Kinh Thánh và các giáo phụ, các chủng sinh còn phải hiểu thấu vững chắc và chi tiết di sản thần học và triết học của Giáo Hội, như tôi đã kêu gọi trong Tông Thư Đức tin và Lý trí (Fides et Ratio) (102). Được chuẩn bị trên nền tảng đó, họ sẽ được hưởng những lợi ích khi tiếp xúc với các truyền thống triết học và tôn giáo của Châu Á (103). Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng khuyến khích các giáo sư và ban giám đốc các chủng viện tìm cách hiểu biết sâu xa các yếu tố linh đạo và kinh nguyện gần gũi với tâm hồn người Á Châu, cũng như dấn thân hơn vào việc tìm hiểu những tâm hồn ấy đang tìm kiếm một cuộc sống sung mãn hơn (104 ). Để đạt mục đích này, các Nghị Phụ nhấn mạnh phải thiết lập ban giảng huấn chủng viện được đào tạo thích đáng (105). Thượng Hội Đồng cũng quan tâm tới việc đào tạo những người sống đời thánh hiến và lưu ý rõ phải làm sao để linh đạo và lối sống đó nhạy cảm với di sản tôn giáo và văn hóa của những người cùng chung sống và đang được họ phục vụ, tất nhiên với điều kiện phải biết phân định đâu là điều phù hợp và đâu là điều không phù hợp với Tin Mừng (106). Ngoài ra, vì công việc hội nhập văn hóa là công việc chung của toàn thể Dân Chúa, nên vai trò của người giáo dân rất quan trọng. Hơn ai hết, họ chính là những người được mời gọi biến đổi xã hội, cộng tác với các giám mục, linh mục và tu sĩ, bằng cách làm cho "tinh thần của Đức Kitô" thấm vào trong não trạng, tập quán, luật lệ và cấu trúc của thế giới mà trong đó họ đang sống (107). Việc đưa Tin Mừng hội nhập văn hóa một cách rộng rãi hơn ở mọi tầng lớp trong xã hội Á Châu sẽ tùy thuộc phần lớn vào việc mỗi Giáo Hội địa phương đào tạo thích đáng cho giáo dân của mình.
CUỘC SỐNG KITÔ HỮU LÀ MỘT CÁCH LOAN BÁO
23. Cộng đoàn Kitô hữu càng đâm rễ sâu trong kinh nghiệm về Thiên Chúa, một kinh nghiệm xuất phát từ một lòng tin sống động, thì cộng đoàn ấy càng đáng tin hơn khi loan báo cho người khác về Nước Thiên Chúa đã được hoàn thành trong Đức Giêsu Kitô. Điều này sẽ đạt được thành quả khi họ trung thành lắng nghe lời Thiên Chúa, cầu nguyện và chiêm niệm, cử hành mầu nhiệm Đức Giêsu trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, và khi nêu gương hiệp thông thật sự trong đời sống cũng như trong đức ái trọn vẹn. Giáo Hội địa phương phải nhiệt tâm với việc chiêm ngắm Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa làm người, đồng thời phải không ngừng cố gắng kết hợp mật thiết hơn với Ngài vì Giáo Hội đang tiếp nối sứ mạng của Ngài. Sứ mạng ấy là hoạt động trong chiêm niệm và chiêm niệm trong hoạt động. Bởi đó, nếu một nhà truyền giáo không có kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa trong kinh nguyện và chiêm niệm thì sẽ ít ảnh hưởng về mặt thiêng liêng hoặc sẽ ít thành công trong việc truyền giáo. Đây là một cảm nghiệm tôi rút ra được khi thi hành tác vụ linh mục, và, như tôi đã viết ở một chỗ khác, nhờ các lần tiếp xúc với các vị đại biểu của các truyền thống tâm linh ngoài Kitô Giáo, nhất là của Châu Á, làm cho tôi xác tín về điều này: tương lai của việc truyền giáo tùy thuộc phần lớn vào việc chiêm niệm (108). Tại Châu Á, quê hương của các tôn giáo lớn, nơi mà không những nhiều cá nhân mà có khi cả một dân tộc đang khát khao sự thần thiêng, Giáo Hội đuợc kêu gọi hãy trở thành một Giáo Hội cầu nguyện, và có đời sống thiêng liêng sâu xa, ngay cả khi phải dấn thân phục vụ những nhu cầu cấp thiết của con người và xã hội. Mọi Kitô hữu cần phải sống một linh đạo truyền giáo đích thực trong việc cầu nguyện và chiêm niệm.
23§2 Tại Châu Á, người có lòng đạo đích thực dễ được kính trọng và noi gương. Cầu nguyện, chay tịnh và khổ hạnh dưới nhiều hình thức khác nhau là những điều rất được trân trọng. Từ bỏ, siêu thoát, khiêm nhường, giản dị và thinh lặng là những điều mà tín đồ của bất cứ một tôn giáo nào cũng coi là những giá trị lớn. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh rằng nếu muốn việc cầu nguyện không tách rời khỏi sự thăng tiến con người, thì "phải liên kết việc xây dựng công lý, bác ái và từ thiện với một đời sống cầu nguyện và chiêm niệm thật sự, và chính linh đạo này sẽ là nguồn mạch phát sinh mọi hoạt động phúc âm hóa" (109). Xác tín đầy đủ tầm quan trọng của các chứng nhân đích thực của Châu Á trong công cuộc phúc âm hóa, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã tuyên bố: "Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chỉ có thể được công bố do những người đã được hấp dẫn và linh hứng bởi tình thương mà Chúa Cha đã dành cho con cái Ngài, biểu lộ qua con người Giêsu Kitô. Việc công bố Tin Mừng là một sứ mạng đòi phải có những người nam nữ thánh thiện, để có thể làm cho người khác nhận biết và yêu mến Đấng Cứu Thế qua chính đời sống của mình. Ta chỉ có thể đốt lên một ngọn lửa bởi một vật gì đó đang có lửa. Thế nên, Tin Mừng cứu độ chỉ có thể được loan báo một cách thành công tại Châu Á, khi chính các giám mục, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đang rực lửa yêu mến Đức Kitô và bừng cháy lòng nhiệt thành làm cho Ngài được nhiều người nhận biết hơn, yêu mến sâu xa hơn và đi theo sát hơn" (110). Kitô hữu nào muốn giới thiệu Đức Kitô thì phải sống chính sứ điệp mà mình công bố.
23§3 Tuy nhiên, về mặt này, có một hoàn cảnh đặc biệt của Châu Á cần được ta lưu ý. Giáo Hội ý thức rằng tại nhiều nơi của Châu Á làm chứng một cách thầm lặng bằng cuộc sống vẫn là con đường duy nhất để loan báo Nước Thiên Chúa. Đó là những nơi còn bị cấm loan báo công khai, tự do tôn giáo bị phủ nhận hay bị hạn chế một cách hệ thống. Giáo Hội sống chứng tá như thế một cách ý thức và coi như là một cách "vác thập giá của mình" (x Lc 9,23), đồng thời vẫn kêu gọi và thúc giục các chính phủ hãy nhìn nhận sự tự do tôn giáo như một quyền căn bản của con người. Thiết tưởng nên nhắc lại những lời sau đây của Công Đồng Vaticanô II: "Con người có quyền tự do tôn giáo. Quyền tự do này hệ tại con người không bị lệ thuộc vào áp lực của cá nhân, đoàn thể xã hội hay của bất cứ quyền bính trần gian nào khác. Với ý nghĩa đó, trong lãnh vực tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm, dù cho đó là hành động riêng tư hay công khai, một mình hay với người khác, trong những giới hạn chính đáng" (111). Tại một số nước Á Châu, còn cần phải làm sao cho người ta nhìn nhận tuyên ngôn này và đưa ra thực hành cho có hiệu quả.
23§4 Thế nên, rõ ràng là tại Châu Á việc loan báo về Đức Giêsu Kitô còn mang nhiều khía cạnh phức tạp, cả về nội dung lẫn trong phương pháp. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ý thức sâu sắc rằng có nhiều cách chính đáng khác nhau để loan báo Đức Giêsu, miễn sao trong quá trình thủ đắc và chia sẻ đức tin, người ta luôn tôn trọng đức tin trong toàn bộ của nó. Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng: "việc phúc âm hóa hiện nay là một thực tế vừa phong phú vừa năng động. Nó bao gồm nhiều khía cạnh và nhiều yếu tố khác nhau như làm chứng, đối thoại, rao giảng, dạy giáo lý, hoán cải, rửa tội, hội nhập vào cộng đoàn Giáo Hội, thiết lập Giáo Hội, hội nhập văn hóa và thăng tiến con người toàn diện. Một số yếu tố trên đây sẽ được tiến hành chung với nhau, nhưng cũng có một số khác cần phải được xúc tiến tuần tự theo từng bước hay từng giai đoạn của toàn bộ tiến trình phúc âm hóa" (112). Tuy nhiên, trong toàn bộ công cuộc phúc âm hóa cần phải công bố sự thật toàn vẹn về Đức Giêsu Kitô. Khi từng buớc giới thiệu Đức Kitô cho một người, chẳng những chúng ta được phép mà còn cần nhấn mạnh một vài khía cạnh trong toàn bộ mầu nhiệm vô tận của Đức Giêsu, nhưng không được phép vì thế mà làm phương hại cho đức tin toàn vẹn. Cuối cùng, phải làm sao cho việc chấp nhận đức tin của một người được xây dựng trên sự hiểu biết vững chắc về bản thân Đức Giêsu Kitô như Giáo Hội mọi nơi và mọi thời vẫn giới thiệu: Ngài là Chúa muôn loài, "Đấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một" (Dt 13,8).
Chú Thích:
(66) Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn "Loan báo Tin Mừng" (8.12.1975), 22 : AAS 68 (1976), 20.
(67) Đề nghị 8.
(68 ) Đức Gioan Phaolô II, Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế" (7.12.1990), 45 : AAS 83 (1991), 292.
(69) X. như trên.
(70) X. Vaticanô II, Tuyên ngôn về tự do tôn giáo "Phẩm giá con người", 3-4 ; Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu thế", 39 : AAS 83 (1991), 287 ; Đề nghị 40.
(71) Đức Phaolô VI, Tông huấn "Loan báo Tin Mừng", 53 : AAS 68 (1976), 41t.
(72) "Diễn văn với các đại biểu các tôn giáo ngoài Kitô Giáo", Madras (5.2.1986), 2 : AAS 78 (1986), 767.
(73) X. Đề nghị 11&12; tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế", 28:AAS 83 (1991),273t
(74) "Tường trình trước khi thảo luận" : L'Osservatore Romano (22.4.1998), 5.
(75) Đề nghị 58
(76) X. Đức Gioan-Phaolô II, Tông thư "Đức tin và lý trí" (14.9.1998), 72 : AAS 91 (1999), 61.
(77) "Tường trình sau khi thảo luận", 15.
(78) X. như trên
(79) X. như trên
(80) Đề nghị 6.
(81) X. "Tường trình sau khi thảo luận", 6.
(82) X. như trên
(83) X. "Tường trình trước khi thảo luận": L'Osservatore Romano (22.4.1998), 5.
(84) X. Tông huấn "Loan báo Tin Mừng", 20 : AAS 68 (1976), 18t.
(85) Đức Gioan-Phaolô II, Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế", 52: AAS 83 (1991), 300.
(86) X. "Tường trình sau khi thảo luận", 9.
(87) X. Hiến chế "Vui Mừng và Hy Vọng", 22 ; Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế", 28 : AAS 83 (1991), 273t.
(88) X. Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế", 56 : AAS 83 (1991), 304.
(89) Đức Gioan-Phaolô II, "Bài giảng trong Thánh lễ dành cho người Công Giáo miền Tây Bengal, Calcutta" (4.2.1986), 3: Insegnamenti IX, 1 (1986), 314.
(90) X. Đề nghị 43.
(91) X. Đề nghị 7.
(92) X. như trên
(93) Đức Gioan-Phaolô II, Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế", 54 : AAS 83 (1991), 302.
(94) X. như trên
(95) X. Vaticanô II, Hiến chế về phụng vụ thánh, 10 ; "Tường trình sau khi thảo luận", 14.
(96) X. "Tường trình sau khi thảo luận", 14 ; Đề nghị 43.
(97) X. đề nghị 43.
(98) X. "Tường trình sau khi thảo luận", 13.
(99 ) X. Đề nghị 17.
(100) X. Đề nghị 18.
(101) X. Đề nghị 17.
(102) Số 60 ; 62 ; 105 : AAS 91 (1999), 52t ; 54 ; 85t.
(103) X. Đề nghị 24.
(104) X. Đề nghị 25.
(105) X. như trên.
(106) X. Đề nghị 27.
(107) X. Đề nghị 29.
(108) X. Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế", 91 : AAS 83 (1991), 338.
(109) Đề nghị 19.
(110) Đề nghị 8.
(111) Tuyên ngôn về tự do tôn giáo, 2.
(112) Đề nghị 6.
Ban Dịch Thuật
CHƯƠNG NĂM
HIỆP THÔNG VÀ ĐỐI THOẠI ĐỂ TRUYỀN GIÁO
Giáo Hội cần ý thức bản chất của mình là Dân Thiên Chúa, là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, nơi Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ thế giới
Đứng trước hoàn cảnh đặc biệt của Á Châu với nhiều tôn giáo lớn, Tông huấn muốn trình bày nhiệm vụ truyền giáo một cách mới mẻ và tế nhị, vừa chân thực vừa đầy sức sống, khởi đi từ trung tâm của mầu nhiệm Giáo Hội là mối hiệp thông giữa Đức Kitô và tín hữu, từ đó mà phải hiệp thông với nhau và với mọi người.
Từ sự sống nội tại dẫn đến chia sẻ sự sống ra bên ngoài. Sự hiệp thông với Đức Kitô phải sinh hoa quả tức là đưa nhiều người đến với Chúa. Như thế Hiệp thông phát sinh truyền giáo. Truyền giáo giả thiết phải có gặp gỡ, nhưng Tông Huấn không muốn trình bày cuộc gặp gỡ như một sự chinh phục, nhằm thu thập nhiều tín đồ cho Giáo Hội, mà là một cuộc gặp gỡ được thúc đẩy bởi sức sống của sự hiệp thông và đặt trên căn bản một cuộc đối thoại, đối thoại trong tinh thần tôn trọng, thông cảm, yêu thương và chia sẻ.
HIỆP THÔNG VÀ TRUYỀN GIÁO PHẢI ĐI ĐÔI VỚI NHAU
24. Thể theo ý định muôn đời của Chúa Cha, Giáo Hội đã được báo trước từ thuở khai thiên lập địa, rồi được chuẩn bị trong Cựu Ước, được Đức Kitô Giêsu thành lập và được Chúa Thánh Thần khai sinh vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Giáo Hội ấy "đang tiến bước trong cuộc lữ hành giữa bao bách hại của thế giới và giữa bao an ủi của Thiên Chúa" (113), trong khi cố gắng hướng đến sự hoàn thiện trong vinh quang thiên quốc. Vì Thiên Chúa đã muốn "toàn thể nhân loại trở thành một Dân của Thiên Chúa, làm nên một Thân Thể của Đức Kitô và được xây dựng thành một đền thờ của Chúa Thánh Thần" (114), nên trong thế giới này, Giáo Hội chính là "kế hoạch hữu hình của tình thương Thiên Chúa đối với nhân loại, là bí tích của ơn cứu độ" (115). Bởi đó, không thể hiểu Giáo Hội như là một tổ chức xã hội hay cơ quan phúc lợi xã hội. Dù còn gồm chứa nhiều người tội lỗi, Giáo Hội vẫn phải được coi là môi trường ưu việt cho Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau, cũng là nơi Thiên Chúa chọn mặc khải đời sống mầu nhiệm sâu xa của Ngài và thực hiện chương trình cứu độ thế giới.
24§2 Mầu nhiệm kế hoạch tình yêu ấy của Thiên Chúa đã hiện diện và hoạt động trong chính cộng đoàn những người đã từng nhờ phép Rửa mà cùng được mai táng trong cái chết với Đức Kitô, để rồi cũng như Đức Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết nhờ vinh quang của Chúa Cha, họ cũng được bước đi trong cuộc sống mới (x. Rm 6,4). Trọng tâm của mầu nhiệm Giáo Hội chính là mối hiệp thông nối kết Đức Kitô Lang Quân với mọi người đã lãnh nhận phép Rửa. Nhờ sự hiệp thông sống động và có khả năng đem lại sự sống ấy, "các Kitô hữu không còn thuộc về mình nữa, nhưng thuộc hẳn về Chúa" (116). Một khi kết hợp với Chúa Con trong mối dây yêu thương của Thánh Thần, các Kitô hữu cũng kết hợp với Chúa Cha, và từ sự hiệp thông này mà các Kitô hữu được hiệp thông với nhau qua Đức Kitô trong Thánh Thần (117). Nếu thế, mục tiêu trước tiên của Giáo Hội là phải sống bí tích biểu hiện sự kết hiệp thâm sâu của con người với Thiên Chúa và, vì sự hiệp thông giữa con người với nhau xuất phát từ sự hiệp thông của họ với Thiên Chúa nên Giáo Hội cũng là bí tích của sự hiệp nhất của nhân loại (118). Nơi Giáo Hội sự hiệp nhất ấy đã khởi sự. Nhưng Giáo Hội cũng đồng thời "là dấu chỉ và là dụng cụ" của sự hiệp nhất sẽ được hoàn thành trong tương lai (119).
24§3 Một đòi hỏi thiết yếu của đời sống trong Đức Kitô là bất cứ ai hiệp thông với Chúa thì phải sinh hoa kết quả: "Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái" (Ga 15,5). Như thế, cũng đúng khi bảo rằng ai không sinh hoa kết quả, thì người ấy đã không ở trong sự hiệp thông: "Cành nào không sinh hoa trái thì (Cha Thầy) sẽ tỉa đi" (Ga 15,2). Hiệp thông với Đức Giêsu, và từ đó phát sinh sự hiệp thông giữa các Kitô hữu với nhau, chính là điều kiện rất cần thiết để sinh hoa kết quả; và sự hiệp thông với người khác, một món quà của Đức Kitô và Thánh Thần, chính là hoa quả tuyệt vời mà cành cây có thể sinh ra. Hiểu như thế thì hiệp thông và truyền giáo là hai việc không thể tách rời nhau. Chúng thấm nhập và bao hàm lẫn nhau đến nỗi "hiệp thông vừa là gốc vừa là hoa quả của truyền giáo: hiệp thông phát sinh truyền giáo và truyền giáo được hoàn thành trong hiệp thông" (120).
24§4 Dựa trên thần học về hiệp thông, Công Đồng Vaticanô II đã mô tả Giáo Hội như là Dân Chúa đang hành hương, một dân mà tất cả các dân tộc đều có liên hệ cách này hay cách khác (121). Trên cơ sở đó, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh tới mối liên hệ nhiệm mầu giữa Giáo Hội và tín đồ các tôn giáo khác của Châu Á, ghi nhận rằng các tín đồ ấy "có liên hệ với Giáo Hội bằng nhiều cách và ở nhiều mức độ khác nhau" (122). Giữa đông đảo các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo khác nhau như thế, "càng thấy rõ Giáo Hội sống hiệp thông là quan trọng " (123). Quả thực, công việc phục vụ sự hiệp nhất do Giáo Hội thực hiện rất thích hợp cho Châu Á, vì tại đây đang có biết bao căng thẳng, chia rẽ và xung đột gây ra do những khác biệt về chủng tộc, xã hội, văn hóa, ngôn ngữ, kinh tế và tôn giáo. Chính trong bối cảnh này mà các Giáo Hội địa phương ở Châu Á, hiệp thông với Đấng Kế Vị thánh Phêrô, cần cổ võ sự hiệp thông nhiều hơn nữa trong tâm trí bằng cách cộng tác mật thiết giữa các Giáo Hội với nhau. Một điều cũng có ý nghĩa sống còn đối với sứ mạng phúc âm hóa là xây dựng các quan hệ với các Giáo Hội và các cộng đồng Kitô khác, cũng như với tín đồ các tôn giáo khác (124). Bởi đó, Thượng Hội Đồng nhắc lại sự dấn thân của Giáo Hội tại Châu Á vào nhiệm vụ cải thiện các quan hệ đại kết cũng như sự đối thoại giữa các tôn giáo, vì Thượng Hội Đồng nhìn nhận rằng xây dựng sự hiệp nhất, nỗ lực hòa giải, thiết lập các dây liên đới, xúc tiến việc đối thoại giữa các tôn giáo và các nền văn hóa, loại bỏ những thành kiến và gầy dựng sự tin tưởng giữa các dân tộc, đó chính là những yếu tố cần thiết để Giáo Hội thi hành sứ mạng phúc âm hóa trên châu lục này. Muốn vậy, toàn thể cộng đồng Công Giáo phải thành thật xét mình, phải can đảm tìm cách hòa giải và tiếp tục dấn thân đối thoại. Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba này, ai cũng thấy rõ là muốn có khả năng phúc âm hóa, Giáo Hội phải ra sức phục vụ cho sự nghiệp hiệp nhất ấy trong mọi chiều kích. Hiệp thông và truyền giáo phải đi đôi với nhau.
HIỆP THÔNG TRONG NỘI BỘ GIÁO HỘI
25. Quy tụ chung quanh Đấng Kế Vị thánh Phêrô, cùng cầu nguyện và làm việc với nhau, các giám mục trong Hội Nghị đặc biệt dành cho Châu Á đã trở thành hiện thân của sự hiệp thông Giáo Hội toàn cầu giữa các Giáo Hội địa phương rất đa dạng mà các ngài đang lãnh đạo trong đức ái. Sự có mặt của tôi tại các phiên họp chung của Thượng Hội Đồng vừa là một cơ hội tốt để tôi chia sẻ những niềm vui và hy vọng cũng như những lo lắng và băn khoăn của các giám mục, vừa là một dịp cho tôi thực hiện tác vụ của mình một cách sâu sắc và sung mãn hơn. Thật vậy, chính khi đặt mình trong viễn tượng hiệp thông Giáo Hội, người ta mới thấy rõ hơn thẩm quyền phổ quát của Đấng Kế Vị thánh Phêrô, trước hết không phải chủ yếu là quyền hành pháp lý trên các Giáo Hội địa phương nhưng trước tiên là quyền tối cao về mục vụ nhằm phục vụ sự hiệp nhất trong đức tin và đời sống của toàn thể Dân Chúa. Các Nghị Phụ ý thức rằng "trong vai trò Đấng Kế Vị thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng có nhiệm vụ tối cao là bảo đảm và cổ võ sự hiệp nhất trong Giáo Hội" (125), nên các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đánh giá cao sự phục vụ mà các Bộ của giáo triều Rôma và cơ quan ngoại giao của Tòa Thánh đóng góp cho các Giáo Hội địa phương, trong tinh thần hiệp thông và đồng đoàn (collegiality) của hàng giám mục (126). Sự phục vụ đó của các cộng sự viên thân cận với Đấng Kế Vị thánh Phêrô mang một nét chủ yếu là luôn tôn trọng và nhạy cảm trước sự đa dạng chính đáng của các Giáo Hội địa phương, của các nền văn hóa và dân tộc mà họ có dịp tiếp xúc.
25§2 Mỗi Giáo Hội địa phương phải được xây dựng vững vàng bằng cách tỏ ra cho mọi người thấy Giáo Hội luôn sống hiệp thông, vì đây chính là bản chất làm cho các cộng đoàn ấy là Giáo Hội. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã chọn cách diễn tả giáo phận là sự hiệp thông của các cộng đoàn chung quanh vị mục tử; trong đó giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân dấn thân vào một "cuộc đối thoại bằng đời sống và con tim của mình" , được nâng đỡ bằng ân sủng Thánh Thần (127). Giáo phận là nơi ưu tiên cho ta thấy hình ảnh sự hiệp thông của các cộng đoàn đang sống giữa bao thực tế xã hội, chính trị, tôn giáo, văn hóa và kinh tế phức tạp của Châu Á. Giáo Hội hiệp thông nghĩa là mỗi Giáo Hội địa phương phải trở thành "Giáo Hội tham gia (participatory Church)" , như cách nói của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, một Giáo Hội mà trong đó mọi người đều sống đúng ơn gọi riêng của mình và thi hành đúng vai trò riêng của mình. Muốn xây dựng "hiệp thông để truyền giáo" và "truyền giáo bằng hiệp thông" , người ta cần phải nhìn nhận, phát triển và sử dụng một cách hữu hiệu các đoàn sủng riêng của mỗi thành phần trong Giáo Hội (128). Cách riêng, cần cổ võ sự tham gia nhiều hơn nữa của giáo dân và các anh chị em sống đời thánh hiến trong việc lập kế hoạch mục vụ và quyết định những vấn đề mục vụ, thông qua các cơ chế mang tính tham gia như các Hội Đồng Mục Vụ và các Hội Nghị Giáo Xứ (129).
25§3 Tại mỗi giáo phận, giáo xứ vẫn là nơi thông thường cho tín hữu quy tụ lại để được lớn lên trong đức tin, để sống mầu nhiệm hiệp thông Giáo Hội và tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội. Thế nên, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng thúc giục các mục tử hãy tìm ra những phương cách mới mẻ và hữu hiệu để hướng dẫn các tín hữu, làm sao cho mỗi người, nhất là người nghèo, cảm nhận được mình thực sự là một thành viên của giáo xứ và của toàn thể Dân Chúa. Cùng với giáo dân lập kế hoạch mục vụ, điều đó phải trở thành một nét sinh hoạt bình thường của mọi giáo xứ (130). Thượng Hội Đồng đặc biệt lưu ý đến giới trẻ là thành phần mà "giáo xứ cần phải tạo nhiều cơ hội hơn để họ sống tình bằng hữu và hiệp thông với nhau nhờ các tổ chức tông đồ giới trẻ và các câu lạc bộ giới trẻ" (131). Không được tiên quyết loại trừ bất cứ ai mà không cho tham gia đầy đủ vào đời sống và sứ mạng của giáo xứ chỉ vì lý do xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa hay giáo dục. Nếu mỗi môn đệ Đức Kitô đều có chút gì để cống hiến cho cộng đoàn, thì cộng đoàn cũng phải tỏ ra sẵn sàng tiếp nhận và sử dụng sự cống hiến ấy.
25§4 Trong bối cảnh ấy và dựa trên kinh nghiệm mục vụ của mình, các Nghị Phụ nhấn mạnh tới giá trị của các cộng đoàn Giáo Hội cơ bản (basic ecclesial communities) như một phương thế hữu hiệu để cổ võ mọi người sống hiệp thông và tham gia trong các giáo xứ và giáo phận, và như một sức mạnh thật sự cho công cuộc phúc âm hóa (132). Những tập thể nhỏ bé ấy sẽ giúp các tín hữu sống thành những cộng đoàn đức tin, cầu nguyện và yêu thương như các Kitô hữu đầu tiên (x. Cv 2,44-47; 4,32-35). Các tập thể này còn giúp các thành viên sống Tin Mừng trong tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, từ đó trở thành điểm khởi hành vững chắc để xây dựng một xã hội mới, biểu hiện một nền văn minh tình thương. Cùng với Thượng Hội Đồng, tôi khuyến khích Giáo Hội tại Châu Á, chỗ nào có thể được, hãy coi các cộng đoàn cơ bản ấy như một nét tích cực trong công việc phúc âm hóa của Giáo Hội. Nhưng các cộng đoàn ấy chỉ thực sự hữu hiệu, khi biết hiệp thông với Giáo Hội địa phương và Giáo Hội toàn cầu, hiệp thông với các mục tử và Huấn Quyền của Giáo Hội từ trong đáy lòng, biết dấn thân cho việc truyền giáo mở rộng, không rơi vào tình trạng cô lập và không để cho một ý thức hệ nào lợi dụng khai thác, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã viết (133). Sự có mặt các cộng đoàn nhỏ này không được loại bỏ các tổ chức và cơ cấu đã được thiết lập, vì chúng vẫn luôn cần thiết để giúp Giáo Hội chu toàn sứ mạng của mình.
25§5 Thượng Hội Đồng cũng nhìn nhận vai trò của các phong trào canh tân (renewal movements) trong việc xây dựng sự hiệp thông, tạo các cơ hội cho người ta kinh nghiệm Thiên Chúa một cách thâm sâu hơn nhờ đức tin và các bí tích, và trong việc cổ võ sự hoán cải đời sống (134). Trách nhiệm của các mục tử là hướng dẫn, đồng hành và khuyến khích các tập thể ấy, để chúng có thể hội nhập tốt vào trong đời sống và sứ mạng của giáo xứ và giáo phận. Những ai tham gia các hiệp hội và các phong trào này hãy góp tay nâng đỡ Giáo Hội địa phương, không coi mình như những tổ chức thay thế các cơ chế giáo phận và đời sống giáo xứ. Sự hiệp thông trong Giáo Hội sẽ lớn mạnh hơn, khi những người lãnh đạo các phong trào tại địa phương biết cùng làm việc chung với các mục tử trong tinh thần bác ái, vì lợi ích của mọi người (x.1Cr 1,13).
SỰ LIÊN ĐỚI GIỮA CÁC GIÁO HỘI
26. Sự hiệp thông nội bộ nói trên sẽ góp phần xây dựng sự liên đới giữa chính các Giáo Hội địa phương. Quan tâm tới các nhu cầu tại địa phương là điều hợp tình hợp lý và cần thiết, nhưng để sống tinh thần hiệp thông, các Giáo Hội địa phương vẫn phải cởi mở tiếp nhận nhau và cộng tác với nhau, để dù dị biệt, các Giáo Hội ấy vẫn duy trì và diễn tả rõ ràng được mối hiệp thông với Giáo Hội toàn cầu. Muốn hiệp thông thì phải hiểu nhau và có sự phối hợp trong việc thi hành sứ mạng, mà vẫn không làm hại tới sự tự trị và quyền lợi của mỗi Giáo Hội theo truyền thống của Giáo Hội ấy về thần học, phụng vụ và tu đức. Tuy nhiên, lịch sử cũng cho thấy sự chia rẽ đã thường gây tổn thương cho các Giáo Hội Á Châu như thế nào. Qua nhiều thế kỷ, quan hệ giữa các Giáo Hội địa phương khác nhau về quyền tài phán, về truyền thống phụng vụ và cách truyền giáo đôi khi đã trở nên căng thẳng và khó khăn. Các giám mục có mặt tại Thượng Hội Đồng đã nhìn nhận rằng, ngay cả tới ngày nay ở Châu Á thỉnh thoảng vẫn xảy ra những chia rẽ đáng tiếc trong nội bộ và giữa các Giáo Hội địa phương với nhau, thường do khác biệt về nghi thức, ngôn ngữ, chủng tộc, giai cấp và ý thức hệ. Một số vết thương đã phần nào được chữa khỏi, nhưng vẫn chưa được lành mạnh hoàn toàn. Các Nghị Phụ nhận ra rằng chỗ nào yếu kém trong sự hiệp thông thì lời chứng và nỗ lực truyền giáo của Giáo Hội ở chỗ đó bị thiệt hại, các vị đã đề nghị những bước cụ thể để củng cố lại quan hệ giữa các Giáo Hội địa phương tại Châu Á. Cùng với những khuyến khích và nâng đỡ cần thiết về mặt thiêng liêng, các Nghị Phụ còn đề nghị phân phối linh mục cân bằng hơn, liên đới trong vấn đề tài chính một cách hữu hiệu hơn, trao đổi văn hóa và thần học và tạo nên nhiều cơ hội hơn nữa để các giáo phận kết nghĩa với nhau (135).
26§2 Các hiệp hội giám mục khu vực và lục địa, đặc biệt Hội Đồng các Thượng Phụ Công Giáo miền Trung Đông và Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã cùng nhau giúp cổ võ sự đoàn kết giữa các Giáo Hội địa phương và tạo điều kiện gặp gỡ cộng tác với nhau để giải quyết các vấn đề mục vụ. Tương tự như thế, cũng có nhiều trung tâm thần học, linh đạo và hoạt động mục vụ khắp Châu Á cổ võ sự hiệp thông và cộng tác một cách thực tiễn (136). Mọi người phải quan tâm làm sao cho các sáng kiến đầy hưá hẹn này được phát triển rộng rãi hơn vì lợi ích của cả Giáo Hội và xã hội tại Châu Á.
CÁC GIÁO HỘI CÔNG GIÁO ĐÔNG PHƯƠNG
27. Tình hình của các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, nhất là tại Trung Đông và Ấn Độ đáng được chú ý đặc biệt. Từ thời các tông đồ, đó đã là những nơi bảo tồn di sản thiêng liêng, phụng vụ và thần học rất quý giá. Những truyền thống và nghi lễ của họ phát xuất từ việc hội nhập văn hóa sâu xa của đức tin ngay trên nhiều quốc gia Á Châu, rất đáng cho chúng ta kính trọng. Cùng với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi kêu gọi mọi người hãy nhìn nhận những phong tục chính đáng và sự tự do chính đáng của các Giáo Hội này trong các vấn đề kỷ luật và phụng vụ, theo như Giáo Luật của các Giáo Hội Đông Phương quy định (137). Dựa vào giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II, chúng ta thấy cần phải cấp thiết vượt qua những nỗi lo sợ và hiểu lầm đôi khi xảy ra giữa các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương và Giáo Hội La Tinh, cũng như giữa chính các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương này với nhau, nhất là những gì liên quan đến việc chăm sóc mục vụ cho dân chúng của các Giáo Hội ấy, kể cả khi ở ngoài lãnh thổ của họ (138). Là con cái của một Giáo Hội duy nhất, được tái sinh trong sự sống mới nơi Đức Kitô, các tín hữu hãy tập đón nhận mọi sự trong tinh thần nhắm đến mục đích chung, luôn tin tưởng và yêu thương nhau. Không được để các sự xung đột gây ra những chia rẽ, mà thay vào đó, phải giải quyết các xung đột trong tinh thần trọng sự thật và tôn trọng lẫn nhau, vì ngoài tình thương ra, không thể có thiện ích (139).
27§2 Các Giáo Hội Đông Phương đáng kính ấy đang phải dấn thân trực tiếp vào cuộc đối thoại đại kết với các Giáo Hội chị em của mình là các Giáo Hội Chính Thống. Thượng Hội Đồng khuyến khích các Giáo Hội ấy cứ tiếp tục con đường đó (140). Họ cũng có nhiều kinh nghiệm quý báu về việc đối thoại giữa các tôn giáo, nhất là với Hồi Giáo. Điều này có thể có ích cho các Giáo Hội khác tại Châu Á và tại các nơi khác. Rõ ràng là các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương đang sở hữu một kho tàng rất phong phú gồm các truyền thống và kinh nghiệm có thể rất bổ ích cho toàn Giáo Hội.
CHIA SẺ HY VỌNG VÀ KHỔ ĐAU
28. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng ý thức tới nhu cầu phải hiệp thông và cộng tác một cách hữu hiệu với các Giáo Hội địa phương đã có mặt trong các lãnh thổ trước đây thuộc Liên Bang Xô Viết tại Châu Á, đang được tái thiết trong những hoàn cảnh cam go do hậu quả của một giai đoạn lịch sử khó khăn để lại. Giáo Hội luôn đồng hành với các Giáo Hội ấy trong lời cầu nguyện, chia sẻ những đau khổ và những hy vọng mới được tìm thấy. Tôi khuyến khích toàn thể Giáo Hội hãy hỗ trợ cho các Giáo Hội này về mặt đạo đức thiêng liêng cũng như vật chất, họ đang cần tới các nhân sự, có chức thánh hoặc không, để giúp các cộng đoàn ấy chia sẻ với các dân cư tại địa phương tình thương yêu của Thiên Chúa, đã được mặc khải nơi Đức Giêsu Kitô (141).
28§2 Tại nhiều nơi ở Châu Á, anh chị em chúng ta vẫn đang phải sống đức tin giữa nhiều hạn chế và thậm chí cả trong tình trạng tự do bị chối bỏ hoàn toàn. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng xin bày tỏ sự quan tâm và lo lắng đặc biệt đối với các chi thể đang đau khổ ấy của Giáo Hội. Cùng với các giám mục Á Châu, tôi xin mời gọi các anh chị em của các Giáo Hội ấy hãy kết hợp các đau khổ của mình với đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá, vì họ cũng như chúng ta đều biết rằng chỉ có thập giá khi đón nhận trong đức tin và đức mến, mới đem lại phục sinh và sự sống mới cho nhân loại. Tôi khuyến khích các Hội Đồng Giám Mục quốc gia tại Châu Á nên thành lập văn phòng trợ giúp các Giáo Hội ấy. Và tôi cam kết rằng: Tòa Thánh sẽ tiếp tục gần gũi và quan tâm tới những ai đang chịu bách hại vì niềm tin vào Đức Kitô (142). Tôi kêu gọi các chính phủ và các nhà lãnh đạo quốc gia hãy nhìn nhận và thực thi các chính sách bảo đảm tự do tôn giáo cho hết mọi công dân của mình.
28§3 Nhiều lần các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã hướng lòng trí về với Giáo Hội Công Giáo tại Trung Hoa lục địa và cầu xin cho sớm tới ngày anh chị em Trung Hoa thân yêu được hoàn toàn tự do thực hành đức tin trong sự hiệp thông trọn vẹn với Tông Tòa Thánh Phêrô và với Giáo Hội toàn cầu. Kính thưa anh chị em Trung Hoa, tôi xin gửi lời nhắn nhủ nhiệt tình này: đừng bao giờ để cho những khó khăn và đau khổ làm giảm lòng yêu mến Đức Kitô, hay làm sa sút lòng thiết tha của anh chị em đối với quốc gia vĩ đại của mình (143). Thượng Hội Đồng cũng bày tỏ sự liên đới chân tình với Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc, và ủng hộ "những nỗ lực của người Công Giáo giúp đỡ nhân dân Bắc Hàn đang phải chịu thiếu thốn cả những phương tiện sinh tồn tối thiểu, đồng thời tìm cách xây dựng sự hòa giải giữa hai quốc gia chung một dân tộc, một ngôn ngữ và một tài sản văn hóa" (144).
28§4 Cũng thế, Thượng Hội Đồng đã nhiều lần nhớ tới Giáo Hội tại Giêrusalem, một Giáo Hội chiếm một vị trí đặc biệt trong con tim mọi Kitô hữu. Thật vậy, những lời sau đây của ngôn sứ Isaia đã vang dội trong tâm hồn hằng triệu tín hữu trên khắp thế giới vì Giêrusalem chiếm một vị trí độc đáo và thân thương: "Hãy vui mừng với Giêrusalem, hãy vì thành đô mà hoan hỉ, hỡi tất cả những người yêu mến thành đô. . . để được thành đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang" (Is 66,10-11). Giêrusalem, vốn là một thành phố của sự hòa giải giữa con người và Thiên Chúa và giữa con người với nhau, nhưng lại thường xuyên trở thành nơi xung đột và chia rẽ. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng kêu gọi các Giáo Hội địa phương hãy liên đới với Giáo Hội tại Giêrusalem bằng cách chia sẻ những đau khổ, bằng cách cầu nguyện cho Giáo Hội ấy và cộng tác với họ trong việc phục vụ hòa bình, công lý và hòa giải giữa hai dân tộc và giữa ba tôn giáo đang hiện diện tại Thành Thánh (145). Tôi lặp lại lời kêu gọi mà tôi đã từng gửi tới các nhà lãnh đạo chính trị và các tôn giáo, cũng như tới mọi người thiện chí, xin mọi người hãy tìm ra những giải pháp để bảo đảm cho Giêrusalem được bình an và toàn vẹn. Như tôi đã từng viết, ước nguyện tha thiết của tôi là được đến đó trong một cuộc hành hương tôn giáo, như vị tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, để cầu nguyện tại Thành Thánh, là nơi Đức Giêsu Kitô đã sống, đã chết và đã sống lại, đồng thời để viếng thăm nơi mà từ đó các tông đồ với sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã ra đi loan báo Tin Mừng Đức Giêsu Kitô cho thế giới(146).
SỨ MẠNG ĐỐI THOẠI
29. Chủ đề chung trong các Thượng Hội Đồng của từng châu lục, giúp Giáo Hội chuẩn bị đón mừng Năm Đại Toàn Xá 2000, chính là công cuộc tân phúc âm hóa. Cần thiết phải mở ra một kỷ nguyên mới loan báo Tin Mừng không chỉ vì sau hai ngàn năm vẫn còn một phần lớn gia đình nhân loại chưa nhận biết Đức Kitô, mà cũng còn vì tình hình Giáo Hội và thế giới trước thềm thiên niên kỷ mới đang gặp nhiều thách đố đối với niềm tin tôn giáo và các chân lý đạo đức xuất phát từ niềm tin ấy. Gần như ở đâu cũng thấy có xu hướng xây dựng sự tiến bộ và thịnh vượng mà không cần quy chiếu vào Thiên Chúa, đồng thời giản lược chiều kích tôn giáo của con người vào lãnh vực riêng tư. Khi một xã hội tách ra khỏi chân lý căn bản nhất về con người, cụ thể như bị tách khỏi mối quan hệ giữa con người với Đấng Tạo Hóa, hoặc với sự cứu chuộc do Đức Kitô đem lại trong Chúa Thánh Thần, xã hội ấy chỉ có thể càng ngày càng lạc xa nguồn đích thực của sự sống, của tình yêu và hạnh phúc mà thôi. Thế kỷ đầy bạo lực này đang tiến nhanh tới hồi kết thúc đã cho ta một bằng chứng kinh hoàng về điều gì có thể xảy ra khi người ta bỏ rơi sự thật và sự tốt lành để chạy theo quyền lực và ham bành trướng. Tân phúc âm hóa như là một lời kêu gọi hoán cải, kêu gọi tới lãnh nhận ơn sủng và sự khôn ngoan, chính là niềm hy vọng đích thực duy nhất dẫn đưa tới một một thế giới tốt đẹp hơn và một tương lai sáng sủa hơn. Vấn đề còn lại không phải là Giáo Hội có điều gì cần thiết để nói với con người hôm nay không, mà là Giáo Hội phải nói điều ấy như thế nào cho minh bạch và có sức thuyết phục !
29§2 Trong thời gian nhóm họp Công Đồng Vaticanô II, Đức Giáo Hoàng tiền nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI đã tuyên bố trong tông thư Hội Thánh của Ngài (Ecclesiam suam) rằng, vấn đề quan hệ giữa Giáo Hội và thế giới hôm nay chính là một trong những mối bận tâm lớn nhất của thời đại chúng ta. Ngài viết rằng "vấn đề ấy đã xuất hiện và khẩn trương tới mức tạo ra một gánh nặng trên tâm hồn chúng ta, cũng như trở thành một yếu tố kích thích và một lời mời gọi" (147). Từ sau Công Đồng, Giáo Hội luôn tỏ ý muốn theo đuổi quan hệ ấy trong tinh thần đối thoại. Tuy nhiên, ước muốn đối thoại không phải chỉ là một kế hoạch để sống chung hòa bình giữa các dân tộc; nhưng còn là một phần thiết yếu trong sứ mạng Giáo Hội, vì nó xuất phát từ chính sự đối thoại yêu thương ban ơn cứu độ của Chúa Cha với nhân loại qua Chúa Con và trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Giáo Hội chỉ có thể hoàn thành sứ mạng của mình theo một cách tương ứng với cách Thiên Chúa đã làm trong Đức Giêsu Kitô: Ngài trở thành con người, chia sẻ cuộc sống con người của chúng ta và nói bằng ngôn ngữ loài người để truyền đạt sứ điệp cứu độ. Sự đối thoại mà Giáo Hội đề xuất được xây dựng trên nền tảng là lẽ tất nhiên của mầu nhiệm Nhập Thể. Bởi đó, không phải vì điều gì khác nhưng là do liên đới một cách nhiệt tình, vô vị lợi mà Giáo Hội đã mở cuộc đối thoại với những con người Á Châu đang tìm kiếm sự thật trong tình thương yêu.
29§3 Là bí tích của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại, Giáo Hội không thể làm gì khác hơn là tham gia đối thoại với mọi dân tộc, vào mọi thời và ở mọi nơi. Để đáp ứng sứ mạng đã lãnh nhận, Giáo Hội ra đi gặp gỡ các dân tộc trên thế giới, và ý thức mình là "đàn chiên nhỏ" giữa một tập thể nhân loại rộng lớn (x. Lc 12,32), nhưng cũng ý thức mình là men trong khối bột của thế giới (x. Mt 13,33). Những nỗ lực đối thoại của Giáo Hội trước hết nhằm tới những người cùng chia sẻ niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Tinh. Nỗ lực đó còn đi xa hơn thế giới Kitô Giáo để đến với những tín đồ thuộc các truyền thống tôn giáo khác, dựa trên căn bản là ai cũng có một tâm hồn khát vọng tôn giáo. Đối thoại đai kết và đối thoại liên tôn giáo chính là ơn gọi đích thực của Giáo Hội.
ĐỐI THOẠI ĐẠI KẾT
30. Đối thoại đại kết là một thách đố và là lời kêu gọi toàn thể Giáo Hội hoán cải, cách riêng tại Châu Á, vì tại đây người ta đang trông đợi các Kitô hữu biểu lộ một dấu hiệu hiệp nhất rõ ràng hơn. Để mọi dân tộc tập họp lại với nhau nhờ hồng ân Thiên Chúa, cần phải khôi phục lại sự hiệp thông giữa những người cùng tin nhận Đức Giêsu Kitô là Chúa. Chính bản thân Đức Giêsu cũng đã cầu nguyện và không ngừng kêu gọi xây dựng sự hiệp nhất hữu hình giữa các môn đệ, để thế giới nhờ đó tin rằng Chúa Cha đã sai Ngài (x. Ga 17,21) (148). Nhưng, ý nguyện của Ngài muốn Giáo Hội hiệp nhất vẫn phải chờ đợi các môn đệ của Ngài đáp trả một cách trọn vẹn và can đảm.
30§2 Tại chính Châu Á, vì là nơi số Kitô hữu tương đối nhỏ, nên sự chia rẽ càng làm cho công việc truyền giáo trở nên khó khăn hơn. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhìn nhận rằng "gương xấu do Kitô Giáo chia rẽ nhau đúng là một trở ngại lớn cho công cuộc phúc âm hóa tại Châu Á"(149). Thật vậy, nhiều người Á Châu trong khi đang tìm kiếm sự hòa hợp và thống nhất qua tôn giáo và văn hóa của họ, đã coi sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là một phản chứng đi ngược lại tinh thần Đức Giêsu Kitô. Bởi đó, Giáo Hội Công Giáo tại Châu Á cảm thấy bị thôi thúc đặc biệt phải cùng với các Kitô hữu khác hoạt động cho sự hiệp nhất, với ý thức rằng muốn tìm sự hiệp thông trọn vẹn, mọi người phải sống bác ái, biết phân định, can đảm và hy vọng. "Muốn công cuộc đại kết được đích thực và kết quả, phía người Công Giáo cần phải có một số thái độ căn bản: trước hết là bác ái, biểu lộ một lòng tốt, một khát vọng sống động muốn cộng tác mỗi khi có thể với tín hữu các Giáo Hội và các Cộng Đồng khác; thứ đến là trung thành với Giáo Hội Công Giáo, dù vẫn không làm ngơ hay phủ nhận những khuyết điểm của một số thành phần trong Giáo Hội; ba là phải có óc phân định để biết đánh giá tất cả những gì là tốt đẹp và đáng ngợi khen. Sau cùng cũng cần phải chân thành ước ao được thanh tẩy và được đổi mới" (150).
30§3 Dù vẫn nhìn nhận còn nhiều khó khăn trong các quan hệ giữa các Kitô hữu, không những do các thành kiến kế thừa từ quá khứ, mà còn do những phê phán phát xuất từ những xác tín sâu xa liên hệ đến lương tâm (151), nhưng các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng vẫn nêu ra những dấu chỉ phản ánh các quan hệ đã được cải thiện giữa một số Giáo Hội Kitô và Cộng Đồng Giáo Hội khác tại Châu Á. Chẳng hạn các Kitô hữu Công Giáo và Chính Thống thường nhìn nhận giữa hai bên có sự thống nhất về văn hóa, có ý thức đang cùng nhau chia sẻ nhiều yếu tố quan trọng của chung một truyền thống Giáo Hội. Những điều này làm nên cơ sở vững chắc để công cuộc đối thoại đại kết được hữu hiệu tiếp tục đi vào thiên niên kỷ tới, một thiên niên kỷ mà chúng ta hy vọng và cầu xin cuối cùng sẽ chấm dứt những chia rẽ đã diễn ra trong thiên niên kỷ sắp sửa kết thúc này.
30§4 Trên bình diện thực hành, Thượng Hội Đồng đề nghị các Hội Đồng Giám Mục quốc gia tại Châu Á hãy mời các Giáo Hội Kitô Giáo khác tham gia công cuộc cầu nguyện và tham khảo bàn bạc để tìm ra những khả năng xây dựng những cơ cấu và tổ chức mới mang tính đại kết, để giúp đẩy mạnh sự hiệp nhất các Kitô hữu. Tổ chức tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu sao cho kết quả hơn, cũng là một đề xuất hữu ích của Thượng Hội Đồng. Thượng Hội Đồng khuyến khích các giám mục thành lập và chủ trì các trung tâm đại kết dành để cầu nguyện và trao đổi; cũng cần phải đưa việc đào tạo tương xứng cho công cuộc đối thoại đại kết vào trong chương trình học của các chủng viện, các nơi đào tạo và các cơ sở giáo dục.
ĐỐI THOẠI GIỮA CÁC TÔN GIÁO
31. Trong Tông Thư Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba (Tertio Millennio Adveniente), tôi đã chỉ ra rằng thiên niên kỷ mới sắp tới là một cơ hội tốt cho việc đối thoại giữa các tôn giáo và cho các cuộc gặp gỡ các nhà lãnh đạo các tôn giáo lớn trên thế giới (152). Tiếp xúc, đối thoại và cộng tác với tín đồ các tôn giáo khác chính là một công việc mà Công Đồng Vaticanô II đã giao cho toàn thể Giáo Hội làm như một bổn phận và một thách đố. Những nguyên tắc hướng dẫn việc tìm kiếm mối quan hệ tích cực với các truyền thống tôn giáo khác đã được nêu ra trong Tuyên Ngôn của Công Đồng: Thời đại chúng ta (Nostra aetate), ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965, đây chính là bản hiến chương của việc đối thoại liên tôn giáo trong thời đại chúng ta. Đứng trên quan điểm Kitô Giáo, đối thoại liên tôn giáo không phải chỉ là một cách để giúp các bên biết nhau và làm giàu cho nhau. Nhưng đó còn là một phần trong chính sứ mạng phúc âm hóa của Giáo Hội, là một cách biểu hiện sứ mạng "đến với lương dân" (153). Khi tham gia đối thoại liên tôn giáo, các Kitô hữu xác tín rằng chỉ có Đức Kitô mới đem lại sự cứu độ trọn vẹn và cộng đoàn Giáo Hội mà họ đang thuộc về là phương thế thông thường (ordinary means) để được ơn cứu độ (154). Đến đây tôi xin nhắc lại những gì tôi đã viết cho Hội Nghị khoáng đại lần thứ năm của Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu: "Dù Giáo Hội vui sướng nhìn nhận bất cứ điều gì là chân thật và thánh thiện trong các truyền thống tôn giáo của Phật Giáo, Ấn Độ Giáo và Hồi Giáo, xem đó như phản ảnh một sự thật đang soi sáng cho mọi người, nhưng như thế không có nghĩa là Giáo Hội giảm nhẹ nhiệm vụ và quyết tâm tuyên bố Đức Giêsu Kitô là "đường, là sự thật và là sự sống"…Sự kiện các tín đồ các tôn giáo khác vẫn có thể nhận được ơn Thiên Chúa và được Đức Kitô cứu độ ngoài phương thế thông thường mà Ngài đã lập ra, điều ấy không loại bỏ việc Thiên Chúa vẫn kêu gọi họ đến nhận lãnh đức tin và phép rửa như Ngài hằng mong muốn cho hết mọi người" (155).
31§2 Trong tiến trình đối thoại ấy, như tôi đã viết trong Tông Thư Sứ Vụ Đấng Cứu Thế (Redemptoris Missio), là "không loại bỏ nguyên tắc cũng không thoả hiệp giả tạo, mà ngược lại phải cùng nhau trao đổi những chứng tá, giúp nhau cùng tiến tới trên con đường tìm kiếm và sống kinh nghiệm tôn giáo, đồng thời giúp nhau xóa bỏ thành kiến, thái độ bất khoan dung và hiểu lầm " (156). Chỉ những ai có đức tin Kitô Giáo trưởng thành và xác tín mới đủ tư cách dấn thân vào việc đối thoại liên tôn giáo đích thực. "Chỉ những Kitô hữu nào từng đắm mình trong mầu nhiệm Đức Kitô và đang sống hạnh phúc trong cộng đoàn đức tin mới có thể dấn thân vào các cuộc đối thoại liên tôn giáo mà không sợ gặp bất trắc quá mức, nhưng hy vọng gặt hái được những hoa trái tốt đẹp" (157). Bởi đó, Giáo Hội tại Châu Á cần phải giới thiệu những mô hình xứng hợp cho việc đối thoại liên tôn giáo - phúc âm hóa trong đối thoại và đối thoại để phúc âm hóa, đồng thời cung cấp cho những người tham gia việc đối thoại ấy một sự đào tạo thích đáng.
31§3 Sau khi nhấn mạnh sự cần thiết phải có niềm tin vững chắc vào Đức Kitô trong việc đối thoại liên tôn giáo, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng tiếp tục đề cập tới nhu cầu phải đối thoại bằng cuộc sống và bằng tấm lòng. Khi gặp gỡ và đối thoại, người môn đệ Đức Kitô phải có con tim dịu dàng và khiêm tốn của Thầy mình, đừng bao giờ tự phụ, cũng đừng bao giờ tỏ vẻ trịnh thượng (x. Mt 11,29). "Những quan hệ giữa các tôn giáo sẽ được phát triển tốt đẹp hơn khi biết sống cởi mở đối với các tín hữu Tôn giáo khác và khi lắng nghe, tôn trọng và thông cảm với người khác trong những dị biệt của họ. Để làm được tất cả như thế, cần phải có tình yêu đối với người khác. Từ đó mới có sự cộng tác, hòa hợp và làm giàu cho nhau" (158).
31§4 Để hướng dẫn những người tham gia vào tiến trình này, Thượng Hội Đồng đề nghị sẽ thảo ra một tập chỉ nam về việc đối thoại liên tôn giáo (159). Trong lúc Giáo Hội tìm kiếm những phương thức mới để gặp gỡ các tôn giáo khác, tôi xin nêu ra một số hình thức đối thoại đã được tiến hành có kết quả, từ việc trao đổi mang tính uyên thâm (scholarly) giữa các chuyên gia về các truyền thống tôn giáo hay giữa các đại biểu của các truyền thống ấy, cho đến việc cùng nhau hoạt động cho sự phát triển con người toàn diện và bảo vệ các giá trị nhân bản, tôn giáo (160). Tôi xin lặp lại, việc làm sống lại tinh thần cầu nguyện và chiêm niệm trong khi tiến hành việc đối thoại liên tôn giáo thì quan trong biết bao. Các nam nữ tu sĩ có thể đóng góp một cách rất có ý nghĩa vào việc đối thoại liên tôn giáo bằng cách minh chứng sức sống của các truyền thống lớn về đời khổ hạnh và thần hiệp (mysticism) của Kitô Giáo (161).
31§5 Cuộc gặp gỡ đáng nhớ tại Assisi, thành phố quê hương Thánh Phanxicô, ngày 27 tháng 10 năm 1986, giữa Giáo Hội Công Giáo và đại biểu các tôn giáo khác trên thế giới, đã cho thấy rằng mọi người có tôn giáo không cần phải từ bỏ truyền thống của mình, vẫn có thể dấn thân cầu nguyện và hoạt động cho hòa bình và thiện ích của nhân loại (162). Giáo Hội phải tiếp tục cố gắng duy trì và cổ võ ở mọi cấp độ tinh thần giao lưu và cộng tác giữa các tôn giáo ấy.
31§6 Hiệp thông và đối thoại là hai khía cạnh căn bản trong sứ mạng Giáo Hội, mà một mẫu gương vô cùng siêu việt cho việc này là chính Mầu Nhiệm Ba Ngôi; Ngài là cội nguồn và cũng là cùng đích của mọi sứ mạng. Một trong những món "quà lớn mừng sinh nhật" mà các thành viên Giáo Hội, nhất là các mục tử, có thể dâng lên Chúa Tể lịch sử nhân dịp mừng Ngài nhập thể năm thứ 2000, chính là củng cố tinh thần hiệp nhất và hiệp thông ở mỗi cấp trong sinh hoạt Giáo Hội, tức là đổi mới sự "tự hào thánh thiện" về lòng trung thành liên lỷ của Giáo Hội đối với những gì được ban tặng cho mình, đồng thời cũng đổi mới niềm tin tưởng vào ơn thánh và sứ mạng bất biến đã đưa Giáo Hội lên đường đến với các dân tộc trên thế giới để làm chứng cho tình thương và lòng nhân từ cứu độ của Thiên Chúa. Chỉ khi nào Dân Chúa nhận ra rằng món quà mình nhận được cũng là món quà trong Đức Kitô, họ mới có thể chuyển món quà ấy cho người khác qua việc loan báo và đối thoại.
Chú Thích :
(113) Thánh Augustinô, "De Civitate Dei", XVIII, 51, 2 : PL 41, 614 ; x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế "Ánh sáng muôn dân", 8.
(114) Thánh Augustinô, "De Civitate Dei", XVIII, 51, 2 : PL 41, 614 ; x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế "Ánh sáng muôn dân", 8.
(115) Đức Phaolô VI, "Diễn văn trước Hồng Y đoàn" (22.6.1973) : AAS 65 (1973), 391.
(116) Đức Gioan-Phaolô II, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng "Người kitô hữu giáo dân" (30.12.1988), 18 : AAS 81 (1989), 421.
(117) X. như trên ; hiến chế "Ánh sáng muôn dân", 4.
(118) X. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 775.
(119) X. như trên.
(120) Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn "Người Kitô hữu giáo dân", 32 : AAS 81 (1989), 451t.
(121) X. Hiến chế "Ánh sáng muôn dân", 16.
(122) Đề nghị 13.
(123) X. như trên.
(124) X. "Tường trình trước khi thảo luận":L'Osservatore Romano (22.4.1998), 6.
(125) Đề nghị 13 ; x. Hiến chế "Ánh sáng muôn dân", 22.
(126) X. đề nghị 13.
(127) X. Đề nghị 15 ; Bộ Giáo Lý Đức Tin, "Thư gửi các giám mục Hội Thánh Công Giáo về một số khía cạnh của Giáo Hội, được hiểu như sự hiệp thông theo 'Ý niệm Hiệp Thông'" (28.5.1992), 3-10 : AAS 85 (1993), 839-844.
(128) X. Đề nghị 15.
(129) X. như trên.
(130) X. Đề nghị 16.
(131) X. Đề nghị 34.
(132) X. đề nghị 30 ; x.Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế", 51: AAS 83 (1991), 298.
(133) X. tông huấn "Loan báo Tin Mừng", 58 : AAS 68 (1976), 46-49 ; Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế", 51 : AAS 83 (1991), 299.
(134) X. Đề nghị 31
(135) X. Đề nghị 14.
(136) X. "Tường trình trước khi thảo luận":L'Osservatore Romano (22-4-1998), 6.
(137) X. Đề nghị 50.
(138) X. Đề nghị 36 và 50.
(139) X. Đức Gioan-Phaolô II, "Diễn văn tại Thượng Hội Đồng các giám mục Giáo Hội theo nghi lễ Syro-Malabar" (8.1.1996), 6 : AAS 88 (1996), 41.
(140) X. Đề nghị 50.
(141) X. Đề nghị 56.
(142) X. Đề nghị 51.
(143) X. Đề nghị 52.
(144) X. Đề nghị 53.
(145) X. đề nghị 57.
(146) X. "Thư đề cập đến việc hành hương tại các địa điểm có liên quan tới lịch sử cứu độ", 7 : L'Osservatore Romano , 9.
(147) AAS 56 (1964), 613.
(148) X. Đề nghị 42.
(149) X. như trên.
(150) Đức Gioan-Phaolô II, "Diễn văn tại buổi triều yết chung" (26-6-1995), 4 : Insegnamenti XVIII, 2 (1995), 138.
(151) X. "Diễn văn tại buổi triều yết chung" (20-01-1982), 2 : Insegnamenti V, 1 (1982), 162.
(152) X. Số 53 : AAS 83 (1995), 307.
(153) Đức Gioan Phaolô II. x Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế", 55 : AAS 87 (1991), 302.
(154) X. như trên. 304
(155) Số 4 : AAS 83 (1991), 101f.
(156) Số 56 : AAS 83 (1991), 304.
(157) Đề nghị 41.
(158) X. như trên.
(159) X. như trên
(160) X. Đức Gioan Phaolô II. Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế", 57 : AAS 83 (1991), 305.
(161) X. Đức Gioan Phaolô II. Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng "Đời sống thánh hiến" (25.3.1996), 8 : AAS 88 (1996), 383.
(162) X. Đức Gioan Phaolô II. Tông thư "Quan tâm đến xã hội" (30.12.1987), 47 : AAS 80 (1988), 582.
Ban Dịch Thuật
CHƯƠNG SÁU
PHỤC VỤ THĂNG TIẾN CON NGƯỜI
Châu Á là lục địa đông dân nhất, nhưng đa số lại là những người nghèo khổ và bị áp bức. Giáo Hội mời gọi con cái mình hiệp thông với họ không những trong niềm tin mà trong ngay trong cuộc sống, nghĩa là dấn thân vào việc thăng tiến con người cách toàn diện và thực sự.
Giáo Hội không làm nhiệm vụ tổ chức xã hội, nên không đưa ra những giải pháp chuyên môn nhằm giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng Giáo Hội có một học thuyết xã hội với những nguyên tắc hướng dẫn nhằm phát triển con người không những về mặt kinh tế, xã hội… mà còn về mặt bảo vệ, thăng tiến phẩm giá con người, ưu tiên là người nghèo, như : bảo vệ sự sống, chăm sóc sức khỏe, đề cao giáo dục, xây dựng hòa bình, ngăn chặn những tiêu cực của việc toàn cầu hóa, giảm hoặc xóa nợ của các nước nghèo, bảo vệ môi trường. Tóm lại là nhằm tiếp cận với mọi người để cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương.
HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI
32. Trong việc phục vụ gia đình nhân loại, Giáo Hội tìm cách tiếp cận với mọi người không phân biệt nam nữ, cố gắng cùng với họ xây dựng một nền văn minh tình thương, dựa trên các giá trị phổ quát như hòa bình, công lý, liên đới và tự do, những giá trị ấy được kiện toàn nơi Đức Kitô. Như Công Đồng Vaticanô II đã phát biểu một cách rất đáng ghi nhớ: "Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ"(163). Nếu thế, Giáo Hội tại Châu Á với đông đảo người nghèo và người bị áp bức được mời gọi hiệp thông trong sự sống, thể hiện đặc biệt qua việc yêu thương phục vụ người nghèo và những người không được bảo vệ.
32§2 Gần đây càng ngày Huấn Quyền Giáo Hội càng nhấn mạnh nhiều hơn tới nhu cầu phải đẩy mạnh sự phát triển con người vừa đích thực vừa toàn diện (164), đó là để đáp ứng với tình cảnh hiện thực của các dân tộc trên thế giới, cũng như đáp lại sự ý thức ngày càng tăng rằng không những hành vi của cá nhân mà còn của cả các cơ cấu trong đời sống xã hội, chính trị và kinh tế nhiều khi thù nghịch với sự ấm no hạnh phúc của con người. Những sự mất cân đối do hố sâu ngày càng tăng giữa một bên là những người đang thừa hưởng khả năng ngày một lớn trên cả thế giới để làm giàu, và một bên là những người bị gạt ra bên lề sự tiến bộ, những mất cân đối đó buộc chúng ta phải thay đổi triệt để não trạng cũng như cơ chế để đem lại lợi ích cho con người. Một thách đố tinh thần rất lớn có liên hệ đến sự phát triển mà các quốc gia và cộng đồng quốc tế phải đương đầu, chính là phải có can đảm xây dựng một tình liên đới mới, có khả năng đưa ra những sáng kiến tân tiến và hữu hiệu để khắc phục tình trạng kém phát triển có hại cho nhân phẩm cũng như tình trạng "phát triển quá độ" , đang nhằm giản lược con người thành một đơn vị kinh tế càng ngày càng chịu áp lực của cả một mạng lưới tiêu thụ. Để tạo nên sự thay đổi ấy, "Giáo Hội không đưa ra những giải pháp mang tính kỹ thuật" , mà chỉ xin "trước hết là góp phần vào việc giải quyết vấn đề khẩn cấp về phát triển khi Giáo Hội công bố sự thật về Đức Kitô, về bản thân Giáo Hội và về con người, bằng cách đưa sự thật ấy vào trong một tình huống cụ thể" (165). Cuối cùng, sự phát triển con người không bao giờ là một vấn đề thuần túy kỹ thuật hay kinh tế; mà tự căn bản đó chính là một vấn đề nhân bản và đạo đức.
32§3 Học thuyết xã hội của Giáo Hội, đưa ra một loạt các nguyên tắc để suy nghĩ, các tiêu chuẩn để phê phán và các chỉ dẫn để hành động (166), là học thuyết được gửi tới trước hết cho các thành viên của Giáo Hội. Các tín hữu tham gia vào việc thăng tiến con người nhất thiết phải nắm thật vững toàn bộ giáo huấn quý giá này, xem đó như là một phần thiết yếu của toàn bộ sứ mạng phúc âm hóa. Thế nên, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng phải huấn luyện vững chắc các tín hữu về học thuyết xã hội của Giáo Hội qua các hoạt động giáo dục, nhất là qua các chủng viện và các cơ sở đào tạo (167). Các Kitô hữu ở cương vị lãnh đạo trong Giáo Hội và Xã Hội, nhất là các giáo dân có trách nhiệm trong đời sống công cộng, cần được đào tạo kỹ lưỡng trong học thuyết này để họ có thể tạo cảm hứng và truyền sức sống cho xã hội dân sự và những cơ cấu xã hội, bằng chính men Tin Mừng (168). Học thuyết xã hội của Giáo Hội không những nhắc nhở các Kitô hữu ở cương vị lãnh đạo về bổn phận của họ, mà còn đề xướng cho họ những đường hướng để hoạt động nhằm phục vụ sự phát triển con người, và giải thoát họ khỏi những ý niệm sai lạc về con người cũng như về sinh hoạt của con người.
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI
33. Con người, chứ không phải của cải hay kỹ thuật, là tác nhân chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Thế nên, sự phát triển mà Giáo Hội cổ võ vượt xa những vấn đề kinh tế và kỹ thuật. Sự phát triển ấy khởi đầu và kết thúc với sự toàn vẹn của con người, đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được Thiên Chúa ban cho một phẩm giá cũng như các quyền con người bất khả nhượng. Các bản Tuyên Ngôn Quốc Tế khác nhau về các quyền con người cũng như nhiều sáng kiến được khởi hứng từ các tuyên ngôn ấy là một dấu hiệu cho thấy, trên cấp độ toàn cầu càng ngày người ta càng quan tâm tới phẩm giá con người. Không may, trong thực tế, các bản tuyên ngôn này thường xuyên bị vi phạm. Đã năm mươi năm sau ngày long trọng công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, mà nhiều dân tộc vẫn còn là nạn nhân của những hình thức bóc lột và thao túng làm hạ phẩm giá, biến họ thành nô lệ thực sự cho những người quyền thế hơn, cho một ý thức hệ, cho quyền lực kinh tế, cho những hệ thống chính trị đàn áp, cho chủ nghĩa khoa học kỹ thuật thống trị hay sự xâm nhập trắng trợn của các phương tiện truyền thông đại chúng (169).
33§2 Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ý thức rất rõ tại nhiều nơi trên thế giới quyền con người vẫn liên tục bị xâm phạm, nhất là tại Châu Á, nơi có "biết bao nhiêu triệu người đang phải chịu sự kỳ thị, bóc lột, nghèo đói và bị gạt ra bên lề xã hội" (170). Các ngài đã nói lên nhu cầu đặt ra cho toàn thể Dân Chúa tại Châu Á là phải nhận thức rõ về sự thách đố không thể né tránh hay từ khước được, khi phải bênh vực các quyền con người, và cổ vũ cho công lý và hòa bình.
ƯU TIÊN YÊU THƯƠNG NGƯỜI NGHÈO
34. Trong khi tìm cách thăng tiến phẩm giá con người, Giáo Hội tỏ ra ưu tiên yêu thương người nghèo và những người không có tiếng nói, vì Chúa đã tự đồng hóa mình với họ một cách đặc biệt (x. Mt 25,40). Tình thương ấy không loại trừ ai, mà chỉ thể hiện một sự ưu tiên trong phục vụ như toàn bộ truyền thống Kitô Giáo đã làm chứng. "Ưu tiên yêu thương người nghèo và có những quyết định xuất phát từ tình thương ấy không là gì khác hơn là muốn rộng tay đón nhận lấy hết con số đông đảo những người đói khát, túng thiếu, vô gia cư, những người không được chăm sóc về y tế, và nhất là những người không hy vọng có một tương lai tốt đẹp hơn. Không thể làm ngơ trước những thực tế ấy. Làm ngơ không biết đến họ tức là đã bắt chước "ông nhà giàu" làm bộ không biết người hành khất Lazarô nằm trước cổng nhà mình (x. Lc 16,19-31)" (171). Điều này đặc biệt đúng đối với Châu Á, một lục địa có tài nguyên phong phú và có những nền văn minh lớn, nhưng lại là địa bàn của một số quốc gia nghèo nhất trên thế giới, và là nơi có hơn nửa dân số phải chịu thiếu thốn, nghèo đói và bị bóc lột (172). Những người nghèo tại Châu Á cũng như những người nghèo trên thế giới sẽ luôn luôn tìm được lý do vững chắc để hy vọng trong chính mệnh lệnh Tin Mừng dạy chúng ta phải yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta (x.Ga13,34); Giáo Hội tại Châu Á cũng không thể làm gì khác hơn là ra sức thi hành mệnh lệnh ấy đối với người nghèo, trong lời nói cũng như trong hành động.
34§2 Sự liên đới với người nghèo sẽ trở nên đáng tin hơn, nếu bản thân các Kitô hữu cũng sống giản dị, theo gương Đức Giêsu. Sống giản dị, tin sâu xa và yêu chân thành mọi người, nhất là đối với người nghèo và những người bị bỏ rơi, là những dấu hiệu sáng ngời cho thấy Tin Mừng đang được thi hành. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng kêu gọi các người công giáo Á Châu hãy chấp nhận một lối sống phù hợp với giáo huấn Tin Mừng, để phục vụ công cuộc truyền giáo của Giáo Hội một cách tốt đẹp hơn và để Giáo Hội trở thành Giáo Hội của người nghèo và cho người nghèo (173).
34§3 Trong khi yêu thương người nghèo tại Châu Á, Giáo Hội quan tâm cách riêng tới những người di cư, những dân tộc bản địa và bộ tộc, phụ nữ và trẻ em, vì họ thường là nạn nhân của những hình thức bóc lột tồi tệ nhất. Ngoài ra, vô số người đang bị kỳ thị vì văn hóa, màu da, chủng tộc, giai cấp, tình trạng kinh tế, hay vì cách suy nghĩ của mình. Trong số đó có cả những người bị biến thành nạn nhân chỉ vì đã gia nhập Kitô giáo (174). Tôi xin hiệp ý với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng kêu gọi mọi quốc gia hãy nhìn nhận quyền tự do tôn giáo, và các quyền căn bản khác của con người (175).
34§4 Hiện nay, Châu Á đang chứng kiến một làn sóng người tị nạn, người tìm kiếm chỗ trú ẩn, người di cư và người lao động ở nước ngoài mà trước đây chưa từng có. Tại những nước mà họ đến, họ thường thấy mình rơi vào tình cảnh không người thân, xa lạ về văn hóa, bất lợi về ngôn ngữ và bị thiệt thòi về kinh tế. Họ cần được trợ giúp và chăm sóc để gìn giữ nhân phẩm và di sản văn hóa cũng như tôn giáo của mình (176). Dù bị giới hạn về nguồn lực, Giáo Hội tại Châu Á nỗ lực trở thành nơi quảng đại tiếp đón những con người mệt mỏi và nặng gánh đau thương ấy, vì biết rằng họ sẽ tìm đựợc sự nghỉ ngơi nơi Trái Tim Chúa Giêsu, là nơi không ai là người xa lạ cả (x. Mt 11,28-29).
34§5 Hầu như ở nước nào của Châu Á cũng có đông đảo người bản xứ, mà một số trong họ đang sống trong điều kiện kinh tế thấp nhất. Thượng Hội Đồng một lần nữa ghi nhận rằng các dân bản xứ hay bộ tộc ấy lại thường cảm thấy bị cuốn hút bởi con người Đức Giêsu Kitô và Giáo Hội Ngài, như là một cộng đoàn yêu thương và phục vụ (177). Đây chính là cánh đồng bao la cho các hoạt động giáo dục và y tế, cũng như cho việc cổ võ dấn thân xã hội. Cộng đoàn Công Giáo cần gia tăng công việc mục vụ giữa những người này bằng việc quan tâm tới các ưu tư và các vấn đề công bằng đang tác động lên đời sống của họ. Muốn thế, phải tỏ lòng kính trọng sâu xa đối với tôn giáo truyền thống của họ và các giá trị của tôn giáo ấy. Cũng cần phải giúp họ biết tự giúp lấy mình, để họ có thể làm việc mà cải thiện hoàn cảnh của họ, hầu trở thành các người phúc âm hóa chính nền văn hóa và xã hội của mình (178).
34§6 Không ai có thể thờ ơ mãi trước đau khổ của vô số trẻ em tại Châu Á, đang trở thành nạn nhân của bóc lột và bạo lực kinh khủng tới mức không thể chịu đựng được, không phải điều đó chỉ do tội ác của những cá nhân mà thường là hậu quả trực tiếp của những cơ chế xã hội thối nát. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã ghi nhận rằng, việc bắt trẻ em lao động, lạm dụng tình dục trẻ em và trào lưu nghiện ngập ma tuý là những tệ đoan xã hội làm hại tới trẻ em trực tiếp nhất. Thêm vào đó, còn có những tệ đoan khác như tình trạng nghèo đói, và những chương trình phát triển quốc gia quy hoạch sai lầm (179). Giáo Hội phải làm hết sức để khắc phục những tệ đoan ấy, để hành động nhân danh những người bị bóc lột nhiều nhất và để tìm cách hướng dẫn những đứa trẻ ấy đến với tình yêu của Đức Giêsu vì Nước Trời là của chúng (x. Lc 18,16) (180).
34§7 Thượng Hội Đồng bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đối với các phụ nữ đang sống trong tình cảnh vẫn còn đặt ra những vấn đề trầm trọng tại Châu Á, bị kỳ thị và bạo hành nhiều khi tại trong chính gia đình mình, ở nơi làm việc và ngay cả trong hệ thống luật pháp. Mù chữ là hiện tượng phổ biến nhất trong giới phụ nữ, và nhiều phụ nữ chỉ được đối xử như một món hàng trong nghề mãi dâm, du lịch và công nghiệp giải trí (181). Trong cuộc đấu tranh chống lại mọi hình thức bất công và kỳ thị, phụ nữ có thể tìm được đồng minh nơi cộng đoàn Kitô hữu, và vì lý do này, Thượng Hội Đồng đề nghị, các Giáo Hội địa phương tại Châu Á nơi nào có thể nên cổ võ hoạt động phục vụ nhân quyền bênh vực cho phụ nữ. Mục đích là làm sao tạo ra một sự thay đổi trong thái độ, nhờ hiểu biết thích đáng vai trò thuộc bản tính của nam và nữ trong gia đình, trong xã hội và trong Giáo Hội, nhờ ý thức sâu sắc hơn tính bổ sung nguyên thủy giữa người nam và người nữ, và nhờ đánh giá đúng hơn tầm quan trọng của vai trò phụ nữ trong mọi lãnh vực của đời sống con người. Những đóng góp của người phụ nữ rất thường bị đánh giá thấp hay bỏ qua, đưa tới hậu quả là nhân tính đã bị nghèo đi về tinh thần. Giáo Hội tại Châu Á sẽ làm nổi bật phẩm giá và tự do của người phụ nữ một cách rõ ràng và hiệu quả hơn bằng cách khuyến khích phụ nữ tham gia vào đời sống của Giáo Hội, kể cả trong đời sống trí thức của Giáo Hội, và bằng cách luôn mở ra cho các phụ nữ nhiều cơ hội lớn hơn để họ có mặt và hoạt động trong sứ mạng yêu thương và phục vụ của Giáo Hội (182).
TIN MỪNG VỀ SỰ SỐNG
35. Việc phục vụ sự phát triển con người phải bắt đầu bằng việc phục vụ chính sự sống. Sự sống là một quà tặng cao cả Thiên Chúa trao ban cho chúng ta: Ngài trao sự sống cho chúng ta như trao một kế hoạch và một trách nhiệm. Bởi thế, chúng ta chỉ là người canh giữ sự sống, chứ không phải chủ nhân của sự sống. Chúng ta đã tự nguyện đón nhận sự sống và trong tâm tình biết ơn, chúng ta sẽ không ngừng tôn trọng và bảo vệ nó, từ khi nó khởi sự cho đến khi nó kết thúc một cách tự nhiên. Từ khi thụ thai, mạng sống con người đã là kết quả hành vi sáng tạo của Thiên Chúa và nó sẽ mãi mãi có liên hệ đặc biệt với Đấng Tạo Hóa, là nguồn gốc và là cứu cánh duy nhất của sự sống. Vì thế, sẽ không có tiến bộ thật sự, không có xã hội văn minh thật sự, không có sự thăng tiến nhân bản thật sự nếu không biết tôn trọng sự sống con người, nhất là sự sống của những kẻ không có tiếng nói riêng của mình để tự vệ. Sự sống của mỗi người, dù còn là con trẻ trong lòng mẹ hay là ốm đau, tàn tật hoặc già nua, đều là một quà tặng cho mọi người.
35§2 Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã đồng tâm tái xác nhận giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II và Huấn Quyền tiếp sau, trong đó có cả tông thư của tôi là Tin Mừng về Sự Sống (Evangelium Vitae) đề cập đến sự thánh thiêng của sự sống con người. Tôi xin hiệp ý với các ngài kêu gọi tín hữu hãy chống lại nền "văn hóa đem đến sự chết" tại các nước thường lấy vấn đề dân số làm cớ biện hộ cho nhu cầu đưa ra các chương trình phá thai và kiểm soát dân số trái tự nhiên (183). Các tín hữu ấy có thể bày tỏ lòng trung thành của mình với Thiên Chúa và bày tỏ sự dấn thân vào công cuộc thăng tiến nhân bản đích thật bằng cách ủng hộ và tham gia các chương trình bảo vệ sự sống của những kẻ không có khả năng bảo vệ chính mình.
CHĂM SÓC SỨC KHOẺ
36. Theo chân Đức Giêsu Kitô Đấng đã động lòng trắc ẩn đối với mọi người và đã "chữa trị mọi bệnh hoạn tật nguyền" (Mt 9,35), Giáo Hội tại Châu Á cũng cam kết dấn thân nhiều hơn nữa vào việc chăm sóc người đau bệnh, vì đây là một phần quan yếu trong sứ mạng đem ơn cứu độ của Đức Kitô đến cho con người cả xác hồn. Như người Samari tốt lành trong dụ ngôn (x. Lc 10,29-37), Giáo Hội cũng muốn chăm sóc người ốm đau và bệnh tật một cách cụ thể (184), nhất là tại những nơi thiếu sự chăm sóc y tế sơ đẳng do tình trạng nghèo đói và bị gạt ra bên lề xã hội.
36§2 Nhiều lần trong các dịp thăm viếng Giáo Hội tại các nơi trên thế giới, tôi đã hết sức cảm động trước những bằng chứng phi thường mang tinh thần Kitô Giáo của các tu sĩ và những người tận hiến, các bác sĩ, các điều dưỡng viên và các nhân viên y tế khác, nhất là những anh chị em đang làm việc với người tàn tật hoặc với những người bệnh đang trong giai đoạn chăm sóc cuối cùng, hoặc những người đang phải chiến đấu với sự lan tràn các loại bệnh mới như bệnh AIDS (SIDA). Các nhân viên y tế Kitô Giáo càng ngày càng được mời gọi quảng đại và xả thân hơn để chăm sóc nạn nhân của chứng nghiện ma tuý và bệnh AIDS, là những người thường bị xã hội khinh bỉ và bỏ rơi (185). Nhiều cơ sở y tế Công Giáo tại Châu Á đang phải chịu những áp lực của các chính sách y tế không dựa trên những nguyên tắc Kitô Giáo; và có nhiều cơ sở phải gánh chịu những khó khăn tài chính ngày càng cao. Mặc dù gặp nhiều khó khăn như thế, nhưng chính tình yêu đến quên mình một cách gương mẫu và lòng tận tuỵ nghề nghiệp của những người trong cuộc đã làm cho những cơ sở này trở nên một sự phục vụ cho cộng đồng đáng thán phục và được quý mến, đồng thời là một dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu về tình thương không bao giờ cạn của Thiên Chúa. Phải khuyến khích và ủng hộ các nhân viên y tế ấy trong những gì tốt đẹp mà họ đang thực hiện. Chính sự dấn thân không ngơi nghỉ và hiệu quả liên tục của họ là phương cách tốt nhất bảo đảm cho các giá trị và đạo đức Kitô Giáo thâm nhập sâu xa vào các hệ thống y tế của châu lục này, biến đổi chúng từ bên trong (186).
GIÁO DỤC
37. Khắp Châu Á, ở đâu người ta cũng thấy rõ Giáo Hội dấn thân vào hoạt động giáo dục một cách rộng rãi; đó là một yếu tố then chốt làm cho Giáo Hội luôn hiện diện giữa các dân tộc của lục địa này. Tại nhiều nước, các trường Công Giáo đóng một vai trò quan trọng trong việc phúc âm hóa, làm cho đức tin thâm nhập vào văn hoá, dạy những cách sống cởi mở và tôn trọng nhau, cổ võ sự cảm thông giữa các tôn giáo. Các trường học của Giáo Hội thường là những nơi duy nhất cung cấp các cơ hội giáo dục cho thiếu nữ, các dân tộc ít người, người nghèo ở thôn quê và trẻ em kém may mắn. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng xác tín về các nhu cầu phải mở rộng và phát triển việc tông đồ trong lãnh vực giáo dục tại Châu Á, quan tâm đặc biệt hơn tới những người bị thiệt thòi, để giúp đỡ mọi người có thể đạt được cái vị thế mà họ có quyền hưởng với tư cách đầy đủ là một công dân trong xã hội (187). Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã ghi nhận, điều đó có nghĩa là hệ thống giáo dục Công Giáo cần phải nhắm một cách rõ ràng hơn nữa tới việc thăng tiến nhân bản, tạo một môi trường, nơi mà các học sinh không chỉ tiếp thu những môn qui định của chương trình học mà còn là nơi các học sinh nhận được một sự đào tạo nhân bản toàn diện dựa trên giáo huấn của Đức Kitô (188). Các trường Công Giáo cần phải tiếp tục là nơi đức tin có thể được giới thiệu và tiếp nhận một cách tự do. Cũng thế, các đại học Công Giáo không chỉ tiếp tục theo đuổi sự xuất sắc về học vấn như đã từng nổi tiếng, mà còn phải duy trì được một bản sắc Kitô Giáo rõ ràng để làm men Kitô Giáo trong các xã hội Á Châu (189).
XÂY DỰNG HÒA BÌNH
38. Vào cuối thế kỷ 20, thế giới vẫn còn bị đe doạ bởi các lực gây ra xung đột và chiến tranh, và Châu Á cũng không thoát khỏi những lực này. Trong số các lực ấy phải kể đến thái độ bất khoan dung và khai trừ trong đủ mọi lãnh vực xã hội, văn hóa, chính trị và ngay cả tôn giáo. Ngày lại ngày, bạo lực mới vẫn đổ xuống trên các cá nhân và có khi toàn cả dân tộc, và thế là nền văn hóa của sự chết làm chủ khi sử dụng bạo lực một cách vô lý để giải quyết những căng thẳng. Đứng trước tình hình xung đột khủng khiếp đang xảy ra ở biết bao nơi trên thế giới như vậy, Giáo Hội được mời gọi tham gia sâu xa hơn vào các nỗ lực của quốc tế và của các tôn giáo nhằm đem lại hòa bình, công lý và hòa giải. Giáo Hội tiếp tục nhấn mạnh tới cách giải quyết các xung đột bằng thương lượng và phi quân sự, và Giáo Hội mong tới ngày các quốc gia sẽ từ bỏ chiến tranh, không còn coi đó như là phương cách để đạt cho được những yêu sách hay là phương thế để giải quyết các bất đồng. Giáo Hội xác tín rằng chiến tranh chỉ sinh ra nhiều vấn đề hơn là giải quyết, đối thoại mới chính là con đường duy nhất đúng đắn và cao thượng đưa tới sự thỏa thuận và hòa giải, và Thiên Chúa cũng đặc biệt chúc lành cho nghệ thuật xây dựng hòa bình, kiên nhẫn và khôn ngoan.
38§2 Một điều hết sức đáng ngại tại Châu Á là sự chạy đua liên tục trong việc mua sắm các vũ khí có sức huỷ diệt hàng loạt, một sự chi tiêu vô đạo đức và phung phí ngân sách quốc gia mà trong một số trường hợp ngân sách ấy cũng chưa đủ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người dân. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng đề cập tới con số rất lớn những quả mìn cá nhân còn trên đất Á Châu, đã gây thương tật hay giết chết hằng trăm ngàn người vô tội, đồng thời làm hư hại đất màu đáng lẽ ra phải được dùng để sản xuất lương thực (190). Trách nhiệm của mọi người, nhất là của những người lãnh đạo các quốc gia, là phải hành động mạnh hơn nữa để giải trừ vũ khí. Thượng Hội Đồng kêu gọi chấm dứt chế tạo, mua bán và sử dụng các vũ khí hạt nhân, hóa học và sinh học, đồng thời thúc giục những người đã từng gài mìn hãy tham gia công tác phục hồi và tái thiết (191). Trên hết, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cầu xin Thiên Chúa, là Đấng thấu suốt lương tâm của mỗi người, hãy gieo những cảm thức hiếu hòa vào tâm hồn những kẻ đang bị cám dỗ đi theo con đường bạo động; hầu làm cho viễn tượng của Kinh Thánh sẽ trở thành sự thật: "Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cầy, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến" (Is 2,4).
38§3 Thượng Hội Đồng đã được nghe nhiều lời chứng kể lại những nỗi thống khổ của người dân Irắc và sự kiện nhiều người Irắc, đặc biệt là trẻ em, đã chết vì thiếu thuốc men và những nhu yếu phẩm khác do lệnh cấm vận vẫn còn tiếp diễn. Cùng với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, một lần nữa tôi muốn bày tỏ tình liên đới với nhân dân Irắc, và tôi luôn gần gũi trong lời cầu nguyện và trong niềm hy vọng với con cái Giáo Hội tại nước này. Thượng Hội Đồng cầu xin Thiên Chúa soi sáng lòng trí của mọi người có trách nhiệm ngõ hầu tìm ra một giải pháp công bằng cho cơn khủng hoảng ấy, để một dân tộc đã bị thử thách một cách đau đớn như thế khỏi phải chịu những khổ đau và buồn phiền nhiều hơn nữa (192).
HIỆN TƯỢNG TOÀN CẦU HÓA
39. Khi cứu xét vấn đề thăng tiến con người tại Châu Á, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhìn nhận tầm quan trọng của tiến trình toàn cầu hóa kinh tế. Một đàng các ngài nhìn nhận nhiều hiệu quả tích cực của tiến trình ấy, nhưng đàng khác các ngài cũng chỉ ra rằng toàn cầu hóa cũng gây thiệt hại cho người nghèo (193), nhằm đẩy các quốc gia nghèo hơn ra ngoài lề các quan hệ kinh tế và chính trị thế giới. Nhiều quốc gia Á Châu không thể giữ vững được nền kinh tế của mình trong kinh tế thị trường toàn cầu ấy. Còn một khía cạnh khác có ý nghĩa hơn đó là sự toàn cầu hóa về văn hóa, do các phương tiện truyền thông hiện đại tạo ra, đã mau chóng lôi kéo các xã hội Á Châu vào một nền văn hóa tiêu thụ có tính toàn cầu vừa tục hóa vừa duy vật. Kết quả là có sự xói mòn các giá trị truyền thống gia đình và xã hội, bấy lâu nay vẫn bảo vệ các dân tộc và xã hội. Tất cả những điều trên đây cho ta thấy rõ rằng những khía cạnh đạo đức và luân lý trong việc toàn cầu hóa cần phải được các nhà lãnh đạo quốc gia và các tổ chức quan tâm tới việc thăng tiến con người trực tiếp xem xét.
39§2 Giáo Hội cũng nhấn mạnh cần phải "toàn cầu hóa mà không gạt bỏ ai ra ngoài lề" (194), Cùng với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi kêu gọi các Giáo Hội địa phương khắp nơi, nhất là các Giáo Hội ở các nước Phương Tây, hãy làm việc để bảo đảm sao cho học thuyết xã hội của Giáo Hội có thể ảnh hưởng thích đáng trên việc hình thành các tiêu chuẩn đạo đức và pháp lý, để điều chỉnh các thị trường tự do của thế giới cũng như để sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội. Các nhà lãnh đạo và các nhà chuyên môn Công Giáo phải thúc giục các chính phủ cũng như các tổ chức tài chính và thương mại nhìn nhận và tôn trọng các tiêu chuẩn ấy (195).
NỢ NƯỚC NGOÀI
40. Hơn nữa, khi đi tìm sự công bằng giữa một thế giới bị thiệt hại vì những bất bình đẳng về xã hội và kinh tế, Giáo Hội không thể làm ngơ trước những tình trạng nợ nần mà các nước đang phát triển tại Châu Á phải gánh chịu, ảnh hưởng tới hiện tại và tương lai của các nước ấy. Nhiều khi, các nước ấy buộc lòng phải cắt giảm chi tiêu cho các nhu cầu của cuộc sống như lương thực, y tế, nhà ở và giáo dục, hầu có thể trả các món nợ họ đang mắc với các tổ chức tiền tệ và ngân hàng thế giới. Điều này có nghĩa là đã có nhiều người bị buộc phải sống trong những điều kiện ô nhục đối với phẩm giá con người. Cho dù ý thức được tính cách phức tạp của vấn đề này về mặt chuyên môn, nhưng Thượng Hội Đồng vẫn cho rằng chính đây là nơi trắc nghiệm để biết khả năng của các dân tộc, các xã hội và các chính phủ có đánh giá nhân vị và sinh mạng của hằng triệu con người cao hơn những lợi lộc tài chính và vật chất không (196).
40§2 Năm Đại Toàn Xá 2000 sắp tới chính là thời cơ thuận tiện cho các Hội Đồng Giám Mục trên thế giới, nhất là tại các nước giàu hơn, khuyến khích các tổ chức tiền tệ và ngân hàng thế giới hãy tìm cho ra những phương cách làm giảm nhẹ tình trạng nợ nần quốc tế ấy. Trong số những phương cách dễ thấy hơn có thể kể đến việc điều đình giàn xếp nhằm giảm phần lớn số nợ hay huỷ bỏ hoàn toàn, cũng như tham gia kinh doanh và đầu tư để trợ giúp nền kinh tế của các nước nghèo (197). Đồng thời, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng ngỏ lời với các nước nợ nần, nhấn mạnh rằng họ cần phải gia tăng ý thức trách nhiệm quốc gia, lưu ý họ về tầm quan trọng phải lập kế hoạch kinh tế đúng đắn, phải quản lý một cách lành mạnh và trong sáng, và mời gọi họ mở chiến dịch quyết tâm chống tham nhũng (198). Các ngài cũng kêu gọi các Kitô hữu tại Châu Á lên án mọi hình thức tham nhũng và thâm lạm công quỹ gây ra do những người đang cầm quyền (199). Công dân của các nước nợ nần cũng thường là nạn nhân của việc lãng phí và làm việc không hiệu quả ngay trong nước mình, trước khi thành nạn nhân của tình trạng khủng hoảng nợ nần trên trường quốc tế.
MÔI TRƯỜNG
41. Khi quan tâm tới tiến bộ kinh tế và kỹ thuật mà không quan tâm tới sự cân bằng sinh thái thì trái đất của chúng ta sẽ không thể nào tránh khỏi những hủy hoại nặng nề về môi trường, và kèm theo đó là thiệt hại cho con người. Người ta sẽ tiếp tục không tôn trọng môi trường một cách trắng trợn, bao lâu vẫn chỉ coi trái đất và những tiềm năng của nó như những đối tượng tiêu thụ và sử dụng tức thời, để mặc cho những con người tham lam lợi nhuận một cách vô độ tự do thao túng (200). Các Kitô hữu và tất cả những ai tin Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đều phải có nhiệm vụ bảo vệ môi trường bằng cách phục hồi ý thức tôn trọng đối với toàn thể thụ tạo của Thiên Chúa. Ý muốn của Đấng Tạo Hóa là con người phải đối xử với thiên nhiên, không phải như một kẻ khai thác tàn bạo mà như một người quản lý thông minh và có trách nhiệm (201). Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng tha thiết kêu gọi các nhà lãnh đạo quốc gia, các nhà làm luật, các nhà kinh doanh và tất cả những ai trực tiếp tham gia vào việc quản lý các tài nguyên của trái đất phải có trách nhiệm nhiều hơn (202). Các ngài lưu ý nhu cầu phải giáo dục dân chúng, nhất là giới trẻ, về trách nhiệm đối với môi trường, huấn luyện họ biết nghệ thuật quản lý thụ tạo mà Chúa đã giao cho loài người. Bảo vệ môi trường không phải chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà còn là và trên hết là một vấn đề đạo đức. Mọi người đều có nhiệm vụ đạo đức phải chăm sóc môi trường, không phải chỉ vì ích lợi của mình mà còn vì ích lợi của các thế hệ tương lai.
41§2 Để kết luận, nên nhớ rằng khi kêu gọi các Kitô hữu làm việc và xả thân phục vụ cho sự phát triển con người, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã dựa trên một số quan điểm nền tảng trong truyền thống Kinh Thánh và truyền thống Giáo Hội. Người Israel xưa hết sức nhấn mạnh tới mối quan hệ không thể cắt đứt được giữa việc thờ phượng Thiên Chúa và việc chăm sóc người yếu kém, được Kinh Thánh mô tả một cách điển hình là "cô nhi, quả phụ và ngoại kiều" (x. Xh 22,21-22; Đnl 10,18; 27,19), là những người trong các xã hội thời đó dễ bị tổn thương nhất khi có bất công đe dọa. Thỉnh thoảng trong các sách Ngôn Sứ chúng ta cũng nghe người ta kêu gào đòi hỏi sự công bằng, đòi hỏi việc tổ chức xã hội phải đúng đắn, bằng không sẽ không thể nào thờ phượng Chúa thật sự được (x. Is 1,10-17; Am 5,21-24). Như vậy, trong lời kêu gọi của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, chúng ta nghe thấy tiếng vang vọng của các ngôn sứ đầy tràn Thánh Thần Thiên Chúa, "Ngài là Đấng muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ" (Hs 6,6). Đức Giêsu cũng đã từng lấy những lời ấy làm thành lời của chính mình (x. Mt 9,13), rồi các thánh ở mọi thời mọi nơi cũng hành động như thế. Hãy suy nghĩ lời thánh Gioan Kim Khẩu: "Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc khi thấy Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói 'Đây là mình Thầy' cũng chính là Đấng đã nói "Các ngươi đã thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ! " (203). Trong lời kêu gọi của Thượng Hội Đồng về sự phát triển con người và công bằng trong các tương quan giữa con người với nhau, chúng ta được nghe một tiếng nói vừa cũ vừa mới. Cũ bởi vì nó xuất phát từ sâu thẳm của truyền thống Kitô Giáo vốn lưu ý đến sự hài hòa sâu xa theo như ý Đấng Tạo Hóa muốn; còn mới vì đó là tiếng nói đề cập đến cái tình trạng hiện tại của vô số người dân tại Châu Á.
Chú thích :
(163) Hiến chế " Vui Mừng và Hy Vọng", 1.
(164) Xét về nhiều mặt, điểm khởi đầu chính là tông thư Tân Sự (Rerum Novarum) của Đức Giáo Hoàng Leô XIII (15.3.1891) văn kiện thúc đẩy Giáo Hội lần lượt đưa ra các lời tuyên bố long trọng đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề xã hội. Trong số đó có tông thư "Thăng tiến các dân tộc" (26.3.1967) do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đưa ra để hưởng ứng giáo huấn của công đồng Vaticanô II trước tình hình thế giới đã thay đổi. Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày ban hành tông thư này, tôi đã ban hành tông thư "Quan tâm đến xã hội" (30.12.1987), trong đó, dựa vào các Huấn Quyền trước, tôi kêu gọi tất cả các tín hữu hãy ý thức mình được gọi tham gia một sứ mạng phục vụ có bao hàm cả việc đẩy mạnh sự phát triển con người toàn diện.
(165) Tông thư "Quan tâm đến xã hội", 41 : AAS 80 (1988), 570t.
(166) X. Bộ Giáo Lý Đức Tin, huấn thị về sự tự do và giải phóng của Kitô Giáo , "Ý thức về tự do" (22.3.1986), 72 : AAS 79 (1987), 586.
(167) X. Đề nghị 22.
(168) X. Đề nghị 21.
(169) X. Đức Gioan Phaolô II. Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng "Người Kitô hữu giáo dân", 5 : AAS 81 (1989), 400-402 ; tông thư "Tin Mừng về sự sống" (25.3.1995), 18 : AAS 87 (1995), 419t.
(170) Đề nghị 22 ; x. Đề nghị 39.
(171) Đức Gioan Phaolô II Tông thư "Quan tâm đến xã hội", 42 : AAS 80 (1988), 573 ; x. Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn thị về sự tự do và giải phóng của Kitô Giáo, "Ý thức về tự do", 68 : AAS 79 (1987), 583.
(172) X. Đề nghị 44.
(173) X. như trên
(174) X. Đề nghị 39.
(175) X. Đề nghị 22.
(176) X. Đề nghị 36.
(177) X. Đề nghị 38.
(178) X. như trên.
(179) X. Đề nghị 33.
(180) X. như trên.
(181) X. Đề nghị 35.
(182) X. như trên.
(183) Đề nghị 32.
(184) X. Đức Gioan-Phaolô II, Tông thư "Đau khổ dem lại ơn cứu độ" ("Salvifici doloris") (11.2.1984), 28-29 : AAS 76 (1984).242-244.
(185) X. Đề nghị 20.
(186) X. như trên
(187) X. Đề nghị 21.
(188) X. như trên.
(189) X. như trên.
(190) X. Đề nghị 23.
(191) X. như trên.
(192) X. Đề nghị 55.
(193) X. Đề nghị 49.
(194) Đức Gioan-Phaolô II, Sứ điệp ngày quốc tế cầu nguyện cho hòa bình (1.1.1998), 3 : AAS 90 (1998), 50.
(195) X. Đề nghị 49.
(196) X. Đề nghị 48.
(197) X. như trên.;Tông thư "Tiến Tới thiên niên kỷ thứ ba ", 51:AAS 87 (1995) 36.
(198) X. Đề nghị 48.
(199) X. Đề nghị 22 ; Tông thư "Quan tâm đến xã hội", 44 : AAS 80 (1988), 576t.
(200) X. Tông thư "Đấng Cứu Chuộc loài người", 15 : AAS 71 (1979), 287.
(201) X. như trên.
(202) X. Đề nghị 47.
(203) "Các bài giảng về tin mừng Matthêu", 50, 3-4 : PG 58, 508-509.
Ban Dịch Thuật
CHƯƠNG BẢY
NHỮNG NGƯỜI LÀM CHỨNG CHO TIN MỪNG
Mọi thành phần Dân Chúa: Các mục tử, các người sống đời thánh hiến và trong các Hội Truyền giáo, giáo dân, đặc biệt là gia đình và giới trẻ, tất cả phải có bổn phận là rao giảng Tin mừng. Nhưng chỉ có thể rao giảng Tin mừng thực sự nếu các Kitô hữu biết lấy đời sống mình làm chứng tá đi đôi với sứ điệp mà mình rao giảng.
Nhất là ngày nay trên thế giới người ta tin tưởng vào chứng nhân hơn thầy dạy, tin vào hành động hơn lý thuyết.
Điều này càng đúng trong bối cảnh Á Châu hiện nay, nơi người ta dễ bị thuyết phục bởi đời sống thánh thiện hơn là bởi lý luận, nơi có nhu cầu đối thoại "bằng cuộc sống và bằng tấm lòng", nơi cần được trao đổi bằng chính những kinh nghiệm tôn giáo.
Ở những nơi nào Kitô hữu không loan báo Tin mừng bằng lời được, thì họ vẫn luôn có thể loan báo bằng chính cuộc sống của ho. Những người làm chứng kiểu này cách tuyệt vời chính là các vị tử đạo, đó là những chứng nhân đức tin.
Đối với những ai e ngại chữ tử đạo, sợ nó gợi lên căm thù thì xin biết cho rằng các vị mang danh tử đạo luôn sống bác ái yêu thương cao độ cả khi bị hành hình. Như thế các vị đã "đem lại một bộ mặt nhân bản cho ngay cả cái chết tàn bạo nhất".
MỘT GIÁO HỘI LÀM CHỨNG
42. Công Đồng Vaticanô II đã dạy rõ ràng rằng toàn thể Giáo Hội đều phải truyền giáo, công việc phúc âm hóa là nhiệm vụ của toàn thể Dân Chúa (204). Vì toàn thể Dân Chúa đều được sai đi rao giảng Tin Mừng, nên phúc âm hóa không bao giờ là một công việc riêng lẻ của cá nhân, nhưng luôn luôn là một công việc chung của cả Giáo Hội, phải được thi hành trong sự hiệp thông với toàn thể cộng đoàn đức tin. Sứ mạng chỉ có một và không thể chia năm sẻ bảy, vì chỉ có một gốc và chỉ một mục tiêu. Nhưng trong sứ mạng ấy có những trách nhiệm khác nhau và những hình thức hoạt động khác nhau (205). Dù sao chăng nữa, rõ ràng là không thể nào có sự công bố Tin Mừng thực sự, nếu các Kitô hữu không lấy đời sống mình làm chứng tá, đi đôi với sứ điệp mà mình rao giảng: "Hình thức làm chứng đầu tiên là chính cuộc sống của người truyền giáo, của gia đình Kitô hữu và của cộng đoàn Giáo Hội, cuộc sống này giới thiệu một cung cách sống mới. . . Mọi người trong Giáo Hội, cố gắng bắt chước Tôn Sư của mình thì đều có thể và đều có bổn phận phải làm chứng theo hình thức này, nhiều khi, đó lại là cách duy nhất để truyền giáo" (206). Nhất là ngày nay người ta đang cần đến hình thức chứng tá đích thực của Kitô Giáo, vì "con người hôm nay tin tưởng các chứng nhân hơn là thầy dạy, tin vào kinh nghiệm hơn là bài vở, tin vào cuộc sống và hành động hơn là lý thuyết" (207). Điều này thật đúng trong bối cảnh Á Châu hiện nay, nơi người ta dễ bị thuyết phục bởi một đời sống thánh thiện hơn là bởi các lý luận của trí tuệ. Vì thế, kinh nghiệm đức tin và kinh nghiệm về các ơn của Chúa Thánh Thần phải là nền tảng cho toàn bộ công cuộc truyền giáo, bất luận ở thành thị hay thôn quê, ở trường học hay bệnh viện, ở giữa những người tàn tật, di cư hay các bộ tộc, hoặc theo đuổi thực hiện công bằng và các quyền con người. Hoàn cảnh nào cũng là cơ hội thuận tiện cho các Kitô hữu bày tỏ sức mạnh mà sự thật của Đức Kitô đã mang lại cho đời sống của họ. Cảm kích trước nhiều nhà truyền giáo trong quá khứ đã từng làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa một cách anh hùng ở giữa các dân tộc trên lục địa này, ngày nay Giáo Hội tại Châu Á cũng không kém phần hăng hái khi cố gắng làm chứng về Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài. Sứ mạng của người Kitô hữu không cho phép kém nhiệt tâm.
42§2 Ý thức về bản chất truyền giáo của Giáo Hội trong khi chờ đợi ngày Chúa Thánh Thần tuôn đổ sức mạnh của Người xuống một lần nữa, đang khi Giáo Hội đi vào ngàn năm mới, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng thỉnh cầu tông huấn Hậu Thượng Hội Đồng sẽ đưa ra một vài chỉ thị và đường hướng cho những ai đang làm việc trong cánh đồng truyền giáo bao la của Châu Á này.
CÁC MỤC TỬ
43. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp Giáo Hội có khả năng hoàn thành sứ mạng do Đức Kitô trao cho. Trước khi sai các môn đệ ra đi làm chứng nhân, Đức Giêsu đã ban cho họ Chúa Thánh Thần (x. Ga 20,22); Thánh Thần làm việc thông qua họ và đánh động con tim của những người lắng nghe họ (x. Cv 2,37). Điều này cũng đúng đối với những người được Ngài sai đi hôm nay. Ở một mặt nào đó, tất cả những người đã chịu phép Rửa, thì chính nhờ ơn bí tích này, họ đều được trạch cử tham gia vào việc tiếp nối sứ mạng cứu độ của Đức Kitô, và họ có khả năng làm việc này chính nhờ Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng họ nhờ Chúa Thánh Thần mà Ngài ban cho họ (x Rm 5,5). Nhưng ở một mặt khác, sứ mạng chung này sẽ được thực hiện qua những chức vụ và đoàn sủng đặc biệt khác nhau trong Giáo Hội. Trách nhiệm chính yếu đối với sứ mạng của Giáo Hội đã được Đức Kitô tin tưởng giao cho các tông đồ và những người kế vị các ngài. Do hiệu quả của việc truyền chức giám mục và nhờ hiệp thông trong phẩm trật với Thủ Lãnh Giám Mục Đoàn, các giám mục đã nhận lãnh trách nhiệm và quyền giảng dạy, cai quản và thánh hóa Dân Chúa. Do chính ý muốn của Đức Kitô và trong Giám Mục Đoàn, Đấng kế vị thánh Phêrô, - là tảng đá mà trên đó Giáo Hội được xây dựng (x. Mt 16,18), sẽ thi hành một tác vụ hiệp nhất đặc biệt. Bởi đó, các giám mục có nhiệm vụ phải thi hành tác vụ của mình trong thế liên kết với Đấng Kế Vị thánh Phêrô, là người bảo đảm cho lời giảng dạy của họ được đúng với chân lý và sự hiệp thông của họ trong Giáo Hội được trọn vẹn.
43§2 Liên kết với các giám mục trong việc loan báo Tin Mừng, ngay lúc thụ phong, các linh mục được mời gọi hãy trở thành người chăn dắt đàn chiên, người rao giảng tin vui cứu độ và người cử hành các bí tích. Để phục vụ Giáo Hội như Đức Kitô mong ước, các giám mục và linh mục cần phải được đào tạo một cách vững chắc và liên tục, nhờ đó họ có nhiều cơ hội để tu dưỡng về đời sống nhân bản, tâm linh và mục vụ, cũng như để được theo học các khoá thần học, linh đạo và các khoa nhân văn (208). Các dân tộc Á Châu cần được thấy các giáo sĩ không hẳn là các nhân viên từ thiện và các nhà quản lý hành chánh, mà là những con người đặt hết tâm trí vào những gì sâu xa của Chúa Thánh Thần (x. Rm 8,5). Thái độ kính trọng mà các dân tộc Á Châu dành cho các người có trách nhiệm trong các thừa tác vụ của Giáo Hội cần được các vị đáp lại bằng đời sống luân lý trong sáng và ngay thẳng. Bằng đời sống cầu nguyện, phục vụ nhiệt tình và hạnh kiểm gương mẫu, các giáo sĩ sẽ làm chứng mạnh mẽ cho Tin Mừng ngay trong các cộng đoàn mà họ đang phục vụ nhân danh Đức Kitô. Tôi sốt sắng cầu nguyện cho các thừa tác viên có chức thánh trong các Giáo Hội Á Châu được sống và làm việc trong tinh thần hiệp thông, cộng tác với các giám mục và mọi tín hữu, bằng cách làm chứng cho một tình yêu mà Đức Giêsu đã tuyên bố đó là dấu hiệu đích thực của người môn đệ Chúa (x. Ga 13,35).
43§3 Tôi hết sức mong muốn mọi người lưu ý tới mối bận tâm của Thượng Hội Đồng về việc chuẩn bị những người sẽ lãnh đạo và giảng dạy trong các chủng viện và các phân khoa thần học (209). Sau khi được huấn luyện một cách chu đáo về các khoa học thánh và các môn liên hệ, các vị cần được đào tạo một cách đặc biệt nhắm vào linh đạo của linh mục, nghệ thuật linh hướng và các khía cạnh khác của chính nhiệm vụ khó khăn và tế nhị đang chờ đợi họ, đó là nhiệm vụ giáo dục các linh mục tương lai. Đây là một hoạt động tông đồ luôn đứng hàng đầu để giúp Giáo Hội sống sung mãn.
ĐỜI THÁNH HIẾN VÀ CÁC HỘI TRUYỀN GIÁO
44. Trong Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng: Đời Thánh Hiến (Vita Consecrata), tôi đã nhấn mạnh tới mối sự liên quan mật thiết giữa đời tu và việc truyền giáo. Qua ba khía cạnh của đời thánh hiến là "tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi" , "tỏ dấu hiệu của tình huynh đệ" và "phục vụ đức ái" , đời sống thánh hiến biểu lộ cho mọi người thấy tình yêu của Thiên Chúa trong thế giới, nhờ chứng tá đặc biệt trong sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu được hoàn tất khi tận hiến hoàn toàn cho Chúa Cha. Vì ý thức rằng mọi hoạt động trong Giáo Hội đều được hậu thuẫn bởi việc cầu nguyện và sự hiệp thông với Thiên Chúa, nên Giáo Hội Á Châu luôn tỏ ra tôn trọng và quý chuộng các cộng đoàn dòng tu chiêm niệm, coi đó như một nguồn đặc biệt tạo ra sức mạnh và cảm hứng. Thể theo lời đề nghị của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi nhiệt liệt khuyến khích việc thành lập các cộng đoàn đan tu và chiêm niệm ở những nơi nào có thể làm được. Bằng cách này, theo như Công Đồng Vaticanô II đã nhắc, việc xây dựng thành đô trần gian có thể đặt được nền móng nơi Chúa và vươn tới Chúa, không để cho những người xây dựng nó phải làm việc vô ích (210).
44§2 Tìm gặp Chúa, sống tinh thần hiệp thông huynh đệ và phục vụ người khác là ba đặc điểm chính yếu của đời sống thánh hiến có thể cống hiến cho các dân tộc Á Châu hiện nay một chứng tá Kitô Giáo có sức lôi cuốn. Hội Nghị Đặc Biệt dành cho Châu Á đã thúc giục những ai sống trong đời thánh hiến hãy làm chứng cho mọi người thấy rằng ai cũng được mời gọi nên thánh, đồng thời hãy nêu gương sáng cho cả người Kitô hữu lẫn người ngoài Kitô giáo, về lòng yêu thương xả thân vì mọi người, nhất là cho những anh chị em bé nhỏ yếu kém nhất. Trong một thế giới mà ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa thường bị suy giảm, những người sống đời thánh hiến cần phải làm chứng có tính cách ngôn sứ đủ sức thuyết phục về sự ưu việt của Thiên Chúa và đời sống vĩnh cửu. Khi sống thành cộng đoàn, họ phải làm chứng về các giá trị của tình huynh đệ Kitô hữu và sức mạnh biến đổi của Tin Mừng (211). Tất cả những ai theo đuổi đời thánh hiến đều được mời gọi trở thành người hướng dẫn trong việc tìm kiếm Thiên Chúa, một sự tìm kiếm luôn đánh động lòng người và được biểu lộ cách đặc biết qua nhiều hình thức tu đức và đời sống khổ hạnh tại Châu Á (212). Trong nhiều truyền thống tôn giáo của Châu Á, những ai dâng mình theo đuổi đời sống chiêm niệm và khổ hạnh rất được kính trọng và chứng tá của họ đặc biệt có sức thuyết phục. Họ sống thành cộng đoàn, làm chứng trong thinh lặng và bình an, điều đó có thể thôi thúc con người xây dựng một sự hòa hợp lớn hơn trong xã hội. Người ta cũng chờ mong như vậy nơi những người sống đời thánh hiến trong truyền thống Kitô Giáo. Trong thinh lặng họ nêu gương nghèo khó và từ bỏ, thanh khiết và chân thành, quên mình trong vâng phục, tất cả những điều ấy trở nên một chứng tá hùng hồn có thể đánh động mọi người thiện chí và đưa họ tới chỗ đối thoại có kết quả với các nền văn hóa và tôn giáo chung quanh, cũng như với những người nghèo và những người không được ai bênh vực. Điều này làm cho đời thánh hiến đúng là một phương thế đặc biệt cho công cuộc phúc âm hóa được hữu hiệu (213).
44§3 Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhìn nhận vai trò quan trọng của các dòng tu, các tu hội truyền giáo và các hiệp hội tông đồ trong công cuộc phúc âm hóa tại Châu Á trong các thế kỷ qua. Trước những đóng góp tốt đẹp ấy, Thượng Hội Đồng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với họ và thôi thúc họ đừng nao núng trong sứ vụ truyền giáo (214). Tôi xin hiệp ý với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng kêu gọi những ai đang sống trong đời thánh hiến hãy canh tân lòng nhiệt thành công bố sự thật cứu độ của Đức Kitô. Mọi người ấy cần phải được đào tạo và huấn luyện thích đáng, tức là phải lấy Chúa Kitô làm trọng tâm và trung thành với đoàn sủng của tu hội mình, đồng thời nhấn mạnh tới sự thánh thiện và làm chứng của chính mỗi người; phải làm sao cho linh đạo và lối sống của mình nhạy cảm với di sản tôn giáo của dân tộc nơi mình đang sống và đang phục vụ (215). Trong lúc tôn trọng đoàn sủng riêng của mình, họ cũng cần tham gia vào chương trình mục vụ chung của giáo phận nơi họ làm việc. Về phần mình, các Giáo Hội địa phương cũng cần phải cho mọi người hiểu biết lý tưởng tận hiến của đời tu trì và đời thánh hiến và khuyến khích các ơn gọi ấy. Muốn vậy, mỗi giáo phận cần lập ra một chương trình mục vụ dành cho các ơn gọi, kể cả việc cắt cử các linh mục và tu sĩ làm việc trọn vẹn thời gian của mình cho giới trẻ, để giúp họ nghe được và phân định được tiếng gọi của Thiên Chúa (216).
44§4 Trong bối cảnh hiệp thông với Giáo Hội toàn cầu, tôi không thể không thúc đẩy các Giáo Hội tại Châu Á gửi các nhà truyền giáo của mình ra đi, dù chính mình cũng còn đang cần những thợ làm vườn nho. Tôi sung sướng khi thấy những tu hội truyền giáo thuộc đời sống tông đồ vừa được thành lập tại một số nước Á Châu, điều đó chứng tỏ đã ý thức về tính truyền giáo của Giáo Hội và trách nhiệm của Giáo Hội địa phương Á Châu trong việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới (217). Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng khuyên nơi nào chưa có thì nên "thành lập ngay trong mỗi Giáo Hội địa phương của Châu Á các hội truyền giáo thuộc đời sống tông đồ, đặc biệt nhắm đến việc dấn thân truyền giáo "cho lương dân, cho những người ngoài và để phục vụ sự sống" (ad gentes, ad exteros, ad vitam) (218). Những sáng kiến như vậy chắc chắn sẽ mang lại kết quả dồi dào không những cho các Giáo Hội tiếp nhận các nhà truyền giáo mà cả cho các Giáo Hội gửi các vị ấy ra đi nữa.
GIÁO DÂN
45. Như Công Đồng Vaticanô II đã chỉ rõ, ơn gọi của người giáo dân đặt họ ngay vào trong thế giới để thi hành những phận vụ đa dạng nhất, chính tại đây họ được mời gọi truyền bá Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô (219). Do ơn sủng và do tiếng gọi của bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, mọi giáo dân đều là nhà truyền giáo; và địa bàn truyền giáo của họ là cả một thế giới rộng lớn và phức tạp như: chính trị, kinh tế, công nghiệp, giáo dục, truyền thông, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật và thể thao. Tại nhiều nước Á Châu, người giáo dân đang phục vụ như những nhà truyền giáo đích thực, vì họ có thể tiếp xúc với những anh chị em Á Châu, những người không có điều kiện gặp gỡ các giáo sĩ và tu sĩ (220). Tôi xin gửi lời cám ơn của toàn thể Giáo Hội đến họ, và tôi khuyên tất cả các giáo dân hãy nhận lấy vai trò riêng của mình trong đời sống và sứ mạng của Dân Chúa, là làm chứng cho Đức Kitô ở bất cứ nơi nào mình có mặt.
45§2 Nhiệm vụ của các mục tử là bảo đảm cho các giáo dân được huấn luyện để trở nên các nhà truyền bá Tin Mừng, có khả năng đối diện với những thách đố của thế giới ngày nay, không phải bằng sự khôn ngoan và hiệu năng của thế gian, mà chính là bằng một tâm hồn đã được chân lý của Đức Kitô đổi mới và củng cố (221). Trong lúc làm chứng cho Tin Mừng ở mọi lãnh vực của đời sống trong xã hội, người tín hữu có thể giữ một vai trò độc nhất vô nhị trong việc xóa bỏ bất công và áp bức, và để làm việc này họ cũng cần được đào tạo thích đáng. Muốn thế, tôi xin hiệp ý với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đề nghị thành lập ở cấp giáo phận hay cấp quốc gia những trung tâm đào tạo giáo dân, để chuẩn bị họ làm công việc truyền giáo như những chứng nhân cho Đức Kitô tại Châu Á ngày nay (222).
45§3 Điều các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng quan tâm nhất là làm sao cho Giáo Hội trở thành một Giáo Hội tham gia (participatory Church), trong đó không ai cảm thấy mình bị khai trừ. Các ngài xét thấy rằng việc tham gia rộng rãi hơn của phụ nữ trong sinh hoạt và sứ mạng của Giáo Hội Á Châu là một nhu cầu đặc biệt cấp bách. "Phụ nữ có một năng khiếu khá đặc biệt trong việc truyền đạt đức tin, đến nỗi chính Đức Giêsu cũng đã quan tâm đến năng khiếu ấy trong công cuộc rao giảng Tin Mừng. Như đã thấy với người phụ nữ Samari sau khi gặp Đức Giêsu tại bờ giếng Giacóp: Ngài đã chọn chị làm người đầu tiên để quảng bá niềm tin mới trong một miền đất không phải của người Do Thái" (223). Để phát huy tinh thần phục vụ của phụ nữ trong Giáo Hội, cần tạo nhiều cơ hội hơn nữa cho họ tham dự các lớp thần học và các lãnh vực học hỏi khác; còn nam giới trong các chủng viện và các nhà đào tạo cũng cần phải được huấn luyện thế nào để biết nhìn nhận phụ nữ là những cộng sự viên của mình trong việc tông đồ ( ). Cần phải cho phụ nữ tham gia một cách thực sự hơn vào các chương trình mục vụ, trong các hội đồng mục vụ cấp giáo phận và giáo xứ, cũng như trong các hội nghị giáo phận. Phải đánh giá đúng khả năng cũng như những việc phục vụ của họ trong các ngành y tế, giáo dục, trong việc chuẩn bị các tín hữu lãnh nhận bí tích, xây dựng cộng đoàn và kiến tạo hoà bình. Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng có ghi nhận, sự hiện diện của các phụ nữ trong sứ mạng yêu thương và phục vụ của Giáo Hội sẽ góp phần đáng kể vào việc đưa Đức Giêsu từ bi, Đấng chữa lành và hòa giải, đến với dân Á Châu, nhất là những người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội (225).
GIA ĐÌNH
46. Gia đình là nơi bình thường cho giới trẻ lớn lên, để đạt tới sự trưởng thành cá nhân và xã hội. Gia đình cũng là nơi cưu mang di sản của chính nhân loại, vì thông qua gia đình, sự sống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Gia đình chiếm giữ một vị trí rất quan trọng trong các nền văn hóa Á Châu, như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã lưu ý, các giá trị gia đình như lòng hiếu thảo, yêu thương, chăm sóc người già và người bệnh, yêu trẻ và sống hòa thuận vẫn rất được quý trọng trong các nền văn hóa và truyền thống tôn giáo Á Châu.
46§2 Nhìn bằng con mắt người Kitô hữu, gia đình còn là Giáo Hội tại gia (ecclesia domestica) (226). Các gia đình Kitô hữu cũng như toàn thể Giáo Hội phải là nơi lấy chân lý Tin Mừng làm quy luật sống và làm quà tặng mà mỗi thành viên của gia đình mang đến cho cộng đoàn rộng lớn hơn. Gia đình không phải chỉ đơn thuần là đối tượng cho Giáo Hội chăm sóc mục vụ, mà còn là một trong những tác nhân hiệu quả nhất trong công cuộc phúc âm hóa. Hiện nay các gia đình người Kitô hữu đang được mời gọi để làm chứng cho Tin Mừng trong những thời thế và hoàn cảnh khó khăn, mà chính bản thân gia đình cũng đang bị biết bao nhiêu lực lượng đe doạ (227). Gia đình Kitô hữu muốn làm tác nhân của việc truyền giáo trong một thời đại như thế thì cần phải thực sự là một "Giáo Hội tại gia", sống trọn ơn gọi Kitô hữu của mình một cách khiêm tốn và đầy yêu thương.
46§3 Điều ấy có nghĩa là gia đình cần phải tham gia tích cực vào đời sống giáo xứ, tham dự các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và bí tích Sám Hối, dấn thân phục vụ người khác, như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã chỉ ra. Điều ấy cũng có nghĩa là các bậc cha mẹ phải cố gắng biến những giây phút cả gia đình có thói quen quy tụ bên nhau thành cơ hội để cầu nguyện, để đọc và suy niệm Kinh Thánh, để cha mẹ chủ sự các nghi lễ thích hợp, và để giải trí lành mạnh. Tất cả những việc này sẽ giúp làm cho gia đình Kitô hữu trở thành một tổ ấm của việc phúc âm hóa, trong đó ai cũng cảm nghiệm được tình thương của Chúa và thông chia cho người khác (228). Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng nhìn nhận rằng trẻ em phải có một vai trò trong việc phúc âm hóa, trong gia đình cũng như trong các cộng đoàn rộng lớn hơn (229). Xác tín rằng "tương lai thế giới và Giáo Hội sẽ tùy thuộc vào gia đình" (230), một lần nữa xin đề nghị mọi người hãy học hỏi và thi hành những điều tôi đã viết về gia đình trong tông huấn: Cộng đoàn gia đình (Familiaris consortio), sau Hội Nghị khoáng đại thường kỳ lần thứ năm của Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1980.
GIỚI TRẺ
47. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đặc biệt nhạy cảm về vấn đề giới trẻ trong Giáo Hội. Nhiều vấn đề phức tạp mà giới trẻ ngày nay gặp phải trong thế giới Á Châu đang biến chuyển này buộc Giáo Hội phải nhắc người trẻ nhớ rằng họ là người có trách nhiệm đối với tương lai của xã hội và Giáo Hội Đồng thời cũng buộc Giáo Hội phải khuyến khích và hỗ trợ họ trong từng giai đoạn nhàm bảo đảm cho họ có thể sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm ấy. Giáo Hội xin gửi tới họ chân lý của Tin Mừng như một mầu nhiệm đem lại niềm vui, và có sức giải phóng mà họ cần biết, cần sống và cần chia sẻ một cách xác tín và can đảm.
47§2 Muốn cho giới trẻ trở nên những tác nhân hữu hiệu của việc truyền giáo, Giáo Hội cần phải chăm sóc mục vụ cho họ một cách thích hợp (231). Đồng ý với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi khuyên mỗi giáo phận tại Châu Á nơi nào có thể được hãy chỉ định những vị tuyên uý hay linh hướng cho giới trẻ để cổ võ việc đào tạo họ về mặt tâm linh và tông đồ. Các trường học và các giáo xứ Công Giáo đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp cho giới trẻ một sự chương trình đào tạo toàn diện giúp họ thật sự làm chủ được chính mình và phát huy nơi họ những đức tính nhân bản cần thiết cho các yêu cầu của việc truyền giáo. Các phong trào tông đồ giới trẻ và các câu lạc bộ giới trẻ có thể cho họ có cơ hội cảm nghiệm thế nào là tình bằng hữu Kitô Giáo, một điều quan trọng biết bao đối với giới trẻ. Giáo xứ, các hiệp hội và các phong trào có thể giúp người trẻ đương đầu tốt hơn với các áp lực xã hội bằng cách không những giúp họ trưởng thành hơn trong đời sống Kitô hữu, mà còn giúp họ dưới những hình thức như hướng nghiệp, đào tạo về ơn gọi và tư vấn cho giới trẻ.
47§3 Trong việc đào tạo Kitô Giáo dành cho giới trẻ Á Châu, Giáo Hội phải nhận thức rằng giới trẻ không phải chỉ là đối tượng cho Giáo Hội chăm sóc mục vụ, mà còn là "những tác nhân và cộng sự viên trong sứ mạng của Giáo Hội qua các hoạt động tông đồ khác nhau của tình yêu thương và phục vụ" (232). Bởi đó, tại các giáo xứ và giáo phận, thanh niên nam nữ phải được mời gọi tham gia vào việc tổ chức các hoạt động liên quan đến mình. Nhờ tâm hồn tươi trẻ và nhiệt tình, tinh thần liên đới và hy vọng, họ có thể trở thành người xây dựng hòa bình trong thế giới đang chia rẽ; về điều đó, thật là khích lệ khi thấy người trẻ tham gia vào các chương trình giao lưu giữa các Giáo Hội địa phương và các quốc gia Á Châu, cũng như ở những nơi khác, nhằm cổ võ việc đối thoại giữa các tôn giáo và giữa các nền văn hóa.
TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
48. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, "các phương tiện truyền thông xã hội trở nên quan trọng tới mức mà nhiều người cho đó là phương tiện chính yếu để thông tin và giáo dục, hướng dẫn và gợi hứng cách sống của cá nhân, gia đình và xã hội nói chung. Cách riêng, thế hệ trẻ đang lớn lên trong một thế giới bị tùy thuộc vào các phương tiện thông tin đại chúng" (233). Thế giới hiện nay chứng kiến một nền văn hóa mới đang hiện lên rõ nét, nét văn hóa mới này không chỉ bắt nguồn từ nội dung mà văn hóa sẽ có thể diễn tả, nhưng cũng bắt nguồn từ những cách thông tin mới, những ngôn ngữ mới, những kỹ thuật mới và một tâm lý mới" (234). Các phương tiện truyền thông xã hội đóng một vai trò rất đặc biệt trong việc hình thành khuôn mặt thế giới, hình thành các nền văn hóa và cách suy tư; vai trò đó đã đưa tới những thay đổi nhanh chóng và rộng rãi trong các xã hội Á Châu.
48§2 Sứ mạng phúc âm hóa của Giáo Hội cũng không khỏi chịu tác động sâu xa của các phương tiện truyền thông đại chúng. Vì các phương tiện ấy càng ngày càng có ảnh hưởng nhiều hơn, ngay tại những vùng xa xôi của Châu Á, nên chúng cũng có thể hỗ trợ rất nhiều cho công cuộc loan báo Tin Mừng, tới hết mọi miền của lục địa. Tuy nhiên, "sử dụng các phương tiện truyền thông để phổ biến sứ điệp Kitô Giáo và giáo huấn chân chính của Giáo Hội mà thôi thì chưa đủ. Nhưng còn cần phải đưa sứ điệp ấy vào trong nền "văn hóa mới" do các phương tiện thông tin hiện đại tạo ra" (235). Muốn vậy, Giáo Hội cần khám phá những cách thế để tận dụng mọi phương tiện truyền thông đại chúng vào kế hoạch mục vụ và hoạt động mục vụ, nhờ biết sử dụng cách hữu hiệu mà sức mạnh của Tin Mừng có thể đến và tiếp xúc một cách rộng rãi với từng cá nhân cũng như với toàn cả các dân tộc, đưa các giá trị của Nước Trời thâm nhập vào các nền văn hóa của Châu Á.
48§3 Tôi xin nhắc lại lời ca ngợi của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng dành cho đài phát thanh Chân Lý Á Châu (Radio Veritas Asia) đài phát thanh duy nhất của Giáo Hội có tầm cỡ lục địa tại Châu Á, vì gần ba mươi năm, đài đã phục vụ công cuộc phúc âm hóa bằng truyền thanh. Cần phải nỗ lực để củng cố dụng cụ truyền giáo tuyệt vời này qua những chương trình bằng các ngôn ngữ địa phương thích hợp, giúp đỡ nhân sự và tài chính từ các Hội Đồng Giám Mục và từ các giáo phận Á Châu (236). Bên cạnh việc truyền thanh, các nhà xuất bản và các thông tấn xã Công Giáo có thể giúp phổ biến những thông tin và cung cấp chương trình giáo dục và đào tạo liên tục về mặt tôn giáo cho khắp châu lục này. Ở nơi nào mà người Kitô hữu là thiểu số, thì các phương tiện truyền thông đó có thể là những phương thế quan trọng giúp nâng đỡ và nuôi dưỡng cảm thức về căn tính Công Giáo, và về việc quảng bá kiến thức các nguyên tắc luân lý Công Giáo (237).
48§4 Tôi xin lấy lại những lời khuyên nhủ của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng về việc phúc âm hóa nhờ các phương tiện truyền thông xã hội, được coi là "môi trường văn hóa của thời đại hôm nay" hy vọng rằng làm như thế có thể giúp thăng tiến con người và phổ biến sự thật của Đức Kitô, phổ biến giáo huấn của Giáo Hội (238). Thật là bổ ích, nếu mỗi giáo phận, nơi nào có thể nên thành lập một văn phòng truyền thông đại chúng. Việc giáo dục về lãnh vực thông tin đại chúng, bao gồm việc đánh giá và phê bình các thông tin, ngày càng phải trở thành một phần quan trọng trong việc đào tạo linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên, các giáo dân thuộc mọi ngành chuyên môn, học sinh, sinh viên tại các trường Công Giáo và các cộng đoàn giáo xứ. Đứng trước ảnh hưởng rộng rãi và khác thường của các phương tiện truyền thông đại chúng, người Công Giáo cần cùng làm việc với các thành viên của các Giáo Hội và các cộng đoàn Giáo Hội khác, cùng với tín đồ các tôn giáo khác, để bảo đảm cho các phương tiện truyền thông ấy luôn dành chỗ cho các giá trị thiêng liêng và đạo đức. Cùng với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi khuyến khích việc triển khai các kế hoạch mục vụ về lãnh vực truyền thông ở cấp quốc gia và cấp giáo phận, theo như đã được chỉ dẫn trong huấn thị mục vụ Thời đại mới (Aetatis Novae), cần lưu ý cách riêng tới những hoàn cảnh đặc biệt đang phổ biến khắp Châu Á.
CÁC VỊ TỬ ĐẠO
49. Dù các chương trình đào tạo và các kế hoạch phúc âm hóa có quan trọng đến đâu chăng nữa, thì cuối cùng chính sự tử đạo mới cho thế giới thấy chính bản chất của sứ điệp Kitô Giáo. Tự thân chữ mà ta dịch là "tử đạo" (martyr) đã có nghĩa là làm chứng, và những ai đổ máu mình ra vì Đức Kitô đều đã làm chứng cách cao cả nhất về giá trị đích thực của Tin Mừng. Trong Tông sắc cử hành Năm Đại Toàn Xá 2000, Mầu nhiệm Nhập Thể, (Incarnationis Mysterium) tôi đã nhấn mạnh về tầm quan trọng sống còn của việc tưởng nhớ các vị tử đạo: "Về phương diện tâm lý, tử đạo là bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy chân lý của đức tin, vì đức tin có thể đem lại một bộ mặt nhân bản cho ngay cả cái chết tàn bạo nhất, và vẫn chứng tỏ được vẻ đẹp của mình ngay giữa những cuộc bách hại khốc liệt nhất" (239). Qua các thời đại, Châu Á đã cống hiến cho Giáo Hội và thế giới vô số các vị anh hùng đức tin, và từ giữa lòng Châu Á, ta luôn nghe cất lên bài ca ngợi tuyệt vời này: "Đoàn tử đạo quang huy ca tụng Ngài" . Đó là bài ca của những người đã bỏ mình vì Đức Kitô trên mảnh đất Á Châu này vào những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội; đó cũng là tiếng reo hân hoan thốt lên của những người nam, người nữ trong những thời gian gần đây như thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo, thánh Laurenxô Ruiz và các bạn tử đạo, thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo, thánh Anrê Kim Taegon và các bạn tử đạo. Chớ gì đoàn tử đạo người Á Châu đông đảo, từ xưa đến nay, không bao giờ ngừng dạy cho Giáo Hội Á Châu biết thế nào là làm chứng cho Chiên Con, là Đấng mà họ đã giặt sạch và tẩy trắng tấm áo mình trong Máu của Ngài (x. Kh 7,14). Chớ gì các vị ấy mãi mãi là những chứng nhân bất khuất làm chứng cho sự thật mà các Kitô hữu cũng được mời gọi loan báo mọi nơi mọi lúc, không loan báo gì khác hơn là "sức mạnh của thập giá Chúa Kitô" ! Chớ gì máu các vị tử đạo Á Châu bây giờ và mãi mãi là hạt giống hứa hẹn một sự sống mới cho Giáo Hội tại mọi miền của châu lục này!
KẾT LUẬN
LỜI TRI ÂN VÀ KHÍCH LỆ
50. Để kết thúc Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng, là tông huấn tìm cách phân định tiếng Chúa Thánh Thần muốn nói với các Giáo Hội tại Châu Á (x. Kh 1,11) và giới thiệu những thành quả của Hội Nghị Đặc Biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục vừa qua, tôi muốn bày tỏ lòng tri ân của Giáo Hội đối với tất cả các anh chị em, những người con dân của Châu Á thân mến đã đóng góp cách này hay cách khác vào sự thành công của biến cố Giáo Hội quan trọng này. Trước hết và trên hết, chúng ta lại cùng nhau ca ngợi Thiên Chúa về sự phong phú của lục địa rộng lớn này, phong phú về các văn hóa, các ngôn ngữ, các truyền thống và các tâm thức tôn giáo khác nhau. Hãy chúc tụng Thiên Chúa vì đã thương các dân tộc Á Châu, những dân tộc phong phú biết bao trong sự dị biệt nhiều mặt của mình, nhưng vẫn hiệp nhất với nhau trong khát vọng hòa bình và đời sống sung mãn. Cách riêng lúc này, khi đến gần ngày kỷ niệm lần thứ 2000 biến cố Đức Giêsu Kitô giáng sinh, chúng ta tạ ơn Thiên Chúa đã chọn Châu Á làm nơi cư ngụ trên trần gian này cho Con Chúa Nhập thể, là Đấng Cứu Độ thế giới.
50§2 Tôi không thể không đánh giá cao các giám mục Á Châu về tình yêu sâu xa của các vị đối với Đức Giêsu Kitô, đối với Giáo Hội và các dân tộc Á Châu này, cũng như về chứng tá hiệp thông và quảng đại dấn thân của các vị cho nhiêm vụ phúc âm hóa. Tôi biết ơn tất cả những ai đang làm nên đại gia đình Giáo Hội Á Châu: các giáo sĩ, nam nữ tu sĩ và những người tận hiến khác, các nhà truyền giáo, giáo dân, các gia đình, giới trẻ, các dân tộc bản xứ, các người lao động, người nghèo và người đau khổ. Tận đáy lòng tôi luôn có một chỗ đặc biệt dành cho những người Á Châu đang bị bách hại vì đã tin vào Đức Kitô. Họ là những cột trụ ẩn giấu của Giáo Hội, đã được chính Đức Giêsu an ủi rằng: "Anh em là người có phúc trong Nước Trời" (Mt 5,10).
50§3 Một lần nữa, những lời nói sau đây của Đức Giêsu lại trấn an Giáo Hội tại Châu Á "Hỡi đàn chiên bé nhỏ, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Vương Quốc của Ngài cho anh em" (Lc 12,32). Những người tin vào Đức Kitô vẫn còn là một thiểu số ít ỏi trong lục địa mênh mông và đông dân nhất này. Tuy nhiên, thay vì là thiểu số nhút nhát rụt rè, họ vẫn sống động trong đức tin, tràn trề hy vọng và sức sống, một điều mà chỉ nhờ tình yêu mới có được. Một cách khiêm tốn nhưng dũng cảm, họ đã gây được ảnh hưởng lên các nền văn hóa và các xã hội Á Châu, nhất là lên đời sống của những người nghèo đói và bơ vơ, mà nhiều người trong số đó không cùng một đức tin Công Giáo với họ. Họ đúng là một tấm gương cho các Kitô hữu mọi nơi vì đã luôn luôn hăng hái chia sẻ kho tàng Tin Mừng "dù thuận lợi hay không thuận lợi" (2 Tm 4,2). Họ tìm được sức mạnh nơi quyền năng tuyệt vời của Chúa Thánh Thần, mặc dù Giáo Hội Á Châu thường là bé nhỏ nhưng Ngài vẫn luôn bảo đảm cho Giáo Hội ấy được hiện diện như một chút men pha trộn với khối bột một cách âm thầm và kín đáo cho tới khi tất cả khối bột dậy lên (x. Mt 13,33).
50§4 Các dân tộc trên Châu Á này cần đến Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài. Châu Á đang khao khát nước hằng sống mà chỉ mình Đức Giêsu mới có thể đem lại (x. Ga 4,10-15). Thế nên, các môn đệ Đức Kitô tại Châu Á phải quảng đại hết lòng trong nỗ lực chu toàn sứ mạng đã nhận được từ nơi Chúa, Đấng đã hứa sẽ ở với họ cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng không để những ai đã được Ngài kêu gọi phải thất bại, Giáo Hội Á Châu hân hoan hành hương tiến vào Ngàn Năm Thứ Ba. Niềm vui duy nhất của Giáo Hội Á Châu là được chia sẻ với các dân tộc đông đảo của Châu Á món quà vĩ đại mà mình đã nhận được, đó là tình thương của Đức Giêsu Cứu Thế. Ước vọng duy nhất của Giáo Hội Á Châu lúc này là được tiếp tục sứ mạng phục vụ và yêu thương, để tất cả mọi người Á Châu "được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10).
CẦU NGUYỆN VỚI THÂN MẪU ĐỨC KITÔ
51. Đứng trước một sứ mạng đầy thách đố như thế, chúng ta hướng về Đức Maria, Đấng được các Kitô hữu Á Châu rất yêu mến và luôn tôn kính như người Mẹ của chính mình và của Đức Kitô như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nói (240). Ở khắp Châu Á ta thấy hằng trăm đền thánh và đền thờ kính Đức Maria, quy tụ không những các tín hữu Công Giáo mà cả tín đồ các tôn giáo khác nữa.
51§2 Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba của Kitô Giáo, tôi xin phó dâng Giáo Hội Á Châu cho Đức Maria, gương mẫu của mọi môn đệ và là Ngôi Sao sáng ngời của công cuộc phúc âm hóa, vì tin tưởng tuyệt đối rằng Mẹ luôn lắng tai nghe, luôn mở rộng tấm lòng và không ngừng cầu nguyện:
51§3 Lạy Đức Maria rất thánh, ái nữ của Thiên Chúa Tối Cao, là Mẹ Đồng Trinh của Chúa Cứu Thế và là Mẹ của mọi người chúng con, xin âu yếm nhìn đến Giáo Hội của Con Mẹ đã được trồng trên mảnh đất Á Châu này. Xin hãy dẫn đường và làm mẫu gương cho Giáo Hội chúng con trong khi Giáo Hội tiếp tục sứ mạng yêu thương và phục vụ của Con Mẹ tại Châu Á này.
Mẹ đã tự nguyện đón nhận hoàn toàn tiếng gọi của Chúa Cha để làm Mẹ Thiên Chúa; xin dạy chúng con biết thanh tẩy tâm hồn khỏi những gì không phải là của Chúa, để tâm hồn chúng con cũng được đầy tràn Chúa Thánh Thần từ trời cao.
Mẹ đã suy niệm các mầu nhiệm của thánh ý Thiên Chúa trong sự thinh lặng nội tâm; xin giúp chúng con trên đường dương thế biết phân định các dấu chỉ của bàn tay quyền năng Chúa.
Mẹ đã mau chóng đến thăm bà Elisabeth để giúp đỡ bà trong lúc chờ sinh nở; xin cầu cho chúng con cũng có tinh thần nhiệt thành và phục vụ như Mẹ trong nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng.
Mẹ đã ngợi khen Đức Chúa, xin giúp chúng con biết hân hoan công bố niềm tin vào Đức Kitô Cứu Thế.
Mẹ đã động lòng thương người túng thiếu và đã thay mặt họ cầu xin với Con Mẹ, xin dạy chúng con không bao giờ ngại ngùng thưa chuyện với Đức Giêsu về thế giới, cũng như nói với thế giới về Đức Giêsu.
Mẹ đã đứng dưới chân Thập Giá khi Con Mẹ trút hơi thở cuối cùng, xin cũng có mặt bên chúng con khi chúng con tìm sự hiệp nhất trong tinh thần và trong phục vụ với tất cả những người đang đau khổ.
Mẹ đã cầu nguyện cùng với các môn đệ trong Nhà Tiệc Ly, xin giúp chúng con biết mong đợi Chúa Thánh Thần và sẵn sàng đi bất cứ nơi nào Ngài đưa dẫn.
Xin Mẹ hãy che chở Giáo Hội khỏi mọi quyền lực đang đe dọa. Xin giúp Giáo Hội trở thành hình ảnh đích thực của Chúa Ba Ngôi rất thánh.
Xin cầu nguyện cho Giáo Hội nhờ tình thương và sự phục vụ của mình mà làm cho các dân tộc Á Châu nhận biết Con của Mẹ: Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất, và nhờ đó nếm được niềm vui vì được sống sung mãn.
Lạy Đức Maria, Mẹ của công cuộc sáng tạo mới và là Mẹ của Châu Á, xin cầu cho chúng con, là con cái Mẹ, bây giờ và luôn mãi!
Ban hành tại New Delhi, Ấn Độ,
ngày 6 tháng 11 năm 1999,
tức năm thứ 22 triều đại Giáo Hoàng của tôi.
Gioan Phaolô II
Chú Thích:
(204) X. Sắc lệnh "Đến với lương dân", 2 và 35.
(205) X. Đức Gioan Phaolô II Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế", 31 : AAS 83 (1991), 277.
(206) X. như trên.
(207) X. như trên.
(208) X. Đề nghị 25.
(209) X. như trên.
(210) X. Hiến chế "Ánh sáng muôn dân", 46.
(211) X. Đề nghị 27.
(212) X. Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng "Đời sống thánh hiến", 103 : AAS 88 (1996), 479.
(213) X. Tông huấn "Loan báo Tin Mừng", 69 : AAS 68 (1976), 59.
(214) X. Đề nghị 27.
(215) X. như trên.
(216) X. như trên.
(217) X. Đề nghị 28.
(218) X. như trên.
(219) X. Hiến chế "Ánh sáng muôn dân", 31.
(220) X. Đề nghị 29.
(221) X. như trên.
(222) X. như trên.
(223) Đức Gioan-Phaolô II, "Diễn văn tại buổi yết kiến chung" (13.7.1994), 4: Insegnamenti XVII, 2 (1994), 40.
(224) X. Đề nghị 35.
(225) x. như trên.
(226) Hiến chế "Ánh sáng muôn dân", 11.
(227) X. "Tường trình trưóc khi thảo luận": L'Osservatore Romano (11.4.1998), 6.
(228) X. Đề nghị 32.
(229) X. Đề nghị 33.
(230) Đức Gioan-Phaolô II, "Diễn văn tại Liên hiệp các Văn phòng tư vấn gia đình chịu ảnh hưởng Kitô Giáo" (29.11.1980), 4 : Insegnamenti III, 2 (1980), 1454.
(231) X. Đề nghị 34.
(232) X. như trên.
(233) Tông thư "Sứ vụ Đấng Cứu Thế" , 37: AAS 83 (1991), 285.
(234) X. như trên.
(235) X. như trên.
(236) X. Đề nghị 45.
(237) X. như trên..
(238) X. như trên.
(239) "Diễn văn. . . " số 13: AAS 91 (1999), 142.
(240) X. Đề nghị 59.
Ban Dịch Thuật