LƯU Ý

Đây là những văn bản Huấn quyền của Giáo Hội mà anthanhlinhgiang đã thu thập được trong nhiều năm và từ nhiều nguồn khác nhau - có thể từ internet hoặc có thể từ những người thiện chí gửi đến. Vì thế có những văn bản không rõ nguồn được lấy từ đâu hoặc có thể không có tính chính xác trong khi dịch thuật hoặc đã bị chỉnh sửa. Vì vậy trong quá trình sử dụng, bạn nào thấy có điều bất trắc, xin vui lòng báo lại để anthanhlinhgiang điều chỉnh hoặc gỡ bỏ.

Những văn bản có nguồn gốc thì anthanhlinhgiang sẽ ghi rõ ràng để các bạn yên tâm.

Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2011

Thông Điệp Fides Et Ratio - Đức Tin Và Lý Trí - Của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

Thông điệp
Đức tin và Lý trí
của Đức Gioan Phaolô II
gửi các Giám mục của Giáo Hội Công giáo
 về những tương quan giữa đức tin và lý trí

Thân ái gửi lời chào và phúc lành toà thánh đến Chư huynh đáng kính.
Đức tin và Lý trí là như đôi cánh giúp cho trí tuệ con người băng mình lên để chiêm niệm chân lý. Thiên Chúa đã in vào tâm khảm con người khát vọng nhận biết chân lý, và sau cùng để nhận biết chính Người, ngõ hầu khi đã biết và yêu mến Người thì con người cũng nhận biết chân lý đầy đủ về chính mình (xc. Xh 33,18; Tv 27,8-9; 63, 2-3; Ga 14,8; 1 Ga 3,2).

Dẫn nhập
“Hãy tự biết mình”

1. Ở Đông phương cũng như Tây phương, chúng ta có thể nhận ra một lộ trình, trải dài nhiều thế kỷ, đã đưa nhân loại lại gần chân lý và đối chiếu mình với chân lý. Hành trình ấy đã diễn tiến - và không thể khác đi - trong lãnh vực ý thức nhân bản về chính mình: con người càng biết thực tại và thế giới, càng biết mình trong sự thuần nhất, thì câu hỏi về ý nghĩa của các vật và của chính cuộc đời mình càng trở nên câu thúc. Chính vì thế mà một phần của đời sống chúng ta được xuất hiện như đối tượng nhận thức của ta. Lời nhắn nhủ “Hãy tự biết mình” đã được khắc trên “mui lưa” của đền Delphes, để chứng minh cho một chân lý nền tảng, phải được lấy như qui luật tối thiểu cho mọi người muốn xác định chính mình, giữa vũ trụ, bằng cách minh định mình như “con người” vì “tự biết mình”.
Đàng khác, thoáng nhìn vào lịch sử cổ thời ta cũng thấy rõ tại nhiều nơi trên hoàn cầu, với những nền văn hoá khác nhau, đã đồng thời phát sinh ra những câu hỏi nền tảng, đánh dấu hành trình của cuộc nhân sinh: Tôi là ai? Tôi bởi đâu mà đến và tôi đi về đâu? Tại sao có điều ác? Sau cuộc sống này còn có chi chăng? Những câu hỏi ấy được ghi trong Sách Thánh của người Do thái, nhưng cũng thấy có trong kinh Vệ đà và trong sách Avesta; chúng ta cũng thấy trong các sách của Khổng tử, của Lão tử, và trong những lời thuyết pháp của Tirthankaras và của Phật tổ; đó cũng là những điều được thấy trong những vần thơ của Homéro và những bi hài kịch của Euripide và của Sophocle, trong cả những tác phẩm triết học của Platon và Aristote. Các câu hỏi ấy có một nguồn gốc chung: là sự tìm kiếm ý nghĩa luôn luôn hối thúc trong tâm khảm chúng ta, vì chưng hướng đi của cuộc nhân sinh hệ tại lời giải đáp cho những câu hỏi ấy.
2.       Giáo hội không phải, và cũng không thể là khách bàng quan trong quá trình tìm hiểu ấy. Vì từ khi được ơn biết chân lý tối hậu về cuộc đời con người, trong Mầu nhiệm Vượt qua, Giáo hội đã tham gia cuộc lữ hành trên những nẻo đường của thế giới để loan báo Đức Giêsu Kitô là “Đường, là Chân lý và là sự Sống” (Ga 14,6). Trong nhiều dịch vụ mà Giáo hội cúng hiến cho nhân loại, có một dịch vụ mà Giáo hội phải đặc biệt đảm trách: đó là phục vụ chân lý[1]. Một đàng, sứ vụ này làm cho cộng đoàn những tín hữu tham gia vào nỗ lục chung mà nhân loại phải hoàn thành để đạt tới chân lý[2], và đàng khác, sự phục vụ này đòi phải loan báo những chân lý chắc chắn đã chinh phục được, dù vẫn biết rằng mọi chân lý đã chinh phục cũng chỉ là một giai đoạn để đi tới chân lý, sẽ được tỏ hiện trong mặc khải sau cùng của Thiên Chúa: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi chỉ được biết có hạn, mai sau sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1 Cr 13,12).
3.       Con người có nhiều nguồn lực khích lệ tiến tới trong sự nhận biết chân lý, để làm cho cuộc đời ngày càng nhân bản hơn. Trong số những nguồn lực ấy có triết học, trực tiếp cộng tác vào việc đặt vấn đề về ý nghĩa cuộc đời và cố gắng tìm giải đáp; triết học xuất hiện như một trong những trách nhiệm tao nhã nhất của nhân loại. Hạn từ Triết học, theo nguyên ngữ hy lạp có nghĩa là “yêu mến sự thông tuệ”. Quả thực, triết học phát sinh và phát triển vào thời kỳ con người bắt đầu tự hỏi về lý do của vạn vật, và về mục đích của chúng. Theo những cách thức và dạng thức khác nhau, nó cho thấy khát vọng tìm kiếm chân lý là đặc trưng của bản tính con người. Đặc tính cố hữu của lý trí là tự hỏi về lý do của vạn vật, dù những lời giải đáp dần dần được ghi vào một phối cảnh thì phối cảnh này cũng cho thấy rõ, những lời giải đáp của các nền văn hoá khác nhau của con người đã bổ túc lẫn nhau.
Ảnh hưởng lớn lao triết học đã đạt được trong việc hình thành và phát triển các nền văn hoá Âu châu không nên làm cho chúng ta quên đi ảnh hưởng, mà triết học cũng đã đạt được ở Á đông, trong những cách quan niệm về cuộc đời. Quả thực mỗi dân tộc đều sở hữu một nền minh triết riêng biệt và độc đáo, thứ minh triết, xét như là tài nguyên văn hoá đích thực, có khuynh hướng giãi bày và phát triển dưới những hình thức có tính cách triết học. Thực thế, và ta có thể nhận thấy trong những thỉnh đề, gợi hứng cho những luật lệ quốc gia và quốc tế, để thiết lập những qui tắc cho cuộc sống xã hội, là chứng tá về sự hiện hữu của một kiến thức triết học, theo hình thức cơ bản, tồn tại cho đến ngày nay.
4.       Dù sao cũng phải nhận thấy rằng, dưới một hạn từ duy nhất, ẩn náu những ý nghĩa khác nhau, nên cần phải giải thích trước. Được thúc đẩy bởi khát vọng tìm chân lý tối hậu của cuộc đời, con người tìm cách chinh phục những nhận thức phổ quát, giúp họ hiểu biết chính mình và tiến tới trong việc thể hiện chính mình. Những kiến thức nền tảng phát sinh do sự ngạc nhiên khi chiêm ngắm những vật thụ tạo: con người ngạc nhiên khi thấy mình được hội nhập vào thế giới, có liên hệ với nhiều vật giống như mình, và đồng phận với mình. Đó là khởi điểm của hành trình hướng dẫn con người khám phá ra những chân trời ngày càng mới mẻ của kiến thức. Không biết lạ lẫm, con ngưòi sẽ ngả theo sự lặp đi lặp lại, và dần dà sẽ trở thành bất lực không thể có một lối sống nhân bản.
Khả năng trừu tượng là đặc trưng của trí tuệ con người; với hoạt động triết lý, khả năng này sẽ dẫn đến việc thiết lập một hình thức tư tưởng nghiêm túc, và như vậy, xây dựng một kiến thức có hệ thống, với sự mạch lạc hữu lý của những phán đoán, và tính cách hữu cơ của nội dung. Nhờ vào quá trình ấy, trong những bồi cảnh văn hoá dị biệt và qua nhiều thời đại khác nhau, người ta đã đạt tới những thành quả, dẫn đến việc thiết lập những hệ thống tư tưởng đích thực. Theo sử quan, điều đó nhiều khi như huyễn hoặc ta coi một luồng tư tưởng như tổng thể tư tưởng triết học. Nhưng hiển nhiên là, trong những trường hợp này, có một thứ “tự hào triết học” xen vào, đưa cái nhìn còn khiếm khuyết lên hàng bài học phổ quát. Thực vậy, mọi hệ thống triết lý, dù luôn luôn được tôn trọng trong sự toàn vẹn của chúng, chứ không phải như công cụ, đều phải công nhận quyền ưu tiên của tư tuởng triết học, nơi phát xuất ra chúng, và chúng phải phục vụ cách chặt chẽ.
Theo nghĩa đó, dù có những thay đổi qua dòng thời gian và có những tiến bộ về kiến thức, ta có thể nhận ra cái cốt lõi của những quan niệm triết lý [noyau de notions philosophiques] luôn luôn hiện diện trong lịch sử tư tưởng. Để lấy một thí dụ, ta hãy nghĩ đến những nguyên lý bất mâu thuẫn, cứu cánh, nhân quả, cũng như quan niệm về nhân vị như chủ thể tự do và hiểu biết, và khả năng của nó để nhận biết Thiên Chúa, chân lý và điều thiện; ta cũng hãy nghĩ đến những qui tắc luân lý nền tảng được chấp nhận cách công cộng. Những đề tài ấy và những điều khác nữa tỏ rõ rằng, có một tổng thể những ý niệm mà người ta có thể nhìn nhận như gia sản thiêng liêng của nhân loại, độc lập với những trào lưu tư tưởng. Điều đó làm cho chúng ta như thấy mình đứng trước một triết lý ám tàng [philosophie implicite], khiến ai nấy cảm thấy như mình sở hữu những nguyên lý ấy, dù chỉ cảm thấy một cách tổng quát thiếu phản tỉnh. Chính vì được mọi người chia sẻ theo mức độ nào đó, những ý niệm này phải làm thành những điểm qui chiếu cho nhiều trường phái triết học. Khi lý trí đạt đến chỗ nắm bắt và công thức hoá những những nguyên lý thủ yếu và phổ quát của hữu thể, và từ đó rút tỉa ra những kết luận mạch lạc trong lãnh vực luận lý và luân lý, lúc đó người ta có thể bàn về một lý trí đúng đắn, hay như những cổ nhân nói: lý trí ngay thẳng: orthos logos.
5.       Về phần mình, Giáo Hội phải thán phục những nỗ lực của lý trí để đạt tới những mục tiêu làm cho cuộc nhân sinh ngày càng xứng đáng hơn. Quả thực, Giáo hội nhận thấy nơi triết học một phương cách nhận biết những chân lý nền tảng, liên quan đến cuộc sống của con người. Đồng thời Giáo hội coi triết học như một trợ lực không thể thiếu để thấu hiểu đức tin và để truyền thông chân lý của Tin mừng cho những ai chưa biết đến.
Vì thế, tiếp nối những sáng kiến của các vị tiền bối, tôi cũng muốn chú ý đến hoạt động riêng biệt này của lý trí. Tôi được kích thích, nhất là ngày nay, bởi sự kiện này là, việc nghiên cứu chân lý tối hậu thường như bị bê trễ. Quả nhiên, triết học hiện đại có công lớn là đã kéo chú ý đến con người. Từ đó lý trí hay tọc mạch đã phát triển ước muốn có được một kiến thức ngày càng sâu rộng. Vì thế người ta đã xây dựng những hệ thống tư tưởng phức tạp, đã mang lại thành quả trong nhiều lãnh vực hiểu biết, cổ võ sự phát triển văn hoá và lịch sử. Nhân loại học, luận lý học, khoa học thiên nhiên, lịch sử và ngôn ngữ học v.v. và một cách nào đó, toàn thể các kiến thức được đề cập tới. Tuy nhiên những thành quả tích cực đã đạt được không nên làm cho chúng ta coi nhẹ một sự kiện, là hình như chính lý trí, khi bận tâm tìm hiểu một chiều về con người như chủ thể, dường như đã quên rằng chủ thể này luôn luôn được mời gọi để hướng về một chân lý trổi vượt hơn mình. Không qui chiếu với chân lý này, ai nấy sẽ bị rơi vào thiên kiến, và tình trạng nhân vị của mỗi người sẽ bị đánh giá theo những tiêu chuẩn thực dụng, đặt nền tảng trên dữ kiện thực nghiệm, với xác tín sai lầm rằng, mọi sự đều được chi phối bởi kỹ thuật. Thành thử thay vì giãi bày sự vươn tới chân lý cách tốt nhất, lý trí, dưới gánh nặng của nhiều kiến thức như thế, lại co quắp lại, và càng ngày càng trở thành bất lực, không dám hướng nhìn lên cao để nhận biết chân lý của hữu thể. Triết học hiện đại, vì quên không hướng cuộc nghiên cứu của mình vào hữu thể, đã tập trung cuộc nghiên cứu ấy vào kiến thức nhân loại. Thay vì tựa vào khả năng của con người biết chân lý, lại thích vạch ra những giới hạn và những điều kiện của mình.
Do đó phát sinh ra nhiều hình thức của thuyết Bất khả tri và Tương đối, huớng việc nghiên cứu triết học đến chỗ lạc lõng giữa những lớp cát bập bềnh của sự hoài nghi phổ quát. Rồi mới đây xuất hiện một số những đạo lý chủ trương hạ giá chính những chân lý, mà con người đã chinh phục được cách chắc chắn. Cái đa dạng chính đáng của những lập trường đã nhường bước cho thuyết đa nguyên ba phải [pluralisme indifférencié], căn cứ trên khẳng định là mọi lập trường đều có giá trị: đây là một trong những hội chứng rất thịnh hành của sự bất tín nhiệm vào chân lý, mà ta có thể nhận thấy trong phối cảnh ngày nay. Một vài quan niệm về cuộc đời phát xuất từ Đông phương cũng không tránh khỏi tình trạng này; quả thực, theo những đạo lý này ta có thể phủ nhận tính cách chuyên biệt của chân lý, vì giả định rằng, chân lý được giãi bày như nhau trong những đạo lý khác nhau, hơn nữa tương phản nhau. Trong phối cảnh ấy, mọi sự đều trở thành ý kiến. Người ta có cảm tưởng như đứng trước một hoàn cảnh lung lay: đang khi, một đàng sự suy tư triết học đã thành công khi dấn thân vào con đường đưa nó đến gần thực tại của cuộc nhân sinh và gần những hình thức giãi bầy của nó, thì đàng khác nó hướng về sự phát triển những suy tư hiện sinh, chú giải hay ngữ học, nhưng lờ hẳn vấn đề căn để về sự sống cá nhân, về hữu thể và về Thiên Chúa đi. Thành thử chúng ta thấy xuất hiện nơi những người đương đại, chứ không phải nơi một vài triết gia mà thôi, những thái độ ngờ vực khá phổ biến đối với những nguồn lực nhận thức lớn của con người. Do sự đoan trang giả tạo, người ta chỉ bằng lòng với những chân lý phiến diện và tạm bợ, không tìm cách đặt thêm câu hỏi cơ bản về ý nghĩa và về nền tảng sau cùng của sự sống nhân bản, ngôi vị và xã hội, Nói tóm lại, người ta không hy vọng đón nhận nơi triết học những giải đáp dứt khoát về những vấn đề ấy.
6.       Vững mạnh về khả năng của mình, vì được Chúa Giêsu ký thác Mặc khải, Giáo hội muốn khẳng định lại nhu cầu phải suy tư về chân lý. Vì lẽ đó đó, tôi quyết tâm ngỏ lời với chư huynh trong hàng Giám mục, những người mà tôi phải chia sẻ sứ vụ “giãi bày chân lý” (2 Cr 4,2), cũng như với các thần học gia và những triết gia, những người có bổn phận phải quán xuyến những khía cạnh khác nhau của chân lý, và với cả những nhà nghiên cứu, để chia sẻ vài suy tư về con đường đưa đến thông tuệ chân thực, để tất cả những ai thành tâm yêu mến sự thông thái có thể dấn thân trên con đường ngay thẳng giúp đạt tới chân lý, và tìm thấy nơi chân lý phần thưởng của công vất vả và niềm vui thiêng liêng.
Chính ý thức về bổn phận, mà CĐC Vatican II xác định, đã giúp tôi đi đến sáng kiến này, CĐC này đã khẳng định rằng: các Giám mục là “những chứng nhân của chân lý thần linh và công giáo” (LG, 25). Làm chứng cho chân lý đó là sứ vụ được trao phó cho chúng tôi, là những giám mục; chúng tôi không thể thoái thác, chẳng vậy sẽ thiếu sót trong tác vụ đã được trao phó cho chúng tôi. Khi tái khẳng định chân lý của đức tin, chúng tôi có thể tái cung cấp cho người thời đại chúng tôi sự tín nhiệm đích đáng vào khả những năng nhận biết của mình, và ngỏ lời thách đố triết học tìm lại và phát triển phẩm giá đầy đủ của mình.
Một lý do khác khích lệ tôi đưa ra những suy tư này. Trong thông điệp Sự sáng ngời của chân lý, tôi đã kéo chú ý đến “một vài chân lý nền tảng của đạo lý công giáo có nguy cơ bị méo mó hoá, hay bị tẩy chay trong hoàn cảnh hiện nay” (số 4). Với Thông điệp này, tôi muốn nối tiếp suy tư ấy và kéo chú ý vào cũng một đề tài chân lý và về nền tảng của nó trong tương quan với đức tin. Quả thực, người ta không thể chối được là, thời kỳ của thay đổi mau lẹ và phức tạp này đã làm cho những thế hệ trẻ phải cảm thấy mất những điểm tựa chính thức. Sự đòi hỏi một nền tảng để xây cất cuộc nhân sinh cá nhân và xã hội được cảm thấy một cách câu thúc nhất, là khi người ta nghiệm thấy tính cách vụn vặt của những mệnh đề cất nhắc cái phù du lên hàng giá trị, trong ảo tưởng là có thể đạt tới ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Như thế nhiều người đưa cuộc đời mình đến vực thẳm mà không biết mình đi đâu. Điều đó cũng hệ tại việc những người, được kêu gọi để diễn tả thành quả suy tư của mình theo hình thức văn hoá, đôi khi đã ngoảnh mặt đi khỏi chân lý, lấy thành công tức thời làm hơn sự vất vả của nghiên cứu nhẫn nại về điều đáng sống. Bởi được mời gọi để liên lỉ tìm điều chân thực, triết học có trách nhiệm lớn trong việc huấn luyện tư tưởng và văn hoá, cần phải khẳng khái phục hồi ơn gọi nguyên thủy của mình. Nên tôi chẳng những cảm thấy sự câu thúc, lại cảm thấy cả bổn phận phải can thiệp trong vấn đề này, để trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, nhân loại ý thức rõ rệt hơn những nguồn lực đã được cung cấp cho họ, và dấn thân một cách can đảm luôn luôn mới mẻ trong việc thực hiện chương trình cứu độ, mà lịch sử loài người đã ghi dấu.


Chương I
Mặc khải về sự thông tuệ
của Thiên Chúa
Đức Giêsu mặc khải Chúa Cha
7.       Khi bắt đầu thực hiện bất cứ một suy tư nào, Giáo hội vẫn ý thức mình là nơi ký thác sứ điệp mà Thiên Chúa đã thông ban (xc. 2 Cr 4,1-2). Kiến thức mà Giáo hội trình bày cho con người không do sự suy tư riêng của Giáo hội, dù cao cả đến đâu, nhưng là kiến thức đã được đón nhận từ lời Thiên Chúa trong đức tin (1 Tx 2,13). Từ nguồn gốc của người tín hữu chúng ta, đã có một cuộc gặp gỡ, độc nhất vô nhị, khai mở mầu nhiệm đã được giữ kín từ lâu, nhưng hiện nay được tỏ lộ: “Trong sự nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm ý định của Người (xc. Ep 1,9), qua đó con người được đến gần Chúa Cha nhờ Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông dự bản tính Thiên Chúa” (DV 2). Đó là một sáng kiến hoàn toàn nhưng không, phát xuất từ Thiên Chúa đến gặp gỡ nhân loại để cứu độ nó. Vì là nguồn tình yêu, Thiên Chúa muốn tỏ mình ra; và kiến thức, mà con người có về Thiên Chúa, kiện toàn mọi kiến thức chân chính, mà trí khôn nhân loại có thể biết về ý nghĩa cuộc đời của mình.
8.       Khi lấy lại hầu như từng chữ giáo huấn của Tông hiến Dei Filius [Con Thiên Chúa] của CĐC Vatican I và lưu ý đến những điều được đề nghị trong CĐC Trento, Hiến Chế Dei Verbum của CĐC Vatican II đã nối tiếp quá trình kéo dài từng trăm năm về sự hiểu biết đức tin, và đã suy nghĩ về Mặc khải theo ánh sáng của giáo huấn Kinh Thánh và của toàn bộ truyền thống giáo phụ. Trong CĐC Vatican I các nghị phụ đã công nhận sự mặc khải Thiên Chúa có tính cách siêu nhiên. Căn cứ vào những đề luận sai nhầm và rất phổ biến, lối phê bình duy lý thời ấy đã chống đối đức tin và phủ nhận tất cả mọi nhận thức không phải là thành quả của những khả năng tự nhiên của lý trí. Điều đó làm cho CĐ phải tái khẳng định cách mạnh mẽ rằng, ngoài nhận thức riêng mà lý trí nhân loại cứ sức tự nhiên có thể nhận biết Đấng Tạo thành, còn có một nhận thức riêng biệt của đức tin. Sự nhận thức này giãi bày một chân lý, đặt nền tảng trên chính việc Thiên Chúa tự mặc khải chính mình, và là một chân lý rất chắc chắn vì Thiên Chúa không sai lầm và không muốn đánh lừa ai[3]
9.       CĐC Vatican I dạy rằng, chân lý mà ta đạt được do con đường suy luận triết lý và chân lý do Mặc khải không hỗn đồng với nhau; chân lý nọ cũng không làm cho chân lý kia trở thành dư thừa: “Có hai lãnh vực nhận thức, khác nhau không những bởi nguồn gốc, mà còn bởi đối tượng. Bởi nguồn gốc, vì trong lãnh vực nọ ta nhờ lý trí tự nhiên mà biết được, còn trong lãnh kia thì nhờ Mặc khải của Thiên Chúa. Bởi đối tượng, vì ngoài những chân lý mà lý trí tự nhiên có thể đạt tới, còn có những mầu nhiệm được trình bày để chúng ta tin, những mầu nhiệm giấu ẩn trong Thiên Chúa, nếu không được mặc khải thì không thể biết được[4]. Được đặt nền tảng trên chứng tá của Thiên Chúa lại thừa hưởng sự trợ giúp siêu nhiên của ân sủng, đức tin thuộc lãnh vực khác với nhận thức triết lý. Thực vậy, nhận thức triết lý tựa trên sự thâu nhận giác quan, trên kinh nghiệm, và phát triển nhờ ánh sáng của một mình lý trí. Triết học và các hoa học diễn tiến trong lãnh vực của lý trí tự nhiên, còn đức tin, được Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn, nhận ra trong sứ điệp cứu độ “sự sung mãn của ân sủng và chân lý” (Ga 1,14) mà Thiên Chúa đã khứng mặc khải trong lịch sử, và mặc khải một cách dứt khoát qua Con của Người là Đức Giêsu Kitô (1 Ga 5,9; Ga, 5,31-32).
10.     Chiêm ngưỡng Đức Giêsu như Đấng mặc khải, các Nghị phụ CĐC Vatican II, đã đưa ra ánh sáng tính cách cứu độ của mặc khải của Thiên Chúa trong lịch sử, và các ngài đã mô tả bản chất của mặc khải ấy bằng những lời lẽ sau đây: “Nhờ sự mặc khải này, Thiên Chúa vô hình (xc. Cl 1,15; 1 Tm 1,17), trong tình yêu sung mãn, đã ngỏ lời với con người như với những bạn hữu (xc. Xh 33,11; Ga 15,14-15) và giao tiếp với họ (xc. Ba 3,38), để mời họ sống hiệp thông với Người, và tiếp nhận họ vào sự hiệp thông này. Kế hoạch Mặc khải này thể hiện bằng việc làm và bằng lời nói liên kết mật thiết với nhau, thành thử những công việc, do Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu độ, giãi bày và củng cố đạo lý và những thực tại được ám chỉ qua những lời nói, đang khi những lời nói lại công bố những việc làm và soi sáng mầu nhiệm hàm chứa trong đó. Nhờ mặc khải này, chân lý thâm thúy về Thiên Chúa cũng như về ơn cứu độ con người trở nên sáng ngời cho chúng ta trong Đức Kitô, Đấng vừa là Trung gian vừa là Đấng khai mở mọi Mặc khải” (DV. 2).
11.     Vậy sự Mặc khải của Thiên Chúa được ghi trong thời gian và trong lịch sử. Chính việc nhập thể của Chúa Giêsu Kitô cũng xảy ra vào thời viên mãn (Gl 4,4). Hai ngàn năm sau biến cố này, tôi cảm thấy cần phải tái khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, “trong Kitô giáo, thời gian có một tầm quan trọng nền tảng” (xc. Tertio millennio adv. n.10). Quả thực, trong thời gian toàn thể công trình tạo thành và cứu chuộc được sáng tỏ, và sự kiện đặc biệt được sáng tỏ là, nhờ việc nhập thể của Con Thiên Chúa, chúng ta sống và chúng ta nếm trước ngay từ bây giờ điều sẽ hoàn thành trong thời gian (Dt 1,2).
Chân lý về chính Mình và về cuộc đời của Mình mà Thiên Chúa đã ủy thác cho con nguời, thì được ghi trong thời gian và trong lịch sử. Chắc chắn chân lý ấy đã được công bố một lần thay cho tất cả trong mầu nhiều của Đức Giêsu Nazareth. Hiến Chế Mặc khải nói rõ: “Sau khi nhiều lần nhiều cách Thiên Chúa đã phán dạy qua các ngôn sứ, thì đến ngày sau hết, Người đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. (Dt 1,1-2). Quả thực, Người đã cử Con của Người, ấy là Ngôi Lời hằng hữu, Đấng soi sáng mọi người, để cư ngự giữa người phàm và làm cho họ biết những điều sâu thẳm của Thiên Chúa (xc. Ga 1,1-18). Vậy Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, được cử đến như “phàm nhân đến với những phàm nhân”, “công bố những lời Thiên Chúa” (Ga 3,34), hoàn thành công trình cứu chuộc mà Chúa Cha ủy cho Người thi hành (xc. Ga 14,9; 17,4). Vì thế chính Chúa Giêsu, - Đấng mà ai thấy là thấy Chúa Cha -, hoàn tất việc mặc khải khi kiện toàn nó, bằng tất cả sự hiện diện của Người và tất cả việc Người giãi bày chính Mình, bằng lời nói và việc làm, bằng những dấu chỉ và những phép lạ, nhất là bằng sự chết và sự sống lại vinh quang của Mình, sau hết bằng việc cử Thánh Thần chân lý đến (số 4)
Vậy đối với dân Thiên Chúa lịch sử trở thành con đường thông suốt phải theo, để nhờ hoạt động liên lỉ của Chúa Thánh Thần (Ga 16,13), nội dung của chân lý mặc khải được giãi bày đầy đủ. Hiến Chế Mặc khải cũng nói lên điều đó một lần nữa khi khẳng định rằng: “Đang khi thời gian qua đi, thì Giáo Hội liên lỉ vươn tới sự sung mãn của chân lý thần linh, cho đến khi lời Thiên Chúa nên trọn nơi mình”(số 8).
12.     Vậy lịch sử là nơi chúng ta có thể nghiệm thấy những điều Thiên Chúa làm cho nhân loại. Thiên Chúa đến với chúng ta qua những điều quen thuộc và dễ kiểm nhận nhất đối với chúng ta, những điều làm nên khung cảnh hằng ngày của chúng ta, không có khung cảnh này chúng ta cũng không thể hiểu biết chính mình.
Sự nhập thể của Con Thiên Chúa cho phép nhận thấy một tổng hợp dứt khoát được thể hiện, mà tự sức mình trí khôn loài người không thể mường tượng ra: Đấng Vĩnh cửu đi vào thời gian, Đấng là Tất cả ẩn mình trong những mảnh vụn, Thiên Chúa mang diện mạo phàm nhân. Chân lý được giãi bày trong mặc khải của Chúa Kitô không bị khép kín trong lãnh vực biên giới hay trong lãnh vực văn hoá hẹp hòi, nhưng được ban cho mọi người, nam cũng như nữ, muốn đón nhận nó như lời có giá trị dứt khoát để làm cho cuộc đời có ý nghĩa. Vậy trong Đức Kitô mọi người có thể đến cùng Chúa Cha; quả thực, nhờ sự chết và sự sống lại, Đức Kitô đã ban sự sống thần linh mà Adam thứ nhất đã từ bỏ (Rm 5,12-15). Nhờ Mặc khải này chân lý tối hậu về sự sống và về mục đích của lịch sử được cúng hiến cho con người. Hiến Chế Niềm vui và Hy vọng quả quyết: “Kỳ thực là mầu nhiệm về con người chỉ được đích thực làm sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể” (số 22). Ngoài phối cảnh này, mầu nhiệm về cuộc đời con người là một bí ẩn không thể giải đáp. Con người tìm đâu được câu trả lời cho những vấn đề bi thảm như sự đau khổ, sự đau khổ của người vô tội và của sự chết, nếu không phải trong ánh sáng phát xuất từ mầu nhiệm của cuộc thương khó, tử nạn và sự sống lại của Chúa Giêsu?
13.     Lý trí đứng trước mầu nhiệm
Dù sao không nên quên rằng Mặc khải mang dấu ấn của mầu nhiệm. Quả thực, bằng trót cuộc đời của mình, Đức Giêsu mặc khải dung nhan Chúa Cha, vì Người đến để làm cho chúng ta biết những điều sâu thẳm của Thiên Chúa (DV.4), tuy nhiên sự nhận biết dung mạo này luôn luôn có tính cách vụn vặt, và mang dấu ấn những giới hạn của trí khôn ta. Chỉ một mình đức tin mới cho chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm và giúp ta thấu hiểu mầu nhiệm cho mạch lạc.
CĐC tuyên bố rằng “Phải lấy sự tuân phục đức tin để đáp lại Thiên Chúa là Đấng mặc khải” (DV. 5). Với lời khẳng định văn gọn nhưng súc tích ấy, chân lý nền tảng của Kitô giáo được giãi bày. Trước hết CĐ nói, đức tin là lời đáp tuân phục Thiên Chúa. Điều dó ngầm chứa việc nhìn nhận Người trong Thiên Chúa tính, trong sự siêu việt và trong sự tự do tuyệt đối của Người. Thiên Chúa tỏ mình ra cho ta biết, thì với thế giá siêu việt tuyệt đối của mình cũng cung cấp những lý do khả tín về những điều Người mặc khải. Nhờ đức tin, con người chấp nhận chứng tá của Thiên Chúa. Điều đó nghĩa là con người thừa nhận một cách đầy đủ và trọn vẹn chân lý của những điều được mặc khải, vì chính Thiên Chúa bảo đảm cho chân lý ấy. Chân lý này được ban cho con người, tuy con người không có quyền đòi hỏi, được ghi vào khung cảnh của sự hiệp thông liên vị, kích thích lý trí cởi mở đối với chân lý ấy, và đón nhận ý nghĩa thâm sâu của nó. Vì thế hành vi mà con người hiến mình cho Thiên Chúa luôn luôn được Giáo Hội công nhận như một giây phút lựa chọn nền tảng, cam kết toàn thể nhân vị. Trí khôn và ý muốn sử dụng tối đa bản tính thiêng liêng, giúp chủ thể hoàn thành một hành vi, trong đó sự tự do nhân bản được vận dụng đầy đủ (DS 3008). Trong đức tin, chẳng những có sự tự do, lại còn cần phải có. Và chính đức tin cho phép mỗi người biểu lộ hoàn hảo nhất sự tự do của mình. Nói cách khác, sự tự do không thể hiện trong những lựa chọn nghịch với Thiên Chúa. Quả thực, từ khước đón nhận những điều giúp ta thể hiện chính mình đâu có thể được coi như là sự sử dụng sự tự do cách đích đáng? Lúc tin nhận đúng là lúc con người đưa ra một hành vi ý nghĩa nhất của cuộc đời; vì ở đây sự tự do gặp gỡ sự chắc chắn của chân lý, và quyết định sống theo chân lý.
Để yểm trợ lực cho lý trí tìm hiểu mầu nhiệm có những dấu chỉ kèm theo Mặc khải. Những dấu chỉ này hướng dẫn việc nghiên cứu chân lý cho sâu xa, và cho phép trí khôn dò xét, một cách độc lập, nội tại của chính mầu nhiệm. Dù sao, nếu một đàng những dấu chỉ ấy mang lại cho lý trí nhiều sức mạnh hơn, vì cho phép trí khôn khám phá nội dung của mầu nhiệm bằng những phương tiện riêng mà nó ham thích một cách chính đáng, thì đàng khác,các dấu chỉ ấy mời gọi trí khôn vượt lên trên thực tại của dấu chỉ, dể đón nhận ý nghĩa sâu xa mà chúng mang theo. Như thế trong các dấu chỉ đã hiện diện cách ẩn tàng một chân lý, được nhắc nhở cho trí khôn mà nó không thể không biết, chẳng vậy là tiêu diệt chính dấu chỉ được trình bày cho nó.
Vậy một cách nào đó, người ta được nhắc nhở đến tính cách bí tích của Mặc khải, và đặc biệt đến dấu chỉ của Thánh Thể, trong đó sự thuần nhất bất khả phân giữa thực tại và ý nghĩa cho phép hiểu biết sự sâu thẳm của mầu nhiệm. Trong Thánh thể, Đức Kitô thật sự hiện diện và sống động, Người hoạt động nhờ Thánh Thần của Người, như thánh Thomas đã nói đúng: “Điều bạn không hiểu không thấy thì đức tin sống động chứng thực, vượt ra ngoài lãnh vực của các vật. Thực tại cao cả ẩn náu dưới những hình, là dấu chỉ chứ không phải thực tại”[5] Triết gia Pascal đã phản ánh lời thánh Thomas khi viết : “Như Chúa Giêsu sống vô danh giữa phàm nhân, thì chân tính của Người cũng ở giữa công luận, bề ngoài không có gì khác biệt. Thánh thể cũng ở trong số bánh thông thường”[6].
Nói tóm lại, nhận thức đức tin không phá tan mầu nhiệm, nó chỉ làm cho mầu nhiệm rõ rệt hơn và giãi bày mầu nhiệm như sự kiện cốt yếu đối với cuộc đời con người: Đức Kitô, “trong khi mặc khải mầu nhiệm Chúa Cha và tình yêu của Người, đã cho con người biết rõ chính con người, và tỏ cho con người biết thiên chức rất cao cả của mình”[7], là được hiệp thông với mầu nhiều đời sống Thiên Chúa Ba ngôi[8].
14.     Giáo huấn của hai CĐC Vatican còn mở ra phối cảnh chân thực của những điều mới mẻ đối với nhận thức triết học. Mặc khải đưa vào lịch sử một điểm qui chiếu mà con nguời không thể không biết, nếu muốn thấu hiểu mầu nhiệm cuộc đời của mình; nhưng đàng khác, nhận thức ấy cũng luôn luôn qui hướng tới mầu nhiệm Thiên Chúa, mà trí khôn không thể khám phá triệt để và chỉ có thể đón nhận trong đức tin. Giữa hai giai đoạn ấy, lý trí có một khu vực riêng biệt cho phép nó tìm kiếm và hiểu biết, mà không bị giới hạn chi hết, ngoài tính hữu hạn của nó trước mầu nhiệm vô cùng của Thiên Chúa.
Như vậy Mặc khải du nhập vào lịch sử một chân lý phổ quát và tối hậu, kích thích trí khôn con người đừng bao giờ ngừng bước; hơn nữa còn thúc đẩy nó liên lỉ mở rộng lãnh vực kiến thức, bao lâu chưa ý thức mình đã chu toàn tất cả những chi ở trong tầm tay và không chểnh mảng điều gì. Để suy tư như thế, chúng tôi đuợc trợ lực bởi một trong những khối óc rất phong phú và rất nổi nang của lịch sử nhân loại, mà triết học cũng như thần học phải qui chiếu: đó là thánh Anselmo. Trong cuốn Proslogion, Đức T.G.M. Cantorbery nói như thế này: “Nhiều khi, với sự hăng say, tôi kéo chú ý đến điểm này, đôi khi điều tôi đã kiếm tìm và coi như đã đạt được thoát chốc vụt khỏi trí khôn tôi; sau hết vì thất vọng, tôi muốn đình chỉ, như thể tìm kiếm điều không thể tìm thấy. Nhưng đang khi tôi muốn xua đuổi tư tưởng ấy khỏi tôi, vì sợ rằng khi bận tâm vô ích như thế là tôi sao nhãng những chuyện khác có thể giúp tôi tấn tới, thì đột nhiên, nó bắt đầu ập vào trí khôn, dù tôi từ khước và chống cự...Nhưng khốn nạn, một trong những đứa con khốn nạn khác của bà Eva đã lìa xa Thiên Chúa, đó là tôi, tôi đã làm gì, đã hoàn thành điều gì? Tôi đang hướng về đâu, tôi đã tới đâu? Tôi khát vọng gì, tôi nghĩ đến điều gì? [...] Vì vậy, Lạy Chúa, Chúa không phải là Đấng vĩ đại nhất người ta có thể nghĩ đến mà thôi, nhưng Chúa còn là điều vĩ đại nhất mà người ta có thể nghĩ tưởng tới. Nếu Chúa không phải là chính điều đó, thì con không thể nghĩ rằng có điều gì vĩ đại hơn Chúa, đó là điều không thể có”[9]
15.     Chân lý của Mặc khải Kitô giáo, mà ta thấy nơi Đức Kitô Nazareth, cho phép bất cứ ai cũng đón nhận được “mầu nhiệm”cuộc đời mình. Như chân lý tối thượng, nó bó buộc con người phải cởi mở đối với siêu việt, đang khi tôn trọng quyền tự quyết và sự tự do của vât thụ tạo,. Ở đây, tương quan giữa tự do và chân lý trở thành tuyệt vời, và ta dễ hiểu lời Chúa phán: “Anh em sẽ nhận biết chân lý, và chân lý sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32).
Mặc khải Kitô giáo là ngôi sao đích thực giúp con người biết định hướng trong khi tiến bước giữa những áp lực của não trạng duy tâm và những gò bó của óc kỹ thuật; nó là khả năng sau cùng Thiên Chúa cung cấp cho nhân loại để tìm lại tình yêu sung mãn, đã được bắt đầu khi tạo thành. Đối với con người muốn biết chân lý, nếu còn có thể nhìn lên trên chính mình, và trên những kế hoạch của mình, thì còn được cung cấp khả năng để tìm lại mối liên hệ đích thực với cuộc đời, bằng cách theo con đường chân lý. Có thể áp dụng vào đây những lời của sách Đệ Nhị Luật: “Lề luật mà ta truyền cho mi hôm nay không quá những khả năng của người cũng không quá tầm tay ngươi, để ngươi có thể nói rằng: Ai lên trời để tìm nó cho tôi, để chúng tôi nghe và đem ra thực hành? Nó không ở bên kia biển, để phải nói: Ai có thể sang bên kia biển để kiếm cho chúng ta để chúng tôi nghe và đem ra thực hành? Vì lời ở gần ngươi, ở trong miệng ngươi và trong lòng ngươi để ngươi đem ra thực hành” (30, 11-14). Nhà đại thần học Augustin nói: “Đừng ra ngoài, hãy vào chính mình. Chân lý ở trong chính con người”[10].
Những suy tư ấy dẫn đến kết luận thứ nhất này: chân lý mà Mặc khải cho ta biết không phải là trái chín mùi hay là cao điểm của một tư tưởng do lý trí bồi đắp. Trái lại, chân lý ấy xuất hiện như điều gì nhưng không, phát sinh sự hồi suy và yêu cầu được đón nhận như biểu thức của tình yêu. Chân lý đuợc mặc khải này thể hiện trong lịch sử như một cách nếm thử sự thị kiến sau cùng và dứt khoát Thiên Chúa, được dành cho những ai tin vào Người và tìm kiếm Người với trái tim chân thành. Cứu cánh của cuộc nhân sinh là đối tượng triết học cũng như thần học học hỏi. Cả hai, với những phương tiện khác nhau và những nội dung khác nhau, đều nhìn vào “con đường sự sống” (Tv 16,11), con đường, như đức tin nói cho chúng ta, sẽ đưa tới niềm vui trọn vẹn và bền bỉ của sự chiêm ngưỡng Thiên Chúa Nhất thể Tam vị.






Chương II
Tôi tin để hiểu

Sự thượng trí biết và hiểu mọi sự (Kn 9, 11)
16.     Liên lạc sâu xa giữa nhận thức do đức tin và nhân thức do lý trí đã được giãi bày trong Thánh Kinh bằng những lời rõ rệt lạ lùng. Vấn đề được đặc biệt đề cập đến trong các sách giáo huấn. Khi đọc những trang Kinh Thánh một cách vô tư thì điều làm ta ngạc nhiên là, những lời trích dẫn trong các sách ấy chẳng những thấy hàm chứa trong đức tin của dân Israel, lại còn là kho tàng của những nền văn minh và văn hoá hiện nay đã biến mất. Có thể nói, theo một ý định phân minh, những tiếng nói của Ai Cập và của Mesopotamie được vọng lại, và một vài nét văn hoá chung của Á đông cố kính được sống lại trong những trang sách đặc biệt phong phú với trực giác sâu sắc ấy.
Không phải do ngẫu nhiên mà vị thánh ký, khi muốn mô tả con người hiền triết thì mô tả như người yêu mến và tìm kiếm chân lý: “Phúc cho kẻ nghiền ngẫm khôn ngoan, và biết dùng trí khôn mà suy luận. Phúc thay kẻ để tâm suy nghĩ về đường lối của khôn ngoan, và hiểu được các bí nhiệm của đức ấy. Như một thợ săn, người ấy theo vết của khôn ngoan, và trên đường của khôn ngoan nó rình chờ. Nó nhìn vào của sổ của khôn ngoan, và lắng nghe bên cửa ra vào. Nó ở sát nhà của khôn ngoan, và đóng đinh vào tường. Nó dựng lều dưới cánh tay của khôn ngoan, và sẽ được ở nơi của hạnh phúc. Nó sẽ đặt con cái dưới sự che chở của khôn ngoan, và dưới tàn lá của khôn ngoan, nó sẽ trú ẩn. Dưới bóng của khôn ngoan, nó không bị nóng bức, và trong vinh quang của khôn ngoan, nó sẽ cư ngụ (Hc 14,20-27).
Đối với thánh ký có thiên hứng, như ta thấy, ước vọng hiểu biết là một đăc tính chung của mọi người. Trí tuệ giúp cho mọi người, tin cũng như không tin, “kín được nước sâu” của nhận thức (xc. Cn 20,5). Quả thực, Israel cố cựu không nhận biết thế giới và những hiện tượng của nó cách trừu tượng, như những triết gia Hy lạp hay như nhà hiền triết Ai cập. Người Israel lương thiện cũng không thâu thái nhận thức theo đường lối của thế giới hiện đại, thích phân loại các kiến thức. Dù sao, thế giới Thánh Kinh đã đổ dồn phần đóng góp riêng biệt của mình vào cái bể học thuyết về nhận thức.
Phần đóng góp này là gì? Đặc trưng riêng biệt của những bản văn Kinh Thánh hệ tại niềm xác tín về một sự thống nhất sâu sa và bất khả phân giữa nhận thức của trí tuệ và nhận thức của đức tin. Thế giới và những điều xảy ra trong đó cũng như lịch sử và những bước thăng trầm của dân, đều là những thực tại được nhìn nhận, được phân tách, và được phán đoán bằng những phương tiện riêng của lý tri, nhưng đức tin không đứng như khách bàng quan trong quá trình này. Đức tin không tham gia để giảm thiểu quyền tự quyết của lý trí hay để hạn chế lãnh vực hoạt động của nó, nhưng chỉ để cho con người hiểu rằng Thiên Chúa của Israel tự tỏ bày và hoạt động trong những biến cố ấy. Bởi đó, không thể biết thế giới và những biến cố lịch sử cho sâu xa nếu đồng thời không tin vào Thiên Chúa là Đấng hoạt động trong đó. Đức tin làm cho cái nhìn bên trong được sắc xảo, và giúp cho trí tuệ khám phá sự hiện diện sinh động của Đấng An bài trong diễn tiến của các biến cố. Về điểm này câu nói của sách Châm ngôn thật là thấm thía: “Tâm trí con người nghĩ ra đường lối, còn Đức Chúa hướng dẫn từng bước đi” (16,9). Nói cách khác, con người biết nhìn nhận đường lối của mình theo ánh sáng của lý trí, nhưng chỉ có thể chạy trên con đường ấy cách mau lẹ, cho đến cùng và không gặp trở ngại, nếu với lòng ngay thẳng, con người đặt việc khám phá của mình trong phối cảnh của đức tin. Vậy lý trí và đức tin không thể tách biệt nhau mà không làm cho con người mất khả năng nhận biết chính mình, nhận biết thế giới và Thiên Chúa một cách toàn diện.
17.     Như thế không thể có bất cứ một tương tranh nào giữa lý trí và đức tin: cả hai đều hội nhập vào nhau và mỗi thứ đều có lãnh vực hoạt động riêng. Cũng chính sách Châm ngôn hướng dẫn trong định hướng này khi nói: “Vinh quang của Thiên Chúa giấu kín điều nào thì vinh quang của vua là khám phá điều đó (Cn 25,2). Trong cách thức riêng biệt, Thiên Chúa và con người được đặt trong một tương quan duy nhất. Nguồn gốc mọi vật thì ở nơi Thiên Chúa, nơi Người có sự viên mãn của mầu nhiệm, và điều đó làm nên vinh quang của Người; con người có bổn phận dùng trí khôn khám phá chân lý, và đó là chỗ cao nhã của con người. Một yếu tố khác được tác giả thánh vịnh thêm vào bức phù điêu này khi ông cầu nguyện: “Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao, tính chung lại ôi nhiều vô kể ! Đếm sao nổi vì nhiều hơn cát; dù có đếm xong, con vẫn ở với Ngài (Tv 139,17-18). Ước nguyện hiểu biết thì lớn lao và có tính cách sinh động dường ấy đến nỗi tâm khảm con người đã nghiêm thấy giới hạn không thể vượt qua, vẫn ước vọng sự phú túc vô hạn bên kia cõi chết, vì nó đã trực kiến thấy nơi sự phú túc ấy nó sẽ tìm thấy câu trả lời thoả đáng cho những câu hõi chưa được giải đáp.
18.     Chúng ta có thể nói rằng, do sự hồi suy, Israel đã biết mở đường cho trí khôn đi vào mầu nhiệm. Với sự mặc khải của Thiên Chúa, dân đã có thể đi sâu vào những điều, mà họ nhờ lý trí để đạt tới nhưng không đạt được. Nhờ cách nhận biết sâu xa này, dân được tuyển chọn đã hiểu rằng, lý trí phải tôn trọng một số qui tắc nền tảng, để có thể giãi bày bản tính của mình cho hoàn hảo hơn. Qui tắc thứ nhất là, phải hiểu rằng việc nhận biết của con người là một lộ trình không được ngừng; qui tắc thứ hai phát sinh bởi ý thức là, ta không thể bước vào con đường ấy với sự kiêu căng của kẻ nghĩ rằng, tất cả là công hiệu của sự chinh phục cá nhân; qui tắc thứ ba đặt cơ sở trên sự “kính úy Thiên Chúa”, mà trí khôn phải nhìn nhận là Đấng quản trị vũ trụ với quyền hành siêu việt và với tình yêu thương tuyệt đối.
Khi lìa xa những qui tắc này, con người liều mình thất bại và rút cục sẽ thấy mình là kẻ “điên khùng”. Theo Thánh Kinh, sự ngu xuẩn này là mối đe doạ đối với cuộc sống; quả thực, người điên khùng tưởng mình biết nhiều điều, nhưng trong thực tế hắn không thể lưu ý đến điều cốt yếu. Tình trạng đó ngăn cản việc đặt trật tự trong trí khôn (xc. Cn 1,7), và có thái độ phù hợp với chính mình và với cảnh vực của mình. Và khi đi đến chỗ phủ nhận: “Làm chi có Chúa Trời” (Tv 13,1) là kẻ ngu si đã tỏ rõ kiến thức của mình thì thiếu sót, và mình còn xa cách chân lý sung mãn về vạn vật, về nguồn gốc và về vận mệnh của vạn vật biết bao !
19.     Sách Khôn ngoan hàm chứa những câu nói quan trọng chiếu giãi một ánh sáng khác vào vấn đề này. Vị thánh ký nói về Thiên Chúa là Đấng cũng tỏ mình ra qua thiên nhiên. Đối với cổ nhân, học biết các khoa thiên nhiên phần nhiều cũng tương đương với kiến thức triết lý. Sau khi đã khẳng định là lý trí có thể “biết cấu trúc của thế giới và hoạt động của các nguyên tố [...] những chu kỳ của năm tháng và vị trí của các tinh tú, bản tính của động vật và bản năng của các thú rừng” (Kn 7,17.19-20), nói tóm lại, là khả năng triết lý của con người, Thánh Kinh tiến thêm một bước rất quan trọng nữa. Vì khi tìm lại tư tưởng triết học Hy lạp, mà có lẽ bản văn muốn nhắc tới, tác giả khẳng định là khi lý luận về thiên nhiên, ta có thể vươn tới Đấng Tạo thành: “Vì các thọ tạo càng lớn lao đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng tạo thành” (Kn 13,5). Như vậy, “cuốn sách lạ lùng của thiên nhiên” được nhìn nhận như đợt Mặc khải thứ nhất của Thiên Chúa; đọc cuốn sách ấy với những suy tư của lý trí nhân loại, ta có thể đi đến chỗ nhận biết Thiên Chúa tạo thành vạn vật. Nếu nhờ lý trí con người không thể nhận biết Thiên Chúa tạo thành vạn vật, thì chuyện đó không phải vì thiếu dụng cụ thích đáng, mà vì những cản trở mà ý muốn tự do và tội lỗi đã đặt ra.
20.     Về điểm này, lý trí được đánh giá, nhưng khôngđề cao quá đáng. Quả thực, tất cả những gì nó có thể đạt được có thể là đúng, nhưng nó chỉ đạt đuợc ý nghĩa đầy đủ khi nội dung của nó được đặt vào một phối cảnh bao la hơn, đó là phối cảnh của đức tin: “Đức Chúa dẫn dắt từng bước chân con người, nẻo đời mình, phàm nhân sao hiểu biết” (Kn 20,24). Vậy đối với Cựu Ước, đức tin giải phóng lý trí bằng cách giúp nó đạt tới đối tượng nhận thức của nó một cách mạch lạc, và đặt nó trong trật tự tối cao, trong đó tất cả đều có ý nghĩa. Tắt một lời, con người nhờ lý trí đạt tới chân lý, vì được soi sáng bởi đức tin, con người khám phá ra ý nghĩa sâu xa của mọi vật, nhất là của cuộc nhân sinh. Vị thánh ký đã chính xác cho đầu mối của nhận biết chân thật là lòng kính úy Thiên Chúa “Kính sợ Thiên Chúa là bước đầu của tri thức” (Cn 1, 7).

Hiểu biết và khôn ngoan
con hãy mua hãy sắm (Cn 4,5)
21.     Đối với Cựu Ước, nhận thức không đặt nền tảng trên sự chăm chú quan sát con người, thế giới và lịch sử mà thôi. Nó còn giả định cách tất yếu mối tương quan với đức tin và với nội dung của Mặc khải. Ở đây ta thấy những thách đố mà dân được tuyển chọn đã phải đương đầu và đã trả lời. Khi suy nghĩ về chính mình, người chấp nhận Thánh Kinh đã khám phá ra rằng, mình chỉ có thể hiểu biết chính mình như một vật “có tương quan” với chính mình, với dân chúng, với thế giới và với Thiên Chúa. Việc đón nhận mầu nhiệm, được Mặc khải khai nguồn, rút cục là nguồn mạch để con người nhận biết đúng đắn, cho phép lý trí dấn thân vào những lãnh vực vô tận, và cung cấp cho nó khả năng hiểu biết mà nó chưa từng mơ ước.
Đối với vị thánh ký, nỗ lực nghiên cứu không miễn chước cho khỏi mệt nhọc phát sinh do những giới hạn của lý trí. Chẳng hạn, người ta thấy trong những lời của sách Châm ngôn, giãi bày sự mệt nhọc mà ta cảm thấy khi tìm cách hiểu những kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa (Cn 30,1-6). Dù vất vả, nhưng người tín hữu không bỏ cuộc. Sức mạnh giúp người ấy tiếp tục con đường đưa tới chân lý là do đinh ninh rằng, Thiên Chúa đã dựng nên mình như “một người khảo sát” (xc. Gv 1,13), có nhiệm vụ không được từ bỏ bất cứ nghiên cứu nào, dù luôn luôn cảm thấy do dự, ông vẫn hướng về, lại vẫn luôn luôn và khắp nơi hướng về điều chân, thiện, mỹ.
22.     Trong chương nhất của thư gửi cho dân Rôma, thánh Phaolô đã giúp chúng ta thẩm định xem suy tư của những sách Giáo huấn thấm thía như thế nào. Quảng diễn một luận chứng triết lý trong ngôn ngữ bình dân, thánh Tông đồ giãi bày một chân lý sâu sắc : qua vật thụ tạo, ‘cặp mắt trí khôn’ có thể nhận biết Thiên Chúa. Thực vậy, qua ‘trung gian’ của những vật thụ tạo, Thiên Chúa đã cho lý trí biết “quyền lực” và “thần tính” của Người (xc. 1,20). Vậy ta thừa nhận là trí khôn con người có khả năng hầu như vượt quá những giới hạn tự nhiên của nó: chẳng những nó không bị giới hạn vào nhận thức giác quan, vì nó có thể phản tỉnh về nhận thức ấy một cách phê bình, lại nhờ suy luận về những dữ kiện giác quan, nó có thể đạt tới căn nguyên là nguồn gốc mọi thực tại khả cảm. Trong dụng ngữ triết học ta có thể nói rằng trích văn của thánh Phaolô đó khẳng định khả năng siêu hình của con người.
Theo thánh Tông đồ, trong kế hoạch sơ khởi của tạo thành thì, như đã được dự kiến, lý trí có thể dễ dàng vươn từ dữ kiện khả cảm tới Đấng Tạo Hoá, là nguồn gốc mọi vật. Sau khi bất tuân, con người đã tự ý đặt mình trong sự tự quyết đầy đủ và tuyệt đối đối với Đấng đã tạo thành nên mình, việc dễ dàng vươn tới Thiên Chúa đã biến mất.
Sách Sáng thế đã linh động mô tả tình trạng đó của con người, khi tường thuật việc Thiên Chúa đặt con người trong vườn địa đường, ở giũa vườn có “cây biết lành biết dữ” (2, 17). Biểu tượng thật là sáng sủa: con người tự mình không đủ sức phân biệt và quyết định thiện, ác, mà phải qui chiếu theo một nguyên lý cao hơn. Sự mù quáng của tính kiêu ngạo đã làm cho nguyên tổ chúng ta có ảo tưởng, cho mình là chúa tể được tự quyết, có thể phớt lờ kiến thức Thiên Chúa ban. Nguyên tổ lôi cuốn mọi người nam và nữ vào sự bất tuân của mình, gây cho lý trí những vết thương, sẽ ngăn cản nó trên con đường nhận biết chân lý đầy đủ. Từ đây khả năng nhạn biết chân lý của nhân loại bị lu mờ, vì phản bội với Đấng là nguồn mạch và cội rễ của chân lý. Cũng chính thánh Tông đồ mặc khải cho biết những tư tưởng của con người đã trở thành “hư ảo”, do tội lỗi, những lý luận trở thành lệch lạc và hướng về điều ác (Rm 1,21-22). Cặp mắt của trí khôn không còn thể nhìn nhận một cách sáng sủa: dần dà lý trí bị giam hãm trong chính mình. Chúa Giêsu đến là một biến cố cứu độ, chuộc lại lý trí khỏi sự yếu nhược, giải thoát nó khỏi những xiềng xích mà nó đã tự buộc trói chính mình.
23.     Do đó, tương quan của người Kitô hữu với triết học đòi hỏi sự phân biệt cơ bản. Trong Tân Ước, nhất là trong các Thư của thánh Phaolô, có một điểm nổi bật thật rõ ràng: đó là sự đối nghịch giữa sự “khôn ngoan thế gian” và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, được mặc khải trong Chúa Giêsu Kitô. Sự sâu sắc của sự khôn ngoan được mặc khải, phá vỡ vòng vây của những lược đồ quen thuộc của suy nghĩ, là những lược đồ không thể giãi bày sự khôn ngoan Thiên Chúa cho thích hợp.
Lời mở đầu thư thứ nhất gửi cho Corintô đã triệt để đưa ra song quan luận này. Con Thiên Chúa chịu chết là một biến cố lịch sử, mọi toan tính của trí tuệ định xây dựng việc giải thích đầy đủ ý nghĩa cuộc sống trên những lý chứng hoàn toàn nhân loại, ngược với biến cố ấy, sẽ thất bại. Trung tâm điểm đích thực, thách đố mọi triết lý, là sự chết của Chúa Giêsu Kitô trên thánh giá. Quả thực, ở đây mọi toan tính qui kết kế hoạch cứu độ của Chúa Cha vào một mình lý luận nhân loại sẽ đều thất bại. Người khôn ngoan đâu? Người học thức đâu? Người lý sự của thời này đâu? Thiên Chúa lại đã không để cho sự khôn ngoan của thế gian này ra điên rồ đó sao? Thánh Phaolô đã hỏi một cách khoa trương. Đối với điều Thiên Chúa định thực hiện, thì nguyên sự khôn ngoan của con người không hiểu hết; đây là một cuộc vượt qua quyết định để đón nhận một sự mới mẻ cần phải có: “Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan [...], những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có” (1 Cr 1,27-28). Sự khôn ngoan của con người khuớc từ, không nhận ra điều kiện của sức mạnh của mình nằm trong sự yếu đuối của mình; nhưng thánh Phaolô không ngần ngại quả quyết: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10). Con người không tài nào hiểu tại sao sự chết có thể là nguồn mạch của sự sống và của tình yêu, nhưng để giãi bày kế hoạch cứu độ nhiệm mầu, Thiên Chúa đã chọn chính điều mà thế gian cho là “ngu xuẩn” và “cớ vấp phạm”. Khi dùng ngôn ngữ của những triết gia đồng thời với mình, thánh Phaolô đã đạt tới đỉnh chót giáo huấn của mình, cũng như điều mâu thuẫn mà người muốn nói: Thiên Chúa đã chọn cái không có để hủy diệt cái có (xc. 1 Cr 1, 28)... Để biểu thị bản tính nhưng không của tình yêu, được mặc khải nơi thánh giá của Chúa Kitô, thánh Tông đồ không ngại dùng kiểu nói triệt để mà các triết gia đã dùng trong những suy tư của họ về Thiên Chúa. Lý trí không thể làm cho mầu nhiệm của tình yêu trở thành vô ý nghĩa, đang khi Thánh giá có thể cung cấp cho lý trí lý do tối hậu mà lý trí tìm kiếm. Thánh Phaolô không lấy sự thông tuệ của ngôn ngữ, nhưng lấy Lời Thông tuệ làm tiêu chuẩn cho Chân lý và cho sự cứu độ một trật.
Vậy sự thông tuệ của Thánh giá vượt quá mọi giới hạn văn hoá mà người ta muốn áp đặt cho nó, và đòi chúng ta phải mở lòng đón nhận sự phổ quát của chân lý mà nó mang theo. Đó là một thách đố lớn lao đối với lý trí chúng ta, và nếu nó chấp nhận thì phúc lợi thâu lượm được sẽ lớn lao biết bao ! Triết học, nguyên nó đã có thể nhận thấy sự vươn lên không ngừng của con người tới chân lý, thì với sự trợ giúp của đức tin, nó có thể cởi mở để đón nhận sự “ngu xuẩn” của Thánh giá như lời phê phán đích thực đối với những ai cho rằng mình đã đạt đuợc chân lý, đang khi họ bóp nghẹt chân lý trong hệ thống bế tắc của họ. Lời giảng về Chúa Giêsu chịu tử hình và sống lại là như phiến đá ngầm, mà đụng vào thì mối liên lạc giữa đức tin và triết lý có thể bị nhận chìm, nhưng hễ đã vượt qua là nó có thể lao mình vào đại dương vô hạn của chân lý. Ở đây ranh giới của lý lẽ và đức tin thì hiển nhiên, nhưng ta cũng thấy lãnh vực mà cả hai có thể gặp nhau.




Chương III
Tôi Hiểu Để Tôi Tin
Tiến tới trong sự tìm kiếm chân lý
24.     Thánh Luca, tác giả Tin mừng, kể lại trong Tông đồ Công vụ rằng, trong cuộc hành trình truyền giáo, Phaolô đã đến Athenes. Thành phố của các triết gia thì đầy những pho tượng, biểu trưng cho những thần phật khác nhau. Một bàn thờ kéo chú ý thánh nhân, lập tức ngài nắm lấy cơ hội, xác định một khởi điểm chung để loan báo Tin mừng: Ngài nói, thưa quí vị người Athenes, tôi thấy về mọi mặt, quí vị là người sùng đạo hơn ai hết. Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quí vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: “Kính thần vô danh”. Vậy Đấng quí vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quí vị” (Cv. 17, 22-23). Từ đó thánh Phaolô nói về Thiên Chúa như Đấng tạo thành, như Đấng vượt trên mọi sự, và như Đấng ban sự sống cho mọi loài. Rồi người tiếp tục thuyết giảng như thế này: “Từ một người duy nhất, Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên mặt đất, Người đã vạch ra những thời kỳ nhất định và những ranh giới cho nơi ở của họ. Và như vậy để họ tìm kiếm Thiên Chúa, may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người, tuy rằng thực sự Người không ở xa mỗi người chúng ta” (Cv 17, 26-27).
Thánh Tông đồ đã đưa ra ánh sáng một chân lý mà Giáo hội luôn luôn lợi dụng: khát vọng và nỗi nhớ nhung Thiên Chúa đã được gieo vào tâm khảm con người. Phụng vụ thứ Sáu tuần thánh cũng đã mạnh mẽ nhắc lại, khi mời gọi chúng ta cầu nguyện cho những người không tin: “Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã dựng nên con người để họ thực tình tìm kiếm Chúa, và tâm hồn họ được an nghỉ khi tìm thấy Chúa”[11]. Cho nên có một con đường mà con người có thể theo nếu họ muốn; khởi diễn từ khả năng của lý trí nhắc mình lên trên những điều bất tất để vươn tới điều vô hạn.
Đã nhiều cách nhiều lần khác nhau, con người chứng minh là mình biết giãi bày ước nguyện sâu sa ấy. Văn chương, âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc và những sản phẩm khác của trí khôn sáng tạo, là những dụng cụ con người dùng để giãi bầy khát vọng nghiên cứu của mình. Triết học đã đặc biệt phối trí với phong trào ấy, và đã giãi bày khát vọng phổ quát đó của con người, bằng những phương tiện và theo những dạng thức khoa học riêng biệt của mình.
25. “Mọi người đều khát vọng hiểu biết”,[12] và đối tượng của khát vọng đó là chân lý. Chính đời sống hằng ngày cũng chứng minh rằng ngoài điều mình nghe nói, mỗi người cảm thấy mối bận tâm để khám phá xem thực chất của các vật như thế nào. Con người là hữu thể duy nhất trong thụ tạo hữu hình, chẳng những có khả năng nhận biết, nhưng còn biết nhận biết, và vì thế, để tâm đến sự thực thực hữu của hiện tượng. Không ai có thể nhửng nhưng với sự chân thực trong kiến thức của mình. Nếu họ khám phá thấy nó sai, họ liền tẩy chay; trái lại, nếu họ có thể kiểm nhận là đúng, họ liền cảm thấy thoả mãn. Đó là bài học của thánh Augustin khi người viết: “Tôi đã gặp nhiều người muốn đánh lừa, nhưng không thấy ai muốn bị lừa”[13]. Người ta đã có lý khi nghĩ rằng : người trưởng thành là người có thể dùng những phương tiện riêng, để phân biệt điều nào là thật, điều nào là giả, bằng cách đưa ra phán đoán về thực tại khách quan của các vật. Đó là đối tượng của nhiều nghiên cứu, cách riêng trong lãnh vực khoa học, trong những thế kỷ gần đây các nghiên cứu ấy đã mang lại những thành quả rất đáng kể, cổ võ một sự phát triển đích thực của toàn thể nhân loại.
Việc nghiên cứu được thể hiện trong lãnh vực thực hành cũng quan trọng như cuộc nghiên cứu được thể hiện trong lãnh vực lý thuyết: tôi muốn nói đến việc nghiên cứu chân lý về điều thiện phải thực hiện. Quả thực, do hoạt động luân lý, con người dấn thân trong con đuờng hạnh phúc, và hướng đến sự hoàn bị theo ý muốn tự do và công chính của mình. Trong trường hợp này, vẫn là vấn đề chân lý. Tôi đã giãi bày xác tín này trong thông điệp Vẻ sáng ngời của chân lý. “Không có luân lý nếu không có tự do [...]. Nếu có quyền được tôn trọng trong hành trình riêng để nghiên cứu chân lý, thì trước đó mọi người cũng có bổn phận luân lý nghiêm trọng tìm kiếm chân lý, và phải theo chân lý, một khi đã nhận ra”(số 34).
Vậy điều cần thiết là những giá trị đuợc tuyển chọn và theo đuổi trong cuộc đời phải chân thực, vì chỉ những giá trị chân thực mới có thể kiện toàn nhân vị bằng cách hoàn chỉnh bản tính của nó. Con người tìm thấy chân lý của những giá trị ấy, không phải bằng cách khép kín mình lại, mà bằng cách cởi mở chính mình để đón nhận từ những lãnh vực trổi vượt trên mình. Đó là điều kiện cần thiết để mỗi người trở thành chính mình và khai triển như nhân vị trưởng thành và chín chắn.
26.     Ban đầu chân lý xuất hiện trước con người dưới dạng thức câu hỏi: Cuộc đời có ý nghĩa chăng? đâu là mục đích của cuộc đời? Thoạt coi, cuộc sống cá nhân có thể bị coi như hoàn toàn vô ý nghĩa. Để hoài nghi về ý nghĩa cuộc đời, không cần phải nại đến những triết gia của vô lý hoặc nhũng câu hỏi khiêu khích như thấy trong sách Gióp. Kinh nghiệm hằng ngày về đau khổ của bản thân hay của tha nhân, việc mục kích biết bao sự kiện, hình như không thể giải thích theo ánh sáng của lý trí, cũng đủ làm cho không thể tránh né một câu hỏi bi hùng như câu hỏi về ý nghĩa[14]. Cần phải thêm rằng, ngoài việc chúng ta hiện hữu, chân lý thứ nhất chắc chắn tuyệt đối của cuộc nhân sinh là cái chết không thể tránh né. Đứng trước dữ kiện gây bối rối cần phải tìm câu trả lời đầy đủ. Mỗi người chúng ta muốn, - và phải muốn - biết sự thật về cùng đích của mình. Họ muốn biết xem sự chết có phải là tận cùng dứt khoát của cuộc đời hay còn có có chi vượt trên sự chết; họ có đuợc hy vọng một cuộc sống đời sau hay chăng. Việc tư duy triết lý nhận được một định hướng quyết định do cái chết của Socrate, và được mang dấu ấn của nó từ 2000 năm nay, không phải là không có ý nghĩa. Hẳn không phải tình cờ mà trước cái chết, những triết gia luôn luôn đặt lại vần đề về sự chết này, làm một với ý nghĩa của cuộc sống và sự bất tử.
27.     Cả triết gia cũng như người bình dân, không ai có thể tránh né những câu hỏi ấy. Giai đoạn quyết định của việc nghiên cứu lệ thuộc vào lời giải đáp những câu hỏi ấy: có thể đạt tới một chân lý phổ quát và tuyệt đối chăng? Mọi chân lý, dẫu chưa đầy đủ, nếu thật là chân lý, thì nguyên nó vẫn là chân lý phổ quát. Điều là thật thì phải thật đối với mọi người và mọi nơi. Nhưng ngoài tính phổ quát ấy, con người còn tìm kiếm điều tuyệt đối khả dĩ cung cấp câu trả lời và ý nghĩa cho mọi nghiên cứu của mình: một điều gì tối hậu, như nền tảng cho mọi vật. Nói cách khác, con người tìm một giải thích dứt khoát, một giá trị tuyệt đối, kỳ dư không có và không thể có câu hỏi hoặc những tham chiếu nào nữa. Những giả thuyết có thể làm say mê, nhưng không thoả mãn. Đối với mọi người, muốn hay không muốn, sẽ đến một giây phút phải neo cuộc đời của mình vào một chân lý, được nhìn nhận như dứt khoát, cung cấp một sự chắc chắn không còn phải hoài nghi nữa.
Qua các thế kỷ, những triết gia đã tìm cách khám phá và biểu thị một thứ chân lý như thế, bằng cách khai sinh ra một hệ thống hay một trường phái tư tưởng. Tuy nhiên, ngoài những hệ thống triết lý, con người cũng tìm cách trình bày “triết lý” của mình bằng những biểu thức khác; đây là những xác tín hay những kinh nghiệm cá nhân, những truyền thống gia đình và văn hoá, hoặc những lộ trình tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời dưới sự hướng dẫn của một vị thầy. Trong mỗi một biểu hiện ấy, điều luôn luôn linh động là khát vọng đạt tới sự chắc chắn của chân lý và của giá trị tuyệt đối.

Những dạng thức khác nhau
của chân lý nhân loại
28.     Phải nhìn nhận rằng việc nghiên cứu chân lý không luôn luôn được thật trong sáng và mạch lạc. Bản tính có giới hạn của lý trí và sự thiếu kiên trì của trái tim làm lu mờ, và thường làm lệch hướng việc nghiên cứu cá nhân. Những bận tâm về những lãnh vực khác có thể bóp nghẹt chân lý. Cũng có khi người ta tránh né chân lý một cách tuyệt đối, vì sợ những đòi hỏi của nó. Dù sao, cả khi người ta tránh né chân lý, thì chính chân lý vẫn ảnh hưởng đến cuộc nhân sinh. Quả thực, không bao giờ con người có thể xây dựng cuộc đời trên sự hoài nghi, trên sự bấp bênh hay trên sự dối dá; cuộc đời đó sẽ liên lỉ bị đe doạ bởi sợ hãi và lo âu. Cho nên chúng ta có thể định nghĩa con người là kẻ đi tìm chân lý.
29.     Không thể nghĩ rằng việc nghiên cứu bén rễ sâu trong nhân loại tính như thế có thể hoàn toàn vô ích và huyễn hoặc. Chính khả năng tìm kiếm chân lý và việc đặt vấn đề đã hàm súc câu trả lời đầu tiên rồi. Con người không khởi công tìm kiếm điều mà họ hoàn toàn u minh, hay họ cho là không thể đạt tới. Chỉ niềm hy vọng có thể đạt được câu trả lời mới thúc đẩy con người khởi tiến. Kỳ thực, đó là điều xảy ra trong nghiên cứu khoa học. Khi nhà bác học, dõi theo một trực giác, khởi công tìm kiếm lối giải thích luận lý và có thể kiểm chứng cho một hiện tượng nhất định, thì ngay từ đầu ông đã xác tin là mình sẽ tìm ra một giải đáp, và ông không tháo lui trước những thất bại. Ông không cho trực giác của ông là vô ích vì ông không đạt được mục tiêu; nhưng ông sẽ nói cách hữu lý là chưa đạt đuợc giải đáp toàn ứng.
Điều đó cũng có giá trị đối với việc tìm kiếm chân lý trong những vấn đề tối hậu. Sự khát khao chân lý bén rễ sâu trong tâm khảm con người đến độ gạt nó ra ngoài lề sẽ gây khủng hoảng cho cuộc sống. Tóm lại, chỉ cần quan sát cuộc sống hằng ngày để nghiệm thấy rằng mỗi người chúng ta bị ám ảnh của một số câu hỏi cốt yếu, đồng thời cũng thấy những câu trả lời, ít là như manh nha trong tâm trí. Đây là những câu trả lời mà người đời xác tín là chân thực, nhất là người ta nghiệm thấy, theo cơ bản, chúng không khác với những câu trả lời mà nhiều người khác đã đạt được. Cố nhiên, mọi chân lý đã thủ đắc không có cũng một giá trị. Nhưng tổng thể những thành quả đã đạt được, theo nguyên tắc, củng cố niềm xác tín cho rằng con người có khả năng đạt tới chân lý.
30.     Bây giờ có vắn gọn nhắc đến những hình thức của chân lý thiết tưởng cũng là điều hữu ích. Nhiều hơn cả là những chân lý dựa trên những hiển minh trực tiếp hay những chân lý được củng cố bởi kinh nghiệm. Đó là lãnh vực chân lý của đời sống thường nhật và của nghiên cứu khoa học. Một lãnh vực khác là những chân lý có tính cách triết lý, mà con người đạt được nhờ khả năng trừu xuất của trí tuệ. Sau hết là những chân lý tôn giáo, là những chân lý ăn rễ phần nào trong triết lý. Chúng hàm chứa trong các lời phúc đáp của các tôn giáo khác nhau cho những câu hỏi tối hậu, tùy theo truyền thống của các tôn giáo.[15]
Riêng với các chân lý triết học, nên xác định là chúng không giới hạn trong các đạo lý, đôi khi phù du, của những triết gia chuyên nghiệp. Như tôi đã nói, một cách nào đó, mọi người đều là triết gia và có những quan niệm triết lý để hướng dẫn đời mình. Cách này hay cách khác, họ kiến tạo một cái nhìn tổng quát và một lời giải đáp về ý nghĩa của cuộc đời: họ giải thích đời tư của mình và hướng dẫn cách ứng sử theo ánh sáng ấy. Đây là lúc, lẽ ra phải đặt vấn đề về tương quan giữa chân lý triết lý-tôn giáo và chân lý mặc khải trong Đức Giêsu Kitô. Trước khi giải đáp vấn đề này, cần phải lưu ý đến một dữ kiện nữa của triết học.
31.     Con người không được dựng nên để sống cô đơn. Con người được sinh ra và trưởng thành trong gia đình, để sau này du nhập vào xã hội bằng công lao của mình. Từ lúc mới sinh, con người đã hội nhập vào những truyền thống khác nhau, nơi chẳng những họ nhận được ngôn ngữ và sự luyện tập văn hoá, mà còn nhận được nhiều chân lý mà họ tin nhận hầu như theo bản năng. Dù sao, việc phát triển và trưởng thành cá nhân ngầm hiểu rằng chính những chân lý ấy có thể bị hoài nghi và bị đặt dưới hoạt động phê phán của tư tưởng. Điều đó không ngăn trở, để sau khi được phê phán, chính những chân lý ấy lại được nhìn nhận trên nền tảng kinh nghiệm đã tạo ra chúng, hay hơn nữa, do hiệu lực của lý luận. Tuy nhiên, trong đời sống của một người, những chân lý được đơn thuần tin nhận vẫn nhiều hơn những chân lý đuợc chinh phục do kiểm chứng cá nhân. Quả thực, ai có thể bình luận về vô số những thành quả của khoa học mà đời sống hiện kim nương tựa? Ai có thể tự kiểm soát những nguồn thông tin từ bốn phương trời đưa tới hằng ngày, và nói chung, được thiên hạ cho là chân thực? Sau hết, ai có thể lại rảo khắp những con đuờng của kinh nghiệm và của tư tưởng, qua đó những kho tàng thông thái và đạo đức của nhân loại được tích lũy? Con người, vật tìm kiếm chân lý, cũng là vật sống bằng tin tưởng.
32.     Trong hành vi tin tưởng của mình, mỗi ngưòi tín nhiệm vào những nhận thức đã thủ đắc bởi người khác. Ta có thể nghiệm thấy đó là một sự căng thẳng có ý nghĩa: một đàng, nhận thức bởi tin tưởng xuất hiẹn như một hình thức khiếm khuyết của nhận thức, cần phải được kiện toàn dần dần, nhờ sự hiển minh mà ta đích thân đạt được; đàng khác, niềm tin tưởng đôi khi được bộc lộ cách nhân bản như một nhận thức phong phú hơn sự hiển minh đơn thuần, vì nó hàm súc một tương quan liên vị, và vận dụng chẳng những các khả năng nhận thức, lại cả cái khả năng triệt để hơn, ấy là tín nhiệm vào những nhân vị khác, và tham gia vào tương quan bền vững và thân mật hơn với những ngôi vị ấy.
Cần nhấn mạnh rằng những chân lý được tìm kiếm trong tương quan liên vị không ưu tiên thuộc lãnh vực sự kiện hay triết lý. Đúng ra, điều được tìm kiếm là chính chân lý về ngôi vị: ngôi vị là gì và tự đáy lòng nó bộc lộ điều gì. Quả thực, sự hoàn bị của con người không hệ tại nguyên sự chinh phục kiến thức trừu tượng của chân lý, nhưng còn hệ tại tương quan sống động của việc hiến tặng và trung tín với tha nhân. Trong sự trung tín biết ban tặng này, con người nhận thấy sự chắc chắn và an toàn đầy đủ. Nhưng đồng thời, sự nhận thức bởi tin tưởng căn cứ trên sự tín thác liên vị không phải không liên hệ với chân lý: khi tin tưởng con người vững dạ vào chân lý mà tha nhân đã giãi bày cho họ.
Biết bao nhiêu gương mẫu có thể đưa ra để làm sáng tỏ những dữ kiện này. Nhưng tôi nghĩ ngay đến chứng tá của các vị tuẫn giáo. Vị tuẫn giáo, trong thực tế, là chứng nhân chân thực nhất của chân lý về cuộc đời. Vị tuẫn giáo biết mình đã tìm thấy chân lý của cuộc đời trong khi gặp gỡ Đức Kitô, mà không bao giờ có chi hay có người nào cướp mất sự chắc chắn ấy được. Dù đau khổ, dù sự chết dữ dội cũng không có thể làm cho họ bỏ, không gắn bó với chân lý mà họ đã tìm thấy khi gặp gỡ Chúa Giêsu. Đó là lý do vì sao cho đến ngày nay chứng tá của các vị tuẫn giáo làm say mê, khơi dạy sự chấp nhận, gặp được người nghe và tuân theo. Đó là lý do vì sao người ta tín nhiệm vào lời nói của các ngài; người ta khám phá nơi các ngài sự hiển minh của một tình yêu không cần phải biện minh dài dòng để khắc phục, ngay lúc chứng tá ấy nói cho mỗi người điều mà, từ đáy lòng, họ nhận thấy là chân lý và là điều mà họ đã tìm kiếm từ lâu. Nói tóm lại, vị tuẫn giáo khơi dậy trong chúng ta niềm tín thác sâu xa, vì vị ấy nói lên điều chúng ta đã cảm nghiệm, và làm sáng tỏ điều mà chính chúng ta muốn có sức mạnh để giãi bày.
33.     Như thế ta thấy những hạn từ của vấn đề được bổ xung dần dần. Do bản tính, con người tìm kiếm chân lý. Sự tìm kiếm này không có mục đích chinh phục những chân lý vụn vặt, có thể quan sát, hay là khoa học; con người không những tìm kiến điều thiện chân thực đối với mỗi quyết định của mình. Sự tìm kiếm của con người vươn tới chân lý cao hơn, khả dĩ giải thích ý nghĩa cuộc đời; cho nên là một tìm kiếm chỉ có thể kết thúc ở chỗ tuyệt đối[16]. Nhờ khả năng cố hữu của tư tưởng, con người có thể gặp thấy và nhận ra chân lý ấy. Vì là điều sinh tử và cốt thiết cho cuộc sống, chân lý ấy được đạt tới không những bằng con đường lý luận, nhưng còn do sư tín thác vào những người khác, những người có thể bảo đảm sự chắc chắn và chân thực của chính chân lý. Khả năng và việc lựa chọn tín thác chính bản thân và cuộc đời vào một người khác quả cấu tạo nên một trong những hành vi ý nghĩa nhất và rõ rệt nhất về nhân loại học.
Cũng không nên quên rằng chính lý trí cũng cần phải được củng cố trong việc tìm kiếm bằng cuộc đối thoại tín thác và bằng tình bạn chân thành. Bầu khí nghi ngờ và thất tín, đôi khi bao trùm việc nghiên cứu trừu tượng, quên bằng giáo huấn của những triết gia cố cựu, cho tình bạn như một trong những khung cảnh thích hợp để lý luận.
Do những điều trên đây ta thấy, con người dấn thân trong con đường nghiên cứu, nói một cách nhân loại, không bao giờ cùng: tìm kiếm chân lý và tìm kiếm một ngôi vị mà mình tín thác. Đức tin kitô giáo đến trợ giúp họ bằng cách cung cấp khả năng cụ thể để nhận ra chỗ thành đạt của việc tìm kiếm này. Quả thực, khi vượt qua giai đoạn tin tưởng suông, nó dẫn đưa con người vào lãnh vực ân sủng giúp nó thông dự mầu nhiệm của Chúa Kitô, trong đó nó được cung cấp một sự nhận thức chân thực và mạch lạc về Thiên Chúa nhất thể tam vị. Như vậy, trong Chúa Kitô, là Chân lý, đức tin nhận ra lời mời gọi sau cùng gửi cho nhân loại, để nhân loại có thể chu toàn điều mà nó cảm thấy như một mong ước và như nỗi nhớ nhung...
34.     Chân lý mà Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta trong Đức Kitô không tương phản với những chân lý mà người ta đạt được bằng triết học. Trái lại cả hai lãnh vực nhận thức đều đưa đến chân lý sung mãn. Sự thuần nhất của chân lý là một thỉnh đề nền tảng của lý trí nhân loại, được biểu thị trong nguyên lý bất mâu thuẫn. Mặc khải cho thấy sự thuần nhất ấy thì chắc chắn, bằng cách chứng minh rằng Thiên Chúa tạo thành cũng là Thiên Chúa của lịch sử cứu độ. Cũng một Thiên Chúa đồng nhất, thiết lập và bảo đảm tính cách hữu lý và công chính của trật tự tự nhiên của các vật, mà các nhà thông thái hoàn toàn tín thác nương tựa[17], cũng là Đấng tự mặc khải là Cha của Đức Giêsu Kitô. Sự thuần nhất của chân lý, tự nhiên và mặc khải, gặp được sự đồng nhất sống động và hữu ngã trong Đức Kitô, như thánh Tông đồ nhắc nhở: “Sự thật ở nơi Đức Giêsu” (Ep 4, 21; xc. Cl 1, 15-20). Người là Lời hằng cửu trong đó mọi vật được tạo thành, đồng thời là Lời nhập thể, mà Chúa Cha đã mặc khải trong ngôi vị của mình (DV. 4). Điều mà lý trí con người khám phá “mà không biết” (xc. Cv. 17, 23), chỉ có thể tìm thấy nhờ Đức Kitô: quả thực, điều được mặc khải, nơi Người, là “đầy chân lý” (Ga 1, 14-16) của mọi hữu thể đã được tạo thành trong Người và nhờ Người, rồi nhận thấy nơi Người sự hoàn chỉnh của mình (Xc. Cl. 1, 17).
35.     Qua những suy tư tổng quát đó, bây giờ phải cứu xét một cách trực tiếp về tương quan giữa chân lý mặc khải và triết học. Tương quan này đòi hỏi một suy tư lưỡng diện, vì chân lý đến với chúng ta qua Mặc khải cũng một trật là chân lý được hiểu biết nhờ ánh sáng của lý trí. Quả thực, chỉ nhờ ý nghĩa lưỡng diện đó mới có thể xác định tương quan đúng đắn giữa chân lý mặc khải và kiến thức triết học. Vậy trước hết chúng ta hãy nghiên cứu những tương quan giữa đức tin và triết học qua dòng lịch sử. Từ đó có thể phân biệt một vài nguyên lý làm điểm qui chiếu, để thiết lập tương quan đúng đắn giữa hai lãnh vực nhận thức.

CHƯƠNG IV
Những Tương Quan
Giữa Đức Tin và Lý Trí
Những giai đoạn có ý nghĩa
của sự gặp gỡ giữa đức tin và lý trí.
36.     Theo chứng tá của sách Công vụ Tông đồ, ngay từ đầu sứ điệp của Kitô giáo đã đụng chạm với những trào lưu triết học của thời đại. Cũng sách ấy tường thuật cuộc tranh luận của thánh Phaolô ở Athènes với một số triết gia Epicure và Stoici (17, 18). Việc chú giải phân tách bài thuyết trình ỏ Aréopage làm sáng tỏ nhiều lời đá đưa đến những niềm tin bình dân, phần lớn có nguồn gốc Stoici. Hẳn đó không phải là chuyện tình cờ. Để cho những dân ngoại hiểu mình, trong các cuộc đàm thoại những Kitô hữu tiên khởi không thể chỉ nại vào “Mose và các ngôn sứ”; họ cũng phải nại đến kiến thức tự nhiên về Thiên Chúa, và đến tiếng lương tâm luân lý của mọi người (Xc. Rm 1,19-21; 2, 14-15; Cv. 14, 16-17). Nhưng vì trong ngoại giáo, kiến thức tự nhiên này ngả theo việc thờ ngẫu tượng (xc. Rm 1, 21-32), nên thánh Tông đồ cho rằng đăt bài thuyết trình của mình trong tương quan với tư tưởng của các triết gia thì khôn ngoan hơn, những triết gia này, ngay từ đầu đã đối lập những quan niệm đáng kính trọng của sự siêu việt thần linh với những thần thoại và với những phụng tự bí nhiệm.
Quả thực, một trong những cố gắng do các triết gia của tư tưởng cổ điển thực hiện, là thanh lọc quan niệm mà con người có về Thiên Chúa khỏi những hình thức thần thoại. Như chúng ta đã biết, tôn giáo của Hy lạp, không khác với đa số những tôn giáo thờ tinh tú, cũng là đa thần, dù tôn giáo ấy đã thần hoá những vật và những hiện tượng tự nhiên. Những nỗ lực của con người để tìm hiểu nguồn gốc của các thần minh, và cùng với các thần minh nguồn gốc của vũ trụ được biểu thị qua thơ phú. Ngay cả ngày nay những thần thống [thuyết về nguồn gốc các thần minh] vẫn là những tang chứng đầu tiên về việc nghiên cứu đó của con người. Nhiệm vụ của những ông tổ triết học là làm sáng tỏ mối liên lạc giữa lý trí và tôn giáo. Nhìn xa hơn đến những nguyên lý phổ quát, họ không còn thoả mãn với những thần thoại cố cựu nữa, nhưng đã muốn đặt ra một nền tảng hữu lý cho niềm tin của họ vào thần tính. Như vậy, sau khi đã bỏ những truyền thống cố cựu riêng rẽ, người ta dấn thân vào con đường đưa đến sự phát triển phù hợp với những đòi hỏi của lý trí phổ quát. Mục đích mà sự phát triển ấy đạt được một ý thức phê bình về những điều họ đang tin. Quan niệm mà người ta có về thần tính là quan niệm đầu tiên lợi dụng con đường này. Những mê tín được nhìn nhận là mê tín, và tôn giáo cũng được thanh lọc phần nào bởi sự phân tách của lý trí. Chính trên nền tảng này mà các giáo phụ đã thực hiện cuộc đối thoại phong phú với những triết gia Cổ thời, mở đường cho việc loan báo và hiểu biết Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô.
37. Khi người ta nhắc đến phong trào làm cho người Kitô hữu tiếp cận với triết học, cũng phải nhắc đến một thái độ khôn ngoan đối với những yếu tố khác của thế giới ngoại giáo, chẳng hạn thuyết ngộ đạo. Triết học, xét như sự khôn ngoan thực hành và trường dạy cách sống, có thể dễ dàng bị lẫn lộn với một nhận thức cao cấp và bí truyền, dành cho một số nguời hoàn bị. Hẳn thánh Phaolô đã nghĩ đến loại suy tư bí truyền này khi người cảnh giác những người Colosse: “Hãy coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuyếch, theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Kitô” (2, 8). Những lời của thánh Tông đồ tỏ ra đặc biệt thức thời nếu chúng ta đối chiếu với những hình thúc bí truyền hiện nay đang được phổ biến trong cả những người Kitô hữu thiếu óc phê phán cần thiết. Theo gót thánh Phaolô, những nhà trước tác khác thuộc những thế kỷ đầu, nhất là thánh Irenée và ông Tertuliano, cũng cảnh giác về một thái độ văn hoá đòi để cho các triết gia giải thích Mặc khải.
38. Vậy sự gặp gỡ giữa Kitô giáo với triết học không xảy ra lập tức và dễ dàng. Việc thực hành triết lý và việc theo học những trường lớp bị các người Kitô hữu đầu tiên coi như nguồn gốc của sự lộn xộn hơn là một vận hạnh. Đối với họ, bổn phận đầu tiên và khẩn thiết là loan báo Chúa Giêsu phục sinh, bằng cách gặp gỡ cá nhân khả dĩ hướng dẫn người đối thoại hoán cải tâm hồn và xin lãnh nhiệm tích Thánh tẩy. Điều đó không có nghĩa là họ u minh về bổn phận phải đào sâu sự hiểu biết đức tin và những lý do để tin, nhưng hoàn toàn ngược lại. Lời phê bình của Celse, tố giác các kitô hữu là một dân “thất học và thô lỗ” [18]quả là bất công và thiếu nền tảng. Việc họ không tha thiết phải được giải thích cách khác. Kỳ thực, sự tiếp cận với Tin mừng cung cấp lời giải đáp đầy đủ cho câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời, câu hỏi cho đến đó vẫn chưa được giải đáp, và sự đi lại với những triết gia được họ coi như chuyện xa xưa, và theo một góc độ nào đó, như đã bị vượt qua.
Điều đó ngày nay càng rõ rệt nếu người ta nghĩ đến sự đóng góp của Kitô giáo trong việc khẳng định quyền của mọi người để biết chân lý. Ngay từ đầu, sau khi đã dẹp bỏ những hàng rào chủng tộc, xã hội, giới phái, Kitô giáo đã khẳng định sự bình đẳng của mọi người trước Thiên Chúa. Công hiệu thứ nhất của quan niệm này liên hệ đến vấn đề chân lý. Người ta đã dứt khoát vượt qua tính cách ưu đãi mà việc nghiên cứu chân lý đã chiếm được nơi những Cổ nhân: từ khi việc tiếp cận với chân lý là điều thiện giúp ta đạt tới Thiên Chúa thì mọi người đều phải đủ khả năng để theo con đường này. Những con đường tiếp cận chân lý thì nhiều; tuy nhiên, chân lý Kitô giáo có giá trị cứu độ, mỗi một con đường của nó đều có thể được sử dụng, miễn là nó đưa tới mục đích sau cùng, ấy là tới mặc khải của Chúa Giêsu Kitô.
Thánh Justino mà một trong số những người tiên phong gặp gỡ phúc lợi với triết học, sự gặp gỡ vẫn mang dấu ấn của sự biện phân khôn ngoan: dù sau khi tòng giáo, Justino vẫn giữ lòng yêu chuộng lớn lao đối với triết học hy lạp, nhưng người đã mạnh mẽ và minh bạch tuyên bố rằng mình đã tìm thấy “triết lý chắc chắn và hữu ích duy nhất”[19]. Thánh Clément thành Alexandria gọi Tin mừng là “triết lý chân thực”[20], và người cho triết học, tương tự như luật Mose, là giáo huấn chuẩn bị cho đức tin Kitô giáo[21], và như bài dẫn nhập vào Tin Mừng[22]. Vì “triết học mong ước thứ khôn ngoan, thứ khôn ngoan hệ tại sự thẳng thắn của tâm hồn, của ngôn ngữ, và sự trong trắng của đời sống, nên nó sẵn sang yêu mến và bạn bè với sự thông thái, và làm mọi cách để đạt tới. Nơi chúng tôi, người ta gọi triết gia là người say mê sự Thông tuệ sáng tạo và giáo dục vũ trụ, nghĩa là say mê nhận biết Con Thiên Chúa[23]. Đối với tác giả thành Alexandria, triết học Hy lạp không ưu tiên nhằm bổ khuyết hay củng cố chân lý Kitô giáo; chức năng của nó đúng ra là bảo vệ đức tin: “Giáo huấn của Đấng Cứu thế tự nó đã đủ và không cần đến chi khác, vì ‘nó là sức mạnh và sự thông tuệ của Thiên Chúa’. Triết học Hy lạp, với sự đóng góp của nó, không làm cho chân lý được mạnh mẽ hơn, nhưng vô hiệu hoá sức tấn công của ngụy biện, và dẹp tan những cạm bẫy chống với chân lý, triết học Hy lạp quả có thể được gọi là hằng rào và tường chắn của vườn nho”[24].
39. Trong lịch sử của sự phát triển đó, luôn luôn có thể nghiệm thấy rằng những nhà tư tưởng Kitô giáo đã tán đồng tư tưởng triết lý một cách phê bình. Trong những tấm gương đầu tiên mà ta có thể gặp thấy, phải kể đến ông Origene. Khi đương đầu với những chống đối của triết gia Celse, Origene đã dùng triết học Platon để biện bạch và đối đáp. Khi qui chiếu với một số lớn những yếu tố của tư tưởng Platon, ông bắt đầu xây dựng hình thức tiên khởi của thần học Kitô giáo. Chính hạn từ và quan niệm Thần học như sự bàn luận hữu lý về Thiên Chúa cũng có gốc gác hy lạp. Chẳng hạn trong triết học Aristốt, hạn từ ấy ám chỉ phần cao nhã nhất và đỉnh chóp đích thực của lý luận triết học. Trái lại theo ánh sáng của Mặc khải Kitô giáo, điều trước kia chỉ đạo lý tổng quát về thần tính bắt đầu nhận một ý nghĩa hoàn toàn mới khi nó ám chỉ sự suy tư do người tín hữu thực hiện để giãi bày đạo lý chân chính về Thiên Chúa. Trong khi phát triển, tư tưởng mới của Kitô giáo đó đã dùng triết học, nhưng một trật vẫn chủ tâm phân biệt một cách rõ rệt với triết học. Lịch sử chứng minh rằng chính tư tưởng Platon, được thần học sử dụng, cũng đã được cải biến sâu sắc, đặc biệt trong những quan niệm về sự bất hoại của linh hồn, sự thần hoá con người và nguồn gốc của điều ác.
40. Trong công trình Kitô hoá tư tưởng Platon và tân Platon, cần phải nhắc riêng đến các giáo phụ Cappadoce, đến Dionisio Areopagite, nhất là đến thánh Augustin. Vị đại tiến sĩ Tây phương này đã tiếp cận với nhiều trường phái triết học khác nhau, nhưng tất cả đều làm cho ngài thất vọng. Khi ngài trực diện với chân lý của đức tin Kitô giáo, ngài liền được sức mạnh để thực hiện việc hoán cải hoàn toàn, thứ hoán cải mà các triết gia người đã gặp trước không đủ hướng dẫn người. Chính người cho biết lý do: “Quả thực từ thời ấy tôi quí chuộng đạo lý công giáo hơn, vì trong đạo lý này, tôi cảm thấy được yêu cầu một cách nhã nhặn và không dụng ý đánh lừa, để tin những điều chưa được chứng minh, - hoặc là điều phải chứng minh mà ai đó không hiểu, hoặc là không chứng minh được - đang khi trong đạo lý nọ [của nhóm Manicheo], dù liều lĩnh hứa hẹn sự hiểu biết, nhưng vẫn chế diễu tính cả tin, rồi lại bắt buộc phải tin vô số những chuyện biến ngôn và nhảm nhí, vì họ không thể chứng minh[25]. Dẫu các triết gia Platon được thánh Augustin minh đăc biệt sử dụng, ngài cũng trách họ là biết mục đích phải hướng tới, nhưng không biết con đường dẫn tới đích, ấy là Ngôi Lời nhập thể[26]. Đức Giám mục thành Hippone đã thành công khi thực hiện một tổng hợp đầu tiên và vĩ đại tư tưởng triết học và thần học, hội tụ những luồng tư tưởng hy lạp và latinh. Cũng nơi thánh nhân, sự thống nhất vĩ đại về kiến thức, đặt nền tảng trên tư tưởng Thánh Kinh, đã được củng cố và bảo vệ bởi sự sâu sắc của tư tưởng trừu tượng. Tổng hợp do thánh Augustin thực hiện đã trở thành hình thức cao nhất của suy tư triết học và thần học bên trời Âu trong nhiều thế kỷ. Có thế mạnh bởi lịch sử cá nhân và được củng cố bởi đời sống thánh thiện, người cũng có đủ thế giá để du nhập vào trong các tác phẩm của mình nhiều yếu tố; vì qui chiếu với kinh nghiệm, những yếu tố ấy khai mào cho những phát triển của một số trào lưu triết học.
41. Vậy với những cách thức khác nhau, các Giáo phụ Đông và Tây đã liên lạc với các trường phái triết học. Điều đó không có nghĩa là các ngài đã đồng hoá nội dung của sứ điệp của các ngài với những hệ thống của các trường phái ấy. Câu hỏi của Tertulien: “Athenes và Gierusalem có gì chung chăng? Hàn lâm và Giáo hội có gì chung chăng?[27] là một dấu hiệu rõ rệt của ý thức phê bình mà các nhà tư tưởng Kitô giáo đã có, ngay từ đầu, khi đề cập đến vấn đề về những tương quan giữa đức tin và triết lý, khi nhìn toàn thể vấn đề dưới những khía cạnh tích cực và những giới hạn của nó. Họ không phải là những nhà tư tưởng ngây thơ. Chính vì họ sống nội dung đức tin cách cao cường nên họ biết đạt tới những hình thức sâu xa nhất của suy tư. Vì thế trong những tác phẩm của họ chỉ nhìn thấy sự thay những chân lý đức tin thành những phạm trù triết học là bất công và thiển cận. Họ đã làm nhiều hơn. Quả thực, họ đã có thể đưa điều còn ám tàng, và mới manh nha trong tư tưởng của những đại triết gia cựu trào, đến chỗ viên mãn [28]. Những tác giả này, như tôi đã nói, có thiên chức chứng minh rằng, theo một mức độ nào đó, trí khôn được giải phóng khỏi những rằng buộc bên ngoài, có thể thoát khỏi ngõ cụt của những thần thoại, để vươn tới chỗ siêu việt một cách thích hợp nhất. Vậy một lý trí được thanh lọc và ngay thẳng có thể tiến đến những cấp bậc cao nhất của suy tư, bằng cách đặt nền tảng vững chắc trong sự nhìn thẳng vào hữu thể, siêu việt và tuyệt đối.
Đây chính là điều mới mẻ của các Giáo phụ. Họ hoàn toàn đón nhận lý trí cởi mở đối với tuyệt đối và ghép vào đó sự phong phú do Mặc khải mang tới. Sự gặp gỡ không những thể hiện trong lãnh vực văn hoá mà bên nọ sẽ ngả theo sự quyến rũ của bên kia; nó còn thể hiện trong thẩm sâu của tâm hồn và đó là sự gặp gỡ giữa vật thụ tạo với Đấng Tạo hoá. Khi vượt qua mục đích mà nó vô tình hướng tới theo hiệu năng của bản tính, lý trí có thể đạt tới điều thiện tối thượng của ngôi Lời nhập thể. Tuy nhiên đối diện với các triết học, các Giáo phụ không sợ nhìn nhận những yếu tố chung cũng như những khác biệt mà triết học mang theo đối với Mặc khải.Ý thức những điểm chung không phương hại đến sự nhìn nhận những khác biệt.
42. Trong thần học kinh viện, chức năng của lý trí đã được huấn luyện bởi triết học còn đáng kể hơn, dưới sự thúc đẩy của lối thánh Anselmo giải thích về sự hiểu đức tin. Đối với thánh Giám mục thành Cantorbery, quyền ưu tiên của đức tin không đối lập với sự nghiên cứu riêng biệt của lý trí. Quả thực, lý trí không có chức năng đưa ra phán đoán về nội dung của đức tin; nó không thể làm, vì nó không có khả năng để làm việc đó. Trách nhiệm của nó đúng là tìm ra ý nghĩa, khám phá những lý lẽ giúp mọi người hiểu biết phần nào nội dung của đức tin. Thánh Anselmo ghi nhận sự kiện này, là trí tuệ phải tra tay nghiên cứu điều nó yêu mến; nó càng yêu mến hơn càng khát khao hiểu biết hơn. Ai sống cho chân lý thì hướng đến một hình thức nhận biết luôn luôn nồng nàn yêu mến điều mình biết, đang khi phải công nhận là mình chưa làm tất cả những chi mình mong muốn: “Tôi được dựng nên để nhìn thấy ngài, và tôi chưa làm được tất cả những gì tôi được dựng nên để làm”[29]. Vậy sự ước muốn chân lý thúc đẩy lý trí luôn luôn đi xa hơn; quả thực nó như thúc bách phải nghiệm thấy nó có khả năng luôn luôn lớn hơn điều nó đã hiểu. Tuy nhiên, về điểm này lý trí có khả năng để khám phá chỗ hoàn tất con đuờng của nó: “Tôi thiết tưởng, ai nghiên cứu điều không thể hiểu, thì nên lấy làm thỏa mãn, khi nhờ suy luận mà biết chắc chắn thực tại của nó, dẫu trí khôn người ấy không thể thấu hiểu cách thức hiện hữu của nó [...]. Vậy có điều gì khôn thấu, khôn tả cho bằng điều trổi vượt trên mọi vật? Nếu những điểm được bàn luận cho đến nay về yếu tính cao viễn được bảo đảm bởi những lý lẽ tất yếu, thì tuyệt nhiên sự vững chãi chắc chắn không còn lung lay, dẫu trí khôn không thể thấu đáo, cũng không thể dùng lời nói mà giải thích những điều ấy. Và nếu suy tư trên đây kết luận một cách hợp lý rằng: người không thể hiểu (rationabiliter comprehendit incomprehensibile esse) cách thức mà sự thông tuệ siêu việt biết công việc của mình, thì làm sao người ấy có thể giải thích được cách thức mà sự thông tuệ ấy biết và bộc lộ chính mình, sự thông tuệ mà con người không thể, hay hầu như không biết gì?”[30]
Một lần nữa, sự hài hoà cơ bản của nhận thức triết lý với sự nhận thức của đức tin được củng cố: đức tin đòi hỏi đối tượng của nó phải được lý trí hiểu biết; còn lý trí, khi nghiên cứu cho đến cùng, phải chấp nhận điều đức tin trình bày là điều tất yếu.

Tư tưởng mới mẻ liên lỉ
của thánh Thomas Aquino
43. Trên con đường tràng giang này, thánh Thomas chiếm địa vị thật đặc biệt, không những vì nội dung đạo lý, mà còn vì sự đối thoại mà người đã biết thực hiện với tư tưởng Ảrap và tư tưởng Do thái của thời ngài. Vào thời đại mà những nhà tư tưởng Kitô giáo khám phá ra những kho tàng triết học cổ thời, và trực tiếp là triết học của Aristot, thánh nhân có công lớn là ưu tiên giãi bày sự hài hoà hiện hữu giữa lý trí và đức tin. Ngài giải thích, ánh sáng của lý trí và ánh sáng của đức tin đều phát xuất từ Thiên Chúa; cho nên không thể tương phản nhau.[31]
Triệt để hơn nữa, thánh Thomas nhìn nhận rằng, thiên nhiên, đối tượng của triết học, có thể giúp ta hiểu mặc khải của Thiên Chúa. Nên đức tin không sợ lý lẽ, mà còn tìm kiếm và tín nhiệm nó. Cũng như ân sủng hiểu ngậm tính tự nhiên và kiện toàn nó,[32] thì đức tin cũng hiểu ngậm và kiện toàn lý lẽ. Lý trí, được đức tin soi sáng, được giải thoát khỏi những mong manh và những giới hạn phát sinh do sự bất tuân của tội lỗi, và tìm được sức mạnh cần thiết để vươn mình lên đến chỗ nhận biết mầu nhiệm một Thiên Chúa Ba ngôi. Đang khi nhấn mạnh đến tính cách siêu nhiên của đức tin, thánh Tiến sĩ thiên thần không quên giá trị hữu lý của nó; trái lại ngài đã biết đào sâu hơn và xác định ý nghĩa của tính cách hữu lý này. Quả thực, đức tin một cách nào đó “là sự tập luyện tư tưởng”; lý trí của con người không bị tiêu diệt cũng không bị hạ nhục khi công nhận nội dung của đức tin; nội dung này luôn luôn được chấp nhận bằng một sự lựa chọn tự do và có ý thức.[33]
Chính vì thế mà thánh Thomas luôn luôn được Giáo Hội đặt một cách đích đáng làm tôn sư của tư tưởng và gương mẫu để nghiên cứu học hỏi thần học cho đúng đắn. Trong hoàn cảnh này, tôi muốn nhắc lại điều Đức Phaolô VI, người tôi tá Thiên Chúa, vị tiền nhiệm của tôi, đã viết dịp thất bách chu niên ngày qua đời của thánh Tiến sĩ thiên thần: “Không chút hoài nghi, thánh Thomas đã có với mức độ cao nhất lòng can đảm của chân lý, có sự tự do của trí tuệ giúp người đương đầu với những vấn đề mới, sự đoan trang tri thức của kẻ không để cho Kitô giáo bị ô nhiễm bởi triết học ngoại giáo, dù không tiên thiên chối bỏ triết học ấy. Đó là lý do vì sao người nổi bật trong lịch sử tư tưởng Kitô giáo như vị tiên phong trên con đường mới của triết học và của văn hoá phổ quát. Trung tâm điểm, hạt nhân, nếu có thể nói như thế, của giải đáp mà với trực kiến ngôn sứ và lỗi lạc người đưa ra cho vấn đề tương quan mới giữa lý trí và đức tin, là phải dung hoà tính cách phàm tục của thế giới và tính cách triệt để của Tin mừng, như vậy là tránh được khuynh hướng phản thiên nhiên, chối bỏ thế giới và những giá trị của nó, nhưng không vì thế mà xúc phạm đến những yêu sách tối cao và bất khuất của lãnh vực siêu nhiên.[34]
44. Trong số những trực kiến vĩ đại của thánh Thomas, phải kể đến cái nhìn liên quan đến chức năng của Chúa Thánh Linh để sự nhận thức nhân loại được chín mùi thành thông tuệ đích thực. Ngay từ những trang đầu của bộ Tổng luận Thần học,[35] thánh Thomas đã muốn minh chứng quyền ưu tiên của sự thông tuệ là ân huệ của Chúa Thánh Linh, dẫn đến sự nhận biết những thực tại thần linh. Thần học của người cho phép hiểu tính cách đặc biệt của sự thông tuệ trong liên lạc với đức tin và với nhận thức thần linh. Thần học này nhận biết bằng tính bản nhiên, giả định đức tin và có thể công thức hoá phán đoán đúng đắn của mình từ chân lý của chính đức tin: “Thông tuệ được liệt vào số các ơn của Chúa Thánh Thần thì khác với thông tuệ như một nhân đức trí năng thủ đắc, vì thông tuệ này được chinh phục bằng nỗ lực của con người, trái lại, thông tuệ kia thì từ trên mà xuống, như thánh Giacobê nói. Vậy nó cũng khác với đức tin, vì đức tin chấp nhận chính chân lý thần linh, còn đặc trưng của ơn thông tuệ là phán đoán theo chân lý của Thiên Chúa”.[36]
Sự ưu tiên đối với ơn thông tuệ không làm cho thánh Thomas quên mất hai hình thức bổ khuyết nhau của sự thông tuệ: sự thông tuệ triết lý căn cứ trên khả năng của trí khôn tìm kiếm chân lý trong những giới hạn bản nhiên của nó, và sự thông tuệ thần học, căn cứ trên sự Mặc khải và nghiên cứu nội dung của đức tin, đạt tới chính mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Xác tín trong thâm tâm rằng :“mọi chân lý, do bất cứ ai nói ra, cũng là do Chúa Thánh thần”,[37] thánh Thomas yêu mến chân lý một cách vô tư. Chân lý có thể giãi bày ở đâu là ngài tìm kiếm ở đó, ngài tận lực làm sáng tỏ tính cách phổ quát của nó. Huấn quyền đã nhận thấy nơi người lòng ham mê chân lý; chính vì tư tưởng của người luôn luôn nằm trong phối cảnh của chân lý phổ quát, khách quan và siêu việt, nên đã đạt tới “những điểm cao chót vót trí tuệ nhân loại chưa có thể nghĩ tưởng”.[38] Vì thể có đủ lý để định nghĩa ngài là “tông đồ của chân lý”.[39] Chính vì người tìm kiếm chân lý không e dè, nên trong tính chủ thực của mình, người đã biết tính khách quan của chân lý. Triết lý của ngài quả là triết lý về hữu thể chứ không phải về hiện tượng mà thôi.
Thảm kịch của sự ly tán giữa đức tin và lý trí
45. Với sự ra đời của những đại học đầu tiên, thần học bắt đầu đối diện trực tiếp với những hình thức nghiên cứu và những kiến thức khác. Thánh Alberto Cả và thánh Thomas, dù vẫn giữ một mối liên hệ hữu cơ giữa thần học và triết học, nhưng là những người đầu tiên nhìn nhận quyền tự quyết cần thiết để triết học và khoa học hoạt động cách hữu hiệu trong lãnh vực nghiên cứu liên hệ. Tuy nhiên từ sau thời Trung cổ, sự phân biệt chính đáng đã biến thành sự chia rẽ tai hại. Vì não trạng quá duy lý của một số nhà tư tưởng, những lập trường trở thành cấp tiến đến độ trong thực tế đã làm cho triết học ly tán và hoàn toàn độc lập với nội dung của đức tin. Một trong số những hệ quả của việc ly tán này có sự thiếu tin tưởng ngày ngày càng gia tăng đối với chính lý trí. Có những người bắt đầu chủ trương sự ngờ vực phổ quát, hoài nghi và bất khả tri, hoặc để dành cho đức tin một lãnh vực rộng rãi, hoặc để gieo sự thất tín vào mọi cách viện lý cho đức tin.
Nói tóm lại, điều mà tư tưởng giáo phụ và trung cổ đã quan niệm và đã thực hiện như thể làm thành một độc khối sâu sắc, phát sinh ra một thứ nhận thức, khả dĩ đi đến những hình thức cao siêu nhất của suy tư, thì trong thực tế đã bị phá hủy bởi những hệ thống bám lấy nhận thức duy lý, tách rời với đức tin và thay thế cho đức tin.
46. Những lập trường cấp tiến ảnh hưởng nhất thì ai cũng biết và nhận ra, nhất là trong lịch sử Âu châu. Không phải là phóng đại nếu quả quyết rằng phần lớn tư tưởng triết học hiện đại được phát triển bằng cách dần dà xa lìa Mặc khải Kitô giáo, đến độ chống đối mặc khải ấy một cách minh nhiên. Phong trào này đã đạt tới đỉnh cao trong thế kỷ trước. Một số đại diện của thuyết Duy tâm đã tìm những cách thức khác để biến đổi đức tin và nội dung của nó, kể cả mầu nhiệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, thành những cơ cấu biện lý có thể quan niệm cách hữu lý. Đối lập với tư tưởng này là những hình thức nhân bản vô thần, được thiết kế cách triết học, đã trình bày đức tin như điều độc hại và tha hoá đối với sự phát triển của lý trí sung mãn. Họ không ngần ngại giới thiệu như là những tôn giáo mới, dùng làm nền tảng cho những ý đồ chính trị và xã hội, những ý đồ đã biến thành những hệ thống độc tài, gây thương đau cho nhân loại.
Trong lãnh vực nghiên cứu khoa học, người ta đã áp dụng một não trạng thực tiễn, chẳng những không đếm xỉa đến cái nhìn Kitô hữu về thế giới, lại còn gạt ra ngoài lề những quan niệm siêu hình và luân lý. Thành thử, một số nhà trí thức, vì thiếu hẳn mọi qui chiếu phong hoá, nên có nguy cơ không còn lấy nhân vị và toàn thể sự sống làm trọng tâm hứng thú. Hơn nữa, một số người, ý thức những tiềm năng nội tại của sự phát triển kỹ thuật, hình như bị quyến rũ bởi một thần lực trên thiên nhiên và trên chính con người hơn là bởi lợi nhuận của thị trường nữa.
Đàng khác thuyết hư vô được lớn mạnh như công hiệu do khủng hoảng của thuyết duy lý. Triết lý của hư vô đã có thể quyến rũ con người thời nay. Những đồ đệ của thuyết này lấy việc nghiên cứu như chính mục đích, không chút hy vọng hay khả năng đạt tới chân lý. Trong sự giải thích của thuyết hư vô, cuộc sống chỉ là cơ hội để thử nghiệm những cảm giác và thực hiện những thí nghiệm, trong đó cái phù du chiếm ưu thế. Do thuyết hư vô phát sinh ra não trạng rất phổ biến là không cam kết cách dứt khoát, vì mọi sự đều là phù du và tạm bợ.
47. Đàng khác, cũng không nên quên rằng, trong văn hoá hiện đại, chức năng của triết học rút cuôc cũng thay đổi. Từ chỗ là thông tuệ và tri thức phổ quát xưa kia, triết học đã dần dà trở thành một trong những ngành nhận thức của loài người; hơn nữa, theo một vài khía cạnh nó bị thu hẹp vào một chức năng hoàn toàn ngoài lề. Đang khi đó, những hình thức lý luận khác được xác lập ngày ngày càng cường tráng hơn, để làm rõ nét tính cách ngoài lề của triết học. những hình thức suy nghĩ đó thay vì hướng về sự chiêm niệm chân lý, nghiên cứu cứu cánh và ý nghĩa của cuộc đời, lại đã trở thành hay có thể trở thành “một chức năng”, phục vụ cho những mục đích vụ lợi, cho sự chiếm hữu và cho quyền hành.
Ngay từ thông điệp đầu tiên của tôi, tôi đã lưu ý rằng tuyệt đối hoá đường lối đó thì nguy hiểm biết bao và tôi đã viết: “Hình như con người ngày nay luôn luôn bị đe doạ bởi cái mình làm ra, nghĩa là bởi thành quả do công lao của bàn tay, nhất là của trí óc và của những ý hướng của mình. Một cách rất mau lẹ và khôn lường, những thành quả của những hoạt động đa dạng của con người này không những chỉ là đối tượng để “chuyển nhượng”, theo nghĩa đơn sơ và thuần túy là sẽ được cất khỏi tay người sản xuất ra chúng; mà còn quay lại chống với chính con người, ít là một phần nào, theo đường lối gián tiếp qua những công hiệu của các thành quả ấy; chúng được qui hướng hay có thể được qui hướng để chống với con người. Hình như đây là màn bi kịch chính yếu của cuộc nhân sinh hiện nay, với chiều kích rộng hơn và phổ quát hơn. Thành thử, con người càng ngày càng luôn sống trong sợ hãi hơn. Sợ rằng những sản phẩm của mình có thể quay hẳn lại chống với mình, không phải tự nhiên hay phần đông là thế, nhưng một số, nhất là những thứ hàm chứa phần tài trí và óc sáng tạo riêng biệt của minh”.[40]
Do sự thay đổi văn hoá, một số triết gia, bỏ việc nghiên cứu chân lý, đã lấy việc chắc chắn chủ quan và lợi ích thực hành như mục đích duy nhất. Thành thử làm lu mờ địa vị đích thật của lý trí, lý trí không còn được chuẩn bị để biết điều chân thật và tìm kiếm điều tuyệt đối.
48. Điều nổi bật của giai đoạn lịch sử triết học cận đại là sự phân ly dần dần giữa đức tin và lý trí triết học. Đối với người chăm chú quan sát, thì đôi khi cũng thấy xuất hiện, ngay trong cả suy tư triết học của những người khơi rộng hố sâu giữa đức tin và lý trí, những mầm mống quí giá của tư tưởng, mà nếu thâm cứu và quảng diễn với tâm trí ngay thẳng, có thể khám phá ra con đường của chân lý. Người ta nhận thấy những mầm mống tư tưởng ấy, chẳng hạn, trong những phân tách sâu sa về trực giác và kinh nghiệm, về điều tưởng tượng và vô thức, về tính cách ngôi vị và liên vị, về sự tự do và những giá trị, về thời gian và lịch sử. Cả đề tài về sự chết cũng có thể trở thành một lời gọi, thôi thúc mọi người suy nghĩ tìm trong chính mình ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Điều đó không có nghĩa là tương quan giữa đức tin và lý trí như hiện nay không đòi hỏi một nỗ lực chăm chú để biện phân, vì lý trí và đức tin mà đối đầu nhau đều trở nên nghèo nàn và suy yếu. Lý tri, mất trợ lực của đức tin, đã theo những con đường nhánh, liều mình đánh mất phối cảnh của cứu cánh. Đức tin, thiếu lý trí, đã chú ý đến tình cảm và kinh nghiệm, có nguy cơ không còn là mệnh đề phổ quát. Thật là huyễn hoặc khi nghĩ rằng đức tin, đối đầu với lý trí ốm yếu, có thể có nghị lực lớn lao hơn; trái lại, nó sẽ gặp nguy cơ lớn để trở thành thần thoại và mê tín. Cũng một cách, lý trí không có một đức tin trưởng thành trước mặt thì không được khích lệ để theo đuổi điều mới lạ và tính triệt để của hữu thể.
Vậy không thể coi là lạc đề nếu tôi mạnh mẽ và khấn thiết kêu mời đức tin và lý trí hiệp nhất thắm thiết với nhau, để có thể sử trí phù hợp bản tính của mình, đang khi tôn trọng sự độc lập của nhau. Ứng đối với sự “parrhèsia” [tuân phục] đức tin cần phải sự can đảm của lý trí.



Chương V
Sự can thiệp của huấn quyền
trong lãnh vực triết học
Sự biện phân của Huấn quyền
như phục vụ chân lý

49. Giáo hội không đề nghị một triết học riêng, cũng không phong thần cho một nền triết học đặc thù, gây thương tổn cho các triết học khác[41]. Sở dĩ có sự dè dặt này là vì triết học, cả trong tương quan của nó với thần học, phải diễn tiến theo những phương pháp riêng; chẳng vậy, không bảo đảm được rằng, triết học vẫn hướng về chân ly, và hướng về chân lý như thế là nhờ đường lối có thể kiểm chứng cách hữu lý. Một triết học không diễn tiến dưới ánh sáng của của lý trí, theo những nguyên lý và những phuơng pháp riêng, sẽ không phải là một trợ lực lớn. Rút cuộc, nguồn mạch của sự tự quyết mà triết học thừa hưởng phải tìm nơi sự kiện này là, lý trí theo bản tính, phải hướng về chân lý và, đàng khác, nó có nơi chính mình những phương tiện để đạt tới chân lý. Một triết học ý thức về “tình trạng cơ cấu” (statut constitutif) của mình cũng không thể không tôn trọng những đòi hỏi và những hiển minh riêng biệt của chân lý mặc khải. Nhưng lịch sử đã cho thấy những lạc hướng và những sai lầm mà tư tưởng triết học, nhất là tư tưởng hiện đại thường hay sa vào. Huấn quyền không có bổn phận cũng không có thẩm quyền để bổ khuyết những sơ hở của một chủ truơng triết học thiếu sót. Trái lại, Giáo hội có bổn phận phải phản ứng một cách rõ rệt và mạnh mẽ khi những chủ trương triết học chưa chắc chắn, nguy hại cho sự hiểu biết đúng đắn điều được mặc khải, và khi người ta phổ biến những học thuyết sai lầm và bè phái reo rắc những sai lầm nghiêm trọng, gây hoang mang cho đức tin đơn thành và trong sáng của dân Thiên Chúa.
50. Vậy theo ánh sáng đức tin, Huấn quyền của Giáo Hội có thể và phải thi hành quyền biện phân phê phán riêng biệt của mình đối với những triết học, và những chủ trương tương phản với đạo lý Kitô giáo[42]. Trước hết nhiệm vụ của Huấn quyền là chỉ cho thấy những tiền đề và những kết luận triết lý nào không phù hợp với chân lý mặc khải, do đó theo quan điểm đức tin đưa ra những đòi hỏi buộc triết học phải theo. Vả lại, trong sự phát triển của tri thức triết lý, đã xuất hiện nhiều trường phái tư tưởng. Sự đa phức này cũng đặt Huấn quyền trước trách nhiệm phải đưa ra phán đoán xem, những quan niệm nền tảng, mà các trường phái qui chiếu, có phù hợp hay bất phù hợp của với những đòi hỏi riêng của lời Thiên Chúa và của suy tư thần học.
Giáo Hội có bổn phận vạch ra, những chi trong một hệ thống triết học có thể không phù hợp với đức tin của mình. Quả thực, nhiều đề tài triết học, như những đề tài liên quan đến con người, đến sự tự do và hành vi luân lý, trực tiếp liên hệ đến đức tin, vì bàn về chân lý mặc khải mà Giáo Hội phải bảo vệ. Khi biện phân như thế, chúng tôi, những Giám mục, phải là những “chứng nhân của chân lý” trong việc phục vụ khiêm nhu, nhưng cương quyết, mà mọi triết gia phải trân trọng, để mang thiện ích cho lý trí ngay thẳng, nghĩa là lý trí phản tỉnh cách đúng đắn về điều thật,
51. Trước hết, không nên hiểu việc biện phân này theo nghĩa tiêu cực, như thể chủ ý của Huấn quyền là khai trừ hay hủy bỏ mọi trung gian khả dĩ. Trái lại, những can thiêp của Huấn quyền trước hết là khích lệ, là huy động và cổ võ tư tưởng triết học. Đàng khác, những triết gia là những người trước tiên phải hiểu sự tự phê và sự sửa chữa những sai lầm ngẫu nhiên, cũng như nhu cầu phải vượt qua những giới hạn quá hẹp hòi mà suy tư của họ đã bị hun đúc. Cách riêng, phải cho rằng chân lý là duy nhất, dù biểu thức của nó vẫn mang dấu ấn của lịch sử, hơn nữa những biểu thức này là công trình của lý trí nhân loại đã bị tội lỗi đả thương và làm suy yếu. Do đó, không có hình thức lịch sử của triết lý nào có thể hy vọng một cách hợp pháp là bao hàm toàn thể chân lý, hoặc giải thích đầy đủ về con người, về thế giới và về tương quan của con người với Thiên Chúa.
Và ngày nay, vì sự gia tăng của nhiều hệ thống, nhiều phương pháp, nhiều quan niệm và nhiều lý chứng triết học, thường thường rất chi tiết, nên việc biện phân phê bình theo ánh sáng đức tin trở nên rất khẩn trương. Việc biện phân này không dễ dàng, vì nếu việc nhận biết khả năng cố hữu và bất khả nhượng của trí khôn, với những giới hạn cơ cấu và lịch sử đã là khó, thì khi phân biệt xem trong các mệnh đề triết lý, điều nào có giá trị và phong nhiêu theo quan điểm đức tin, và ngược lại, điều nào nguy hiểm và sai lầm, càng có phần khó khăn hơn Dù sao, Giáo hội cũng biết rằng những “kho tàng thông tuệ và kiến thức” được giấu ẩn trong Chúa Kitô (Cl 2,3); cho nên Giáo hội can thiệp bằng cách kích thích sự suy tư triết lý, để con đường dẫn đến sự nhìn nhận mầu nhiệm khỏi bị khép lại.
52. Việc Huấn quyền can thiệp để giãi bày tư tưởng của mình, trong những điều liên can đến những đạo lý triết học đặc thù, không phải là sự kiện mới mẻ. Chỉ cần nhắc lại rằng, qua các thế kỷ, những tuyên ngôn về những học thuyết quả quyết về tiền kiếp của các linh hồn[43], hoặc về những hình thức thờ ngẫu tượng và những thuyết bí truyền mê tín, hàm súc trong những luận đề của thuật chiêm tinh[44], ấy là chưa nói đến một số đề luận của thuyết Averroes latinh không thể phù hợp với đức tin Kitô giáo[45].
Sở dĩ từ hậu bán thế kỷ này Huấn quyền lên tiếng thường xuyên hơn, là vì trong quãng thời gian đó nhiều người công giáo tự cho mình có bổn phận phải đối lập những luồng tư tuởng hiện kim khác nhau với triết học riêng của mình. Về điểm này, Huấn quyền cần phải canh chừng để chính những triết học ấy khỏi ngả theo những hình thức sai lạc và tiêu cực. Như vậy, một đàng những thuyết như Duy Tín (fidéisme)[46], Duy Truyền Thống cực đoan[47] đều bị chỉ trích một cách song song, vì coi khinh khả năng tự nhiên của lý trí; đàng khác là những thuyết Duy Lý (rationalisme)[48], Duy Thực Thể (ontologisme)[49], vì chúng gán cho lý trí tự nhiên những điều chỉ nhờ ánh sáng đức tin ta mới có thể biết. Nội dung tích cực của cuộc tranh luận ấy là đối tượng của bản điều trần mạch lạc trong Hiến Chế tín lý Con Thiên Chúa (Dei Filius), qua đó, CĐC Vatican I đã long trọng can thiệp để bàn về những tương quan giữa lý trí và đức tin. Giáo huấn của văn kiện ấy khích lệ cách mạnh mẽ và tích cực nhiều tín hữu để nghiên cứu triết học, và ngày nay còn là tài liệu quy chiếu, và là qui tắc giúp cho sự suy tư Kitô hữu được đúng đắn và mạch lạc trong lãnh vực đặc thù đó.
53. Những tuyên ngôn của Huấn quyền không nhằm vào những đề luận triết học cụ thể cho bằng vào sự cần thiết của nhận thức lý trí, và rút cuộc của sự tiếp cận triết lý để hiểu đức tin. CĐC Vatican I, khi tổng hợp và khi tái khẳng định cách long trọng những giáo huấn mà, Huấn quyền giáo hoàng, theo cách thông thường và liên lỉ, cho thấy sự nhận thức tự nhiên về Thiên Chúa và Mặc khải, cũng như lý trí và đức tin, là những điều bất khả phân ly và không thể giản lược. CĐC khởi diễn từ yêu sách cơ bản, hiểu ngậm trong chính Mặc khải, là khả năng tự nhiên nhận biết sự thực hữu của Thiên Chúa, thủy chung vạn vật,[50] và CĐC kết luận bằng cách long trọng khẳng định: “Có hai loại nhận thức, khác nhau chẳng những về nguyên lý mà về cả đối tượng nữa”[51]. Vậy chống với mọi hình thức Duy lý, phải khẳng định sự phân biệt giữa những mầu nhiệm đức tin và những khám phá triết học, cũng như sự siêu việt và ưu tiên của những mầu nhiệm đức tin đối với những khám phá triết học; đàng khác chống với nỗ lực Duy tín, cần phải tái xác định sự thuần nhất của chân lý và nhiên hậu sự đóng góp tích cực mà nhận thức hữu lý có thể, và phải mang lại cho nhận thức đức tin: “Tuy nhiên, dù đức tin vượt trên lý trí, nhưng không bao giờ có sự xung khắc giữa đức tin và lý trí, vì cũng một Thiên Chúa mặc khải những mầu nhiệm và thông ban đức tin là Đấng ban ánh sáng của lý lẽ xuống trong trí khôn nhân loại: Thiên Chúa không thể phủ nhận chính mình, cũng như chân lý không bao giờ tương phản với chân lý”[52].
54. Trong thế kỷ của chúng ta. Huấn quyền cũng đã nhiều lần trở lại với vấn đề này. Ta phải đăt những can thiệp của thánh Giáo Hoàng Pio X vào hoàn cảnh này, người đã nêu rõ rằng, dưới nền tảng của thuyết Duy tân có những khẳng định triết học theo khuynh hướng hiện tượng luận, bất khả tri và duy tâm[53]. Ta cũng không thể quên tầm quan trọng của việc Công giáo tẩy chay triết học Mắc xít và Cộng sản vô thần[54]
Đến lượt mình, Đức Pio XII đã lên tiếng trong thông điệp Humani generis, khi ngài phòng ngừa chống với những giải thích sai lầm, liên kết với các chủ trương của những thuyết Biến hoá, Hiện sinh, và Duy lịch sử. Ngài xác định rằng những thuyết ấy chưa chín mùi và chưa được những nhà thần học trình bày, và chúng đã thoát thai “ngoài đoàn chiên của Đức Kitô”[55]; ngài cũng thêm rằng không nên đơn thuần tẩy chay những sai lạc đó, nhưng phải nghiên cứu chúng một cách phê bình. “Những nhà thần học và triết gia công giáo, có trọng trách phải bảo vệ chân lý nhân loại và thần linh, và làm cho nó thấm nhập vào tâm trí con người, không thể u minh hay chểnh mảng về những thuyết lý hơn kém đã đi trệch con đường ngay thẳng. Hơn nữa, họ phải biết chúng, vì những điều ác chỉ có thể được khai trừ khi được biết trước, lại vì dưới chính những chủ trương sai lầm đôi khi cũng chứa đựng yếu tố của chân lý, sau hết vì những khẳng định ấy mời gọi trí tuệ khám phá và suy cứu một cách cẩn thận hơn một vài chân lý triết học và thần học”[56].
Mới đây hơn, thánh bộ Đạo lý Đức tin, khi chu toàn trách nhiệm riêng của mình là phục vụ Huấn quyền phổ quát của Đức Giáo Hoàng[57]cũng đã phải can thiệp để nhắc nhở đến nguy cơ hàm chứa trong việc một vài nhà thần học giải phóng, chấp nhận một cách thiếu phê bình những luận đề và phương pháp phát xuất từ thuyết mắc xít[58].
Trong quá khứ, Huấn quyền đã nhiều lần và nhiều cách thi hành sự biện phân của mình trong lãnh vực triết học. Tất cả những điều, mà các vị Tiền nhiệm đáng kính của tôi để lại, là sự đóng góp quí giá không thể bỏ trong quên lãng.
55. Nếu chúng ta lưu ý đến hiện tình, chúng ta thấy những vấn đề dĩ vãng lại tái xuất, nhưng dưới những hình thức khác. Không còn nguyên những vấn đề liên hệ đến những cá nhân riêng lẻ hay đến những nhóm, nhưng là những xác tín phổ cập trong môi trường, đến độ một cách nào đó trở thành não trạng chung. Điều đó đúng, chẳng hạn sự khinh thị đối với lý trí bộc lộ trong những phát triển mới đây của nhiều nghiên cứu triết học. Về điểm này, ở nhiều phía, người ta đã nghe nói đến thời “tận số của siêu hình học”, người ta muốn rằng triết học phải an phận với những chức năng khiêm tốn hơn, nghĩa là với việc giải thích suông những sự kiện, nghiên cứu suông về một số lãnh vực của kiến thức nhân loại và về những cơ cấu của nó.
Trong chính thần học, những khuynh hướng dĩ vãng cũng muốn hồi phục. Chẳng hạn, trong một số thần học hiện kim, một hình thức của thuyết duy lý đang phát triển, nhất là khi những khẳng định được kể là chắc chắn về mặt triết học được coi như những qui tắc để nghiên cứu thần học. Điều đó trước hết xảy ra, khi nhà thần học, vì thiếu khả năng triết học, để mình do dự cách phi phê bình bởi những khẳng định từ nay đã trở nên thành phần của ngôn ngữ và của văn hoá thông dụng, nhưng thiếu nền tảng lý luận thoả đáng.[59]
Ta cũng thấy những co rút theo thuyết duy tín, vì không biết tầm quan trọng của nhận thức hữu lý và của lý luận triết học dể hiểu biết đức tin, hơn nữa để có thể tin vào Thiên Chúa. Một kiểu nói phổ biến ngày nay của khuynh hướng duy tín này là “duy kinh thánh”, muốn làm cho việc đọc Thánh kinh hay là chú giải Thánh kinh trở thành điểm qui chiếu chân thực duy nhất. Thành thử lời Thiên Chúa thì đồng nhất với một mình sách Thánh, và như vậy làm cho đạo lý của Giáo hội mà CĐC Vatican II đã củng cố một cách rõ ràng trở thành vô ích. Sau khi đã nhắc lại rằng, lời Thiên Chúa hiện hữu cả trong bản văn Thánh kinh lẫn Thánh truyền (DV số 9-10), Hiến chế Mặc khải khẳng định cách mạnh mẽ rằng : “Thánh truyền và Thánh kinh làm thành kho tàng duy nhất của lời Thiên Chúa, được ủy thác cho Giáo hội; khi gắn bó với Giáo hội, toàn thể dân thánh liên kết với các chủ chăn không ngừng trung thành với giáo huấn của các Tông đồ”(số 10). Nhưng đối với Giáo hội, Kinh thánh không phải là chỗ qui chiếu duy nhất. Quả thực, “qui tắc tối thượng của đức tin”(số 21) là do sự hiệp nhất mà Chúa Thánh Thần đã thực hiện giữa Thánh truyền, Thánh kinh và Huấn quyền của Giáo hội, trong một sự hỗ tương đến độ cả ba không thể tồn tại cách độc lập (số 10).
Ngoài ra, không nên coi thường nguy cơ cố hữu của ý muốn làm cho chân lý của Thánh kinh phát xuất từ việc áp dụng một phương pháp luận duy nhất, và quên luôn sự cần thiết của sự chú giải rộng rãi hơn, cho phép cùng với Giáo hội đạt tới ý nghĩa đầy đủ của bản văn. Nhũng ai dấn thân học hỏi Thánh kinh phải luôn luôn đinh ninh rằng, chính những phương pháp chú giải khác nhau, từ nền tảng đều có một quan niệm triết học: nên phải nghiên cứu nó một cách phê bình trước khi áp dụng vào những bản văn Thánh kinh.
Những hình thức duy tín ẩn tàng khác có thể nhận thấy ở thái độ rẻ rúng đối với suy tư thần học trừu tượng, cũng như sự coi khinh triết học kinh viện, nhờ nhũng ý niệm triết học mà sự hiểu biết đức tin và những công thức tín lý đã tìm ra những cụm từ. Đức thánh cha đáng nhớ Pio XII đã đề phòng chống với sự quên lãng truyền thống triết học ấy và chống với việc lãng quên những cụm từ truyền thống[60].
56. Tóm lại, người ta nhận thấy sự khinh thị thường tình đối với những khẳng định tống quát và tuyệt đối, nhất là nơi những người cho chân lý là thành quả của sự đồng thuận, chứ không phải sự phù hợp của trí khôn với thực tại khách quan. Ta dễ hiểu trong một thế giới có nhiều chuyên ngành đồng tồn, rất khó nhận ra ý nghĩa đầy đủ và tối hậu mà triết học đã tìm kiếm theo truyền thống. Tuy nhiên, theo ánh sáng của đức tin nhìn nhận ý nghĩa đầy đủ ấy nơi Chúa Giêsu Kitô, tôi không thể không khích lệ các triết gia, Kitô hữu hay không, hãy tín nhiệm vào khả năng của lý trí con người và đừng nhắm những mục đích quá khiêm tốn trong suy tư triết học của mình. Bài học của lịch sử ngàn năm mà chúng ta sắp kết thúc này, chứng thực đó là con đường phải theo; đừng để mất niềm say mê đối với chân lý tối hậu và sự hăng say tìm kiếm, phối hiệp với lòng cản đảm để khám phá những con đường mới. Chính đức tin kích thích lý trí thoát ra khỏi tình trạng cô lập, và tình nguyện đương đầu với những gian nguy để tìm kiếm tất cả những chi là chân, thiện, mỹ. Như vậy đức tin là trạng sư đầy xác tín và làm cho lý trí được xác tín.
Giáo hội lưu tâm đến triết học
57. Dù sao, Huấn quyền cũng không vạch ra những sai lầm và những lạc hướng của các học thuyết triết lý mà thôi. Với cũng một mối chăm chú, Giáo hội muốn khẳng định lại những nguyên lý nền tảng để thực sự canh tân tư tưởng triết học, bằng cách chỉ vẽ những con đường cụ thể phải theo. Theo đường lối này, qua thông điệp Aeterni Patris, Đức Leo XIII đã đi một bước có tầm mức lịch sử đích thực đối với sinh hoạt của Giáo hội. Cho đến ngày nay, bản văn này là văn kiện giáo hoàng duy nhất trong lãnh vực này được cúng hiến cho triết học. Đức Giáo hoàng vĩ đại này đã lấy lại và triển khai giáo huấn của CĐC Vatican I về những tương quan giữa đức tin và lý trí, bằng cách chứng minh rằng tư tưởng triết học là một đóng góp nền tảng cho đức tin và cho thần học[61]. Cách đây đã hơn một thế kỷ rồi mà nhiều yếu tố hàm chứa trong bản văn ấy không mất mảy may giá trị về phương diện thực hành cũng như giáo khoa; yếu tố hàng đầu liên quan đến trị khôn sánh của triết học thánh Thomas. Đức Leo XIII cho việc đề nghị lại tư tưởng của thánh Tiến sĩ thiên thần là con đường tốt nhất để biết sử dụng triết học cho phù hợp với những đòi hỏi của đức tin. Ngài viết: “Đang khi hoàn toàn phân biệt đức tin với lý trí tự nhiên, như điều đương nhiên, thánh Thomas cũng phối hiệp cả hai lại trong mối giây thân hữu giao hỗ; người đã duy trì cho cả hai những quyền lợi riêng và bảo vệ phẩm giá của cả hai[62].
58. Người ta thấy rằng lời kêu gọi đó của Đức Giáo hoàng đã mang lại nhiều thành quả phúc lợi. Việc học hỏi tư tưởng của thánh Thomas đã có một đà tiến mới. Những nghiên cứu lịch sử được cổ võ một cách mạnh mẽ với việc khám phá những phong phú của tư tưởng trung cổ, cho đến lúc đó chưa được biết tới, và việc thiết lập nhiều tân học hiệu Thomas. Với việc sử dụng phương pháp sử quan, việc nhận biết tác phẩm của thánh Thomas đã có những phát triển vĩ đại và rất nhiều nhà nghiên cứu đã du nhập một cách can đảm truyền thống Thomas vào trong những tranh luận về những vấn đề triết học và thần học của thời nay. Những nhà thần học công giáo có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ này, mà sự suy tư và nghiên cứu đã trợ lực nhiều cho CĐC Vatican II, là những đệ tử của việc canh tân triết học Thomas. Trong thế kỷ 20 Giáo Hội đã có thể vận dụng được một số lớn những nhà tư tưởng xuất sắc, được huấn luyện tại trường của thánh Tiến sĩ thiên thần.
59. Dù sao, thì sự canh tân học thuyết Thomas không phải là dấu chỉ duy nhất của việc phục hồi tư tưởng triết học trong văn hoá theo tinh thần Kitô giáo. Trước đó và song song với lời mời gọi của Đức Leo XIII, đã xuất hiện nhiều triết gia công giáo, những người theo những trào lưu tư tưởng mới hơn, đã biên soạn theo phương pháp riêng những tác phẩm triết học có ảnh hưởng lớn, và có giá trị bền vững. Một số đã quan niệm những tổng hợp có giá trị đến độ không có gì phải phân bì với những hệ thống lớn của duy tâm; những vị khác, đã đặt nền tảng nhận thức luận cho việc tiếp cận với đức tin theo ánh sáng của một sự hiểu biết dược canh tân của lương tâm luân lý; còn có những vị khác chủ trương dung hoà những yêu sách của đức tin trong phối cảnh của phương pháp hiện tượng luận. Kỳ thực, theo những quan điểm khác nhau, người ta đã tiếp tục thực hành những kiểu mẫu suy tư triết học, chủ trương gìn giữ cho thật sống động truyền thống vĩ đại của tư tưởng Kitô giáo trong sự hiệp nhất giữa đức tin và lý trí.
60. Về phần mình, CĐC Vatican II trình bày một giáo huấn rất súc tích và phong phú trong những vấn đề liên quan đến triết học. Tôi không thể quên, nhất là trong luồng tư tưởng của Thông điệp này, cả một chương riêng biệt của Hiến Chế Niềm vui và Hy vọng, đã cung cấp thuyết nhân chủng học Thánh kinh cô đọng, cũng là nguồn hứng khởi cho triết học. Những trang ấy bàn về giá trị của nhân vị được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa; những trang ấy chứng minh phẩm giá và sự trổi vượt của con người trên mọi thụ tạo được, và cho thấy khả năng siêu việt của trí tuệ (xc.số 14-15). Vấn đề vô thần cũng được đề cập tới trong Niềm vui và Hy vọng, và những sai lầm của cái nhìn triết lý này cũng được nghiên cứu kỹ lưỡng, nhất là đối với phẩm giá bất khả nhượng của nhân vị và sự tự do của con người (số 20-21). Câu nói tuyêt đích của những trang Hiến chế ấy quả đã mang một ý nghĩa triết lý sâu sắc; tôi đã lấy lại câu nói ấy trong Thông điệp thứ nhất của tôi về Đấng Cứu chuộc con người; nó là một trong những điểm qui chiếu liên lỉ trong giáo huấn của tôi: “Thực ra, mầu nhiệm của con nguời chỉ được soi sáng cách đích thực trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Quả thực, Adam, con người thứ nhất là hình ảnh con người sẽ đến, nghĩa là Đức Kitô. Adam mới, Đức Kitô, trong khi mặc khải Chúa Cha và tình yêu của Người, đã giãi bày đầy đủ con người cho con người và vén màn cho thấy ơn gọi cao cả của con người”(số 8).
CĐC cũng bận tâm đến việc dạy triết học, môn mà các ứng viên chức linh mục phải học; đây là những khuyến cáo có thể áp dụng cách tổng quát cho toàn thể việc giáo huấn kito giáo: “Phải dạy các bộ môn triết học thế nào, để trước hết có thể dìu dắt các chủng sinh thâu thập được một kiến thức chắc chắn và có hệ thống về con người, về thế giới và về Thiên Chúa; hãy lấy di sản triết học luôn luôn có giá trị làm điểm tựa, đồng thời hãy sử dụng những công trình nghiên cứu triết học hiện đại[63].
Những hướng dẫn ấy đã nhiều lần được tái khẳng định và được giãi bày trong những văn kiện khác của Huấn quyền, với mục đích bảo đảm một nền huấn luyện chắc chắn về triết học, nhất là cho những người chuẩn bị học thần học. Phần tôi, đã nhiều lần tôi nhấn mạnh đến việc đào tạo triết học cho những ai một ngày nào đó, trong đời sống mục vụ, phải đương đầu với những thực tại của thế giới hiện kim, và nắm bắt những lý do của một số thái độ để đối đáp cho dễ dàng[64].
61. Nếu, trong nhiều trường hợp cần phải can thiệp vào đề tài này, bằng cách tái khẳng định giá trị của những kiến thức của thánh Tiến sĩ thiên thần và nhấn mạnh đến việc hấp thụ tư tưởng của người, thì đó là vì những hướng dẫn của Huấn quyền không luôn luôn được tuân giữ một cách thoả đáng. Tại nhiều trường công giáo, trong những năm hậu CĐC Vatican II, ta có thể thấy một thứ tàn úa về điểm này, và đó là vì thiếu quí trọng chẳng những đối với triết học kinh viện, mà đối với triết học nói chung. Với nỗi ngạc nhiên và nuối tiếc, tôi nghiệm thấy một số nhà thần học cũng coi thường việc học triết lý.
Những lý do của sự chểnh mảng này thì khác nhau. Trước hết, phải kể đến việc phần lớn triết học ngày nay coi thường lý trí, bỏ bê việc nghiên cứu siêu hình về những vấn đề tối hậu của con người, để tập trung chú ý vào những vấn đề riêng lẻ và địa phương, đôi khi hoàn toàn hình thức. Đàng khác, phải thêm vào đó sự ngộ nhận lên quan riêng biệt đến những “khoa nhân văn”. CĐC Vatican II đã hơn một lần nhắc lại giá trị tích cực của việc nghiên cứu khoa học để hiểu biết sâu xa về mầu nhiệm con người[65]. Không nên giải thích lời mời gọi những nhà thần học tìm hiểu những khoa này, và khi gặp dịp thì áp dụng một cách đúng đắn vào những nghiên cứu của mình, như thể mặc nhiên cho phép loại bỏ triết học hay thay thế nó trong việc huấn luyện mục vụ và trong sự chuẩn bị đức tin. Ta cũng không thể quên hứng thú đã tìm lại được trong việc hội nhập văn hoá của đức tin. Cách riêng, đời sống của những Giáo hội trẻ đã giúp khám phá không những các hình thức khai mở của của tư tưởng, mà cả những kiểu nói khác nhau của minh triết bình dân. Điều đó kiến tạo nên gia sản đích thực của các văn hoá và những truyền thống. Tuy nhiên, sự học hỏi những phong tục truyền thống phải đi song song với nghiên cứu triết học. Triết học sẽ cho phép rút tỉa ra những nét tích cực của sự thông tuệ bình dân, như thế là kiến tạo những liên lạc cần thiết giữa văn hoá truyền thống và việc loan truyền Tin Mừng.[66]
62. Tôi muốn mạnh mẽ nhắc lại rằng việc học hỏi triết lý phải mang tích cách nền tảng, và ta không thể bỏ triết học trong qui trình học thần học và trong việc đào tạo những ứng viên chức linh mục. Việc xếp sắp một thời gian để học triết học trước khi học thần học không phải là tình cờ trong qui trình thần học. Việc lựa chọn ấy, đã được CĐC Laterano V châu phê[67], đã bén rễ trong kinh nghiệm chín chắn suốt thời Trung cổ, khi qui trình hài hoà giữa kiến thức triết học và thần học đuợc chứng minh rõ rệt. Dù chỉ gián tiếp, cách tổ chức học vấn như thế đã ảnh hưởng, đã dễ dàng hoá và đã khích lệ phần lớn những phát triển của triết học hiện kim. Gương mẫu điển hình là ảnh hưởng của những Tranh luận siêu hình của F. Suarez, những tranh luận đã được trọng dụng cả trong những đại học Luthero bên Đức. Trái lại, sự vắng bóng phương pháp ấy là căn nguyên của những thiếu sót trầm trọng trong việc đào tạo linh mục cũng như trong việc nghiên cứu thần học. Chỉ cần nghĩ đến, chẳng hạn, sự thiếu chú ý đối với việc phản tỉnh và đối với văn hoá hiện đại, đã đưa đến việc từ khước mọi đối thoại, hay chấp nhận một cách không phân biệt mọi triết học.
Tôi hy vọng mãnh liệt rằng những trở ngại ấy sẽ được vượt qua do việc đào tạo triết học và thần học một cách sáng suốt, là điều không bao giờ có thể vắng bóng trong Giáo hội.
63. Vì những lý do đã viện dẫn, tôi thấy phải khẩn thiết nhắc nhở, trong Thông điệp này, mối quan tâm mà Giáo hội dành cho triết học; hơn nữa mối giây thâm thúy liên kết hoạt động thần học với sự nghiên cứu triết học. Vì thế Huấn quyền có bổn phận phải chỉ định và khích lệ một lối suy tư triết học không tương phản với đức tin. Tôi có trách nhiệm phải đề nghị một số nguyên lý và một số điểm qui chiếu, mà tôi cho là cần thiết để có thể tái lập tương quan hài hoà và hữu hiệu giữa thần học và triết học. Theo ánh sáng của những nguyên lý ấy, sẽ có thể xác định rõ rệt những liên hệ mà thần học phải duy trì với những hệ thống hay những chủ thuyết triết học, được trình bày trong thế giới hiện nay, là những liên hệ nào.

Chương VI
Sự tương tác giữa
thần học và triết học
Kiến thức đức tin và những
yêu sách của lý trí triết học
64. Lời Thiên Chúa ngỏ cùng mọi người trong mọi thời trên khắp thế giới; và con người tự nhiên là một triết gia. Về phần mình, thần học xét như sự khởi thảo phản tỉnh và khoa học về lời Chúa qua ánh sáng đức tin, ohải bắt liên lạc với những triết học được thực sự khởi thảo qua dòng lịch sử, đối với một số những phát triển và phận vụ riêng, chứ không được thụ thụ bất thân. Tôi không chủ ý bày tỏ cho các thần học gia những phương pháp đặc thù, điều đó không thuộc Huấn quyền, mà chỉ muốn nhắc nhở một vài trách vụ riêng của thần học, trong đó chính bản tính của Lời mặc khải đòi phải nhờ đến tư tưởng triết học.
65. Thần học được tổ chức như khoa học đức tin, theo ánh sáng của hai nguyên tắc phương pháp luận : lắng nghe đức tinhiểu biết đức tin : [auditus fidei et intel-lectus fidei]. Theo nguyên tắc thứ nhất, thần học chiếm hữu nội dung của Mặc khải như được phát triển dần dần trong Thánh truyền, trong Thánh Kinh và trong Huấn quyền sống động của Giáo hội[68]. Nhờ nguyên tắc thứ hai, thần học muốn trả lời cho những đòi hỏi riêng biệt của tư tưởng, bằng cách nại đến suy tư trừu tượng.
Về việc chuẩn bị để lắng nghe đức tin cho đúng đắn, triết học mang lại sự trợ giúp độc đáo cho thần học, khi nó nghiên cứu cấu trúc của nhận thức và của sự liên lạc giữa các ngôi vị, và đặc biệt là những hình thức và những chức năng khác nhau của ngôn ngữ. Sự đóng góp của triết học thật quan trọng để thấu hiểu một cách mạch lạc Thánh truyền của Giáo hội, những phán quyết của Huấn quyền và những ý kiến của những danh sư thần học: quả thực những yếu tố khác nhau thường được biểu thị bằng những quan niệm và dưới những hình thức mượn của truyền thống triết học nhất định. Trong trường hợp này nhà thần học chẳng những phải trình bày những quan niệm và những hạn từ mà Giáo hội dùng khi suy nghĩ và khởi thảo giáo huấn của mình, nhưng, để giải thích cho đúng đắn và mạch lạc, còn phải hiểu biết sâu xa những hệ thống triết học đã ngẫu nhiên ảnh hưởng đến những ý niệm và đến thuật ngữ.
66. Đối với việc hiểu biết đức tin, trước hết phải suy rằng chân lý của Thiên Chúa, “được trình bày cho chúng ta trong Thánh Kinh, được hiểu một cách lành mạnh theo giáo huấn của Giáo hội”[69], thì thừa hưởng sự minh bạch cố hữu, với sự mạch lạc luận lý, xứng với kiến thức chân chính mà nó tự giới thiệu. Sự hiểu biết đức tin minh giải chân lý ấy, không những bằng cách nhận ra những cấu trúc luận lý và trừu tượng của những mệnh đề, mà Giáo hội dùng để chung đúc giáo huấn của mình, nhưng còn, và nhất là còn làm nổi bật ý nghĩa cứu độ mà những mệnh đề ấy hàm chứa đối với các cá nhân và nhân loại. Căn cứ trên toàn bộ những mệnh đề ấy, người tín hữu hiểu biết lịch sử cứu độ, một lịch sử đạt tới điểm cao nhất nơi bản thân Chúa Giêsu và trong mầu nhiệm vượt qua của Người. Người tín hữu tham dự vào mầu nhiệm này bằng sự thuận theo đức tin.
Về phần mình, thần học tín lý phải có khả năng phối hợp ý nghĩa phổ quát của mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi, và của nhiệm cục cứu độ, hoặc theo lối trình thuật, hoặc trước hết bằng dạng thức biện luận. Thần học phải thực hiện công việc đó qua những triển khai tư tưởng trừu tượng, phổ cập, được trình bày một cách phê bình. Quả thực, không có sự trợ giúp của triết học, người ta không thể thuyết minh những đề mục thần học, chẳng hạn như ngôn ngữ về Thiên Chúa, những tương quan ngôi định giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, công trình tạo thành của Thiên Chúa trong thế giới, tương quan giữa Thiên Chúa và con người, căn tính của Chúa Kitô, là Thiên Chúa thật và là người thật. Những suy tư ấy cũng có giá trị đối với những đề mục về thần học luân lý, ở đây phải trực tiếp nhờ đến những quan niệm như luật luân lý, lương tâm, sự tự do, trách nhiệm cá nhân, tội lỗi v.v..., những quan niệm được định nghĩa trong lãnh vực triết lý luân lý.
Vậy điều cần thiết là trí tuệ của người tín hữu phải có một nhận thức tự nhiên, đúng đắn và mạch lạc về những vật thụ tạo, về thế giới và về con người, những điều cũng là đối tượng của đức tin; hơn nữa lý trí phải có khả năng phối kết nhận thức này theo lối quan niệm và theo hình thức biện luận. Thành thử, thần học tín lý trừu tượng giả định và ngầm hiểu một nền triết học về con người, về thế giới và, một cách căn để hơn, về hữu thể, xây dựng trên chân lý khách quan.
67. Với tính cách riêng biệt của một môn học có nhiệm vụ phải viện lý cho đức tin (xc. 1 Pr 3,15), thần học nền tảng phải nỗ lực duyệt chính và minh nhiên hoá tương quan giữa giữa đức tin và suy tư triết học. Khi lấy lại giáo huấn của thánh Phaolô (xc. Rm 1,19-20), CĐC Vatican I đã lưu ý chúng ta đến sự kiện là có những chân lý tự nhiên, và như vậy có thể được triết học nhận biết. Việc nhận biết những chân lý ấy là một giả định cần thiết để tiếp nhận mặc khải của Thiên Chúa. Khi nghiên cứu Mặc khải và tính cách khả tín của nó làm một với hành vi tin tưởng tương ứng, thần học nền tảng phải chứng minh xem một số chân lý, mà lý trí nhận biết trong diễn tiến nghiên cứu tự lập của mình, đã xuất hiện thế nào trong ánh sáng của nhận thức đức tin. Mặc khải cung cấp cho những chân lý ấy ý nghĩa đầy đủ bằng cách hướng chúng về sự giầu có của mầu nhiệm được mặc khải, trong đó chúng tìm thấy cứu cánh. Chẳng hạn chỉ cần nghĩ đến sự nhận thức Thiên Chúa cách tự nhiên, đến khả năng phân biệt mặc khải của Thiên Chúa với những hiện tượng khác, hay đến sự nhìn nhận tính cách khả tín của nó, đến sự thích hợp của ngôn ngữ nhân loại để giãi bày, một cách có ý nghĩa và chân thực, những điều vượt quá kinh nghiệm của con người. Qua những chân lý ấy, trí khôn được dẫn dắt để nhận ra sự hiện hữu của một con đường thực sự dự bị cho đức tin, có thể khai thông cho việc đón nhận Mặc khải, mà không đối nghịch gì với những nguyên tắc và sự độc lập riêng của nó[70].
Cũng một cách, thần học nền tảng phải chứng minh[71] sự tương hợp sâu sắc giữa đức tin và yêu sách thiết yếu của nó về sự giải thích bằng lý trí, để lý trí thuận theo một cách tự do đầy đủ. Như vậy đức tin sẽ biết “chỉ lối đầy đủ cho một lý trí thành thực nghiên cứu chân lý. Như thế, đức tin, hồng ân của Thiên Chúa, dù không đặt nền tảng trên lý trí, nhưng hẳn không thể phớt lờ lý trí. Đồng thời cũng thấy lý trí cần được đức tin củng cố, để khám phá những phạm vi mà nó không thể tự mình đạt tới”
68. Thần học luân lý có lẽ còn cần sự đóng góp lớn lao hơn của triết học. Thực vậy, trong Tân Ước, đời sống nhân linh ít được qui chiếu theo những qui tắc hơn là trong Cựu Ước nhiều. Đời sống trong Thánh Linh hướng dẫn những tín hữu theo một sự tự do và một trách nhiệm đi xa hơn chính Luật. Nhưng Tin mừng và các văn kiện của các Tông đồ trình bày hoặc những nguyên lý tổng quát của đời sống Kitô hữu, hoặc những giáo huấn và những giới răn thích đáng. Để áp dụng những điều đó vào những trường hợp đặc thù của đời sống cá nhân hay xã hội, người Kitô hữu phải vận dụng sâu sắc lương tâm hay khả năng suy luận của mình. Nói cách khác, điều đó nghĩa là thần học luân lý phải nại đến một quan niệm triết học đúng đắn về bản tính nhân loại và về xã hội, cũng như về những nguyên lý tổng quát của một sự quyết định luân lý.
69. Hẳn người ta có thể vấn nạn rằng, trong hoàn cảnh hiện nay, nhà thần học phải nhờ đến những dạng thức hiểu biết khác hơn là đến triết học, chẳng hạn lịch sử và nhất là những khoa học, mà những phát triển mới mẻ và khác thường được mọi người thán phục. Những người khác, vì càng ngày càng nhạy cảm về mối liên hệ giữa đức tin và văn hoá, chủ trương rằng thần học phải hướng về những hiền triết truyền thống hơn là về triết học gốc Hy lạp và Âu châu. Lại có những người, vì quan niệm sai nhầm về thứ đa nguyên văn hoá, đã đi đến chỗ chối giá trị phổ quát của gia sản triết lý đã được Giáo hội tiếp nhận.
Những yếu tố vừa liệt kê, đã được trình bày ở văn kiện khác trong giáo huấn của Công Đồng Chung[72], có phần đúng. Việc qui chiếu với khoa học, dù hữu ích trong nhiều hoàn cảnh, vì cung cấp cho ta một nhận thức đầy đủ hơn về đối tượng nghiên cứu, nhưng không được làm cho chúng ta quên sự trung gian cần thiết của suy tư đặc sắc triết học và phê bình, với cái nhìn tổng quát. Đàng khác, sự trung gian cũng là điều mà sự trao đổi phong nhiêu giữa các nền văn hoá đòi hỏi. Tôi phải nhấn mạnh đến cái bổn phận, không được dừng lại ở những khía cạnh riêng lẻ và cụ thể mà quên đi trách nhiệm tiên quyết, thứ trách nhiệm hệ tại giãi bày tính cách phổ quát của nội dung đức tin.Vả lại, người ta không được quên rằng, sự đóng góp đặc thù của tư tưởng triết học cho phép phân biệt, trong các quan niệm khác nhau về đời sống cũng như trong những văn hoá, “không phải những gì người đời nghĩ tưởng, mà đâu là chân lý khách quan”[73]. Duy chỉ có chân lý, chứ không phải những ý kiến nhân loại, với tính cách khác nhau của chúng, có thể hữu ích cho thần học.
70. Vì những hệ lụy về mặt triết học và thần học phát xuất bởi những nền văn hoá, nên đề mục về tương quan với các nền văn hoá cũng đáng được suy cứu riêng biệt, dù không nhất thiết phải suy cứu triệt để. Ngay từ hồi đầu khi Tin Mừng được loan báo, quá trình gặp gỡ và trao đổi với các nền văn hoá đã là kinh nghiệm sống của Giáo Hội. Mệnh lệnh của Chúa Kitô truyền cho các môn đệ phải đi khắp mọi nơi, “đến mút cùng trái đất” (Cv 1,8), để loan báo chân lý do Người mặc khải, đã làm cho cộng đồng Kitô hữu mau lẹ chứng nghiệm tính phổ quát của việc loan báo Tin Mừng, và những trở ngại phát xuất từ sự khác biệt của các nền văn hoá. Đoạn thư của thánh Phaolô gửi cho tín hữu thành Epheso đã soi sáng một cách phúc lợi để hiểu biết xem cộng đoàn tiên khởi đã đương đầu với vần đề này như thế nào.
Thánh Tông đồ viết: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần. Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (2,13-14).
Nhờ ánh sáng của đoạn thư ấy, suy tư của chúng ta được rộng mở theo sự cải biến xảy ra nơi những Lương dân, khi họ đón nhận đức tin. Đứng trước sự phú túc của ơn cứu độ do Chúa Kitô thực hiện, những hàng rào phân cách các nền văn hoá đã sụp đổ. Hiện nay lời hứa của Thiên Chúa trong Đức Kitô đã trở thành một hồng ân phổ quát: lời hứa đó không còn bị giới hạn trong cái riêng rẽ của một dân tộc, của ngôn ngữ và của những phong tục của dân tộc ấy nữa, nhưng đã được mở rộng cho mọi người, như một gia sản mà ai nấy đều có thể tự do trích dụng. Mọi người, từ khắp nơi và từ mọi truyền thống khác nhau, đều được mời gọi trong Đức Kitô để hiệp nhất trong gia đình con cái Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu làm cho hai dân tộc thành “một”. Những người xưa kia “ở xa” đã trở nên những người “ở gần”, nhờ một sự mới mẻ được hoàn thành bởi mầu nhiệm vượt qua. Chúa Giêsu đã triệt hạ những bức tường phân cách và thực hiện sự thống nhất một cách độc đáo và tuyệt đỉnh, bằng việc cho chúng ta tham dự vào mầu nhiệm của Người. Sự thống nhất này sâu xa đến độ Giáo hội có thể cùng với thánh Phaolô nói rằng : “Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các thánh, và là người nhà của Thiên Chúa” (Ep 2,19).
Bằng việc ghi chép đơn sơ như thế, một chân lý vĩ đại được diễn tả : đó là sự gặp gỡ của đức tin với những nền văn hoá khác nhau đã thực sự làm phát sinh ra một thực tại mới. Khi những nền văn hoá bén rễ sâu trong nhân tính, thì chúng mang nơi mình tang chứng của sự khai mở đặc biệt của con người tìm đến phổ quát và siêu việt. Tuy nhiên, chúng cũng trình bày những bước xích gần khác nhau đến chân lý, những xích gần hiển nhiên là hữu ích thực sự cho con người, vì cung cấp cho con người những giá trị khả dĩ làm cho cuộc sống càng ngày càng trở nên nhân đạo hơn[74]. Vì trong thực tế các nền văn hoá qui chiếu với những truyền thống cố cựu, nên vốn chúng - cố nhiên là một cách ám thị, nhưng không phải không thực hữu - được liên kết với sự giãi bày Thiên Chúa trong thiên nhiên, như ta đã thấy ở trên khi bàn về những sách giáo huấn và về giáo huấn của thánh Phaolô.
71. Vì có tương quan mật thiết với con người và với lịch sử của con người, các nền văn hoá cũng chia sẻ chính những sinh động, qua đó niên đại của nhân loại được biểu lộ. Vì thế người ta ghi nhận những biến đổi và những tiến bộ thành tựu do những gặp gỡ mà con người phát triển, và những trao đổi mà con người thực hiện với nhau trong cách sinh sống. Các nền văn hoá được bồi dưỡng bởi sự trao đổi các giá trị; nhờ khả năng đón nhận tính mới mẻ mà chúng có sức sống và được tồn tại. Phải giải thích những sinh động này như thế nào? Sống giữa một nền văn hoá thì mọi người đều lệ thuộc vào nó và ảnh hưởng đến nó. Con người vừa là con vừa là cha của nền văn hoá trong đó con người lăn lộn. Trong mỗi một biểu hiện của cuộc đời, con người mang nơi mình yếu tố đặc trưng của mình giữa muôn vật: ấy là sự cởi mở liên lỉ của con người đón nhận mầu nhiệm và niềm khát vọng muốn biết khôn nguôi. Do đó, nền văn hoá nào cũng mang nơi mình dấu ấn của khuynh hướng vươn tới chỗ hoàn chỉnh, và để lộ ra khuynh hướng ấy. Ta có thể nói rằng văn hoá có nơi mình khả năng đón nhận mặc khải của Thiên Chúa.
Vậy cách thức mà những Kitô hữu sống niềm tin của mình cũng được thấm nhuần bởi nền văn hoá của môi trường xung quanh và, về phần mình, cũng góp phần vào việc un đúc dần dần những đặc tính của văn hoá ấy. Những Kitô hữu mang lại cho mỗi nền văn hoá chân lý bất di dịch của Thiên Chúa, được chinh Người mặc khải trong lịch sử và trong nền văn hoá của một dân tộc. Qua các thế kỷ, biến cố, mà những người hành hương có mặt ở Giêrusalem vào lễ Ngũ tuần đã chứng kiến, vẫn tiếp tục tái diễn. Khi nghe các Tông đồ họ tự hỏi : “Những người đang nói đó không phải là người Galilê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng ta đây có người là dân Parthes, Media, Elam, Mesopotamia, Giuđea, Capadocia, Ponto và Asia, có người là dân Phrygia, Pamphylia, Ai cập, và những vùng Lybia giáp giới Kyrene; nào là những người từ Rôma đến đây; nào là người Do thái cũng như người đạo theo; nào là người Creta hay người Arập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa !” (Cv. 2, 7-11). Đang khi mời gọi những thính giả đón nhận đức tin, thì sự loan báo Tin mừng trong các nền văn hoá khác nhau không ngăn cản những tín hữu duy trì một căn tính văn hoá riêng. Như thế không tạo thành một chia rẽ nào, vì dân đã lãnh nhiệm tích thánh tẩy được phân biệt bằng một thứ phổ quát, biết đón nhận mọi văn hoá, và cổ võ những điều, hàm chứa trong mỗi nền văn hoá, mặc nhiên dẫn đến sự giải thích đầy đủ trong chân lý.
Thành thử, một nền văn hoá không bao giờ trở thành tiêu chuẩn của phán doán và càng không thể trở thành tiêu chuẩn tối hậu của chân lý, trong những điều liên quan đến mặc khải của Thiên Chúa. Tin mừng không chống đối với văn hoá này hay văn hoá nọ, như thể việc tiếp cận với văn hoá ấy là tìm cách làm cho nó mất những điều độc đáo của nó, và đón nhận những hình thức ngoại lai không phù hợp với nó. Trái lại, lời loan báo mà, người tín hữu mang đến thế gian và đến những nền văn hoá, là hình thức thiết thực của sự giải phóng khỏi những xáo trộn mà tội lỗi đã du nhập, đồng thời là một lời mời gọi đi đến chân lý toàn diện. Trong sự gặp gỡ này các nền văn hoá chẳng những không mất mát chi hết, lại còn được khích lệ để cởi mở đón nhận cái mới mẻ của chân lý của Tin mừng, và nhờ đó mà hồ hởi phát triển thêm.
72. Sự kiện Tin mừng, trên con đường sứ vụ của mình, đã ưu tiên tiếp cận với triết lý Hy lạp, tuyệt nhiên không phải là dấu tẩy chay các cuộc tiếp cận khác. Ngày nay, cùng với đà tiếp cận với các môi trường văn hoá cho đến nay ở ngoài tầm quang toả của Kitô giáo, có những nỗ lực mới để hội nhập văn hoá. Có những vấn đề đặt ra cho thế hệ chúng ta, tương tự như những vấn đề Giáo hội phải đối phó trong những thế kỷ đầu.
Tư tưởng của tôi như tự phát hướng về những miền đất Đông phương, thật phong phú về những truyền thống tôn giáo và triết lý rất cố cựu. Trong những miền đất ấy, An độ chiếm một vị trí riêng biệt. Một trào lưu linh thiêng vĩ đại đưa tư tưởng Ấn độ đi tìm một kinh nghiệm có thể có giá trị tuyệt đối, vì giải thoát trí tuệ khỏi những điều kiện của thời gian và không gian. có dính dấp. Tính năng động trong việc tìm giải thoát này cung cấp khung cảnh cho nhiều học thuyết siêu hình vĩ đại.
Những Kitô hữu ngày nay, trước hết là những Kitô hữu ở Ấn độ, có nhiệm vụ phải rút tỉa từ gia sản giầu có ấy những yếu tố khả dung với đức tin của họ, để nhờ tư tưởng Kitô giáo gia sản ấy trở thành phong phú. Để thực hiện việc biện phân, mà Tuyên Ngôn của Công Đồng về “Thời đại chúng ta” đã gợi ý, các tín hữu phải lưu ý đến một số tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn thứ nhất là tính phổ quát của trí tuệ con người, mà những đòi hỏi cơ bản vẫn giống nhau trong những nền văn hoá rất khác nhau. Tiêu chuẩn thứ hai, phái sinh từ tiêu chuẩn thứ nhất, hệ tại điều này là : khi Giáo hội tiếp cận với những nền văn hoá lớn mà trước đây Giáo hội chưa gặp, Giáo hội không lãng bỏ những gì mà Giáo hội đã chinh phục được, do sự hội nhập văn hoá trong tư tưởng La-Hy. Phủ nhận di sản ấy là đi ngược với kế hoạch an bài của Thiên Chúa, là Đấng đã hướng dẫn Giáo hội qua những lộ trình của thời gian và lịch sử. Đàng khác, tiêu chuẩn này có giá trị đối với Giáo hội trong mọi thời đại, và sẽ như thế đối với Giáo hội của ngay mai, Giáo hội sẽ cảm thấy được phong phú bởi những thâu lượm, được thể hiện do sự tiếp cận hiện nay với những nền văn hoá đông phương, và sẽ tìm thấy trong di sản này những yếu tố mới, để đối thoại một cách có kết quả với những nền văn hoá, mà nhân loại sẽ làm triển nở trên con đường đi tới tương lai. Tiêu chuẩn thứ ba là phải đề phòng đừng lẫn lộn việc chính đáng tranh thủ tính chuyên biệt và độc đáo của tư tưởng Ấn độ với ý niệm cho rằng, truyền thống văn hoá phải khép kín với tính chất khác biệt, và phải được củng cố bằng sự đối chọi với các truyền thống khác, điều đó sẽ tương phản với chính bản tính của trí tuệ con người.
Điều đã nói ở đây về Ấn độ cũng có giá trị đối với di sản của những nền văn hoá lớn khác, như của Trung quốc, của Nhật bản và của những nước khác ở Á châu, cũng như đối với những phong phú của các nền văn hoá truyền thống ở Phi châu, hầu hết được khẩu truyền.
73. Theo ánh sáng của những suy tư này, tương quan phải thiết lập cách thích đáng giữa thần học và triết học sẽ được đặt dưới biểu hiệu vòng tròn. Đối với thần học, khởi điểm và nguồn gốc nguyên lai phải luôn luôn là lời Thiên Chúa, được mặc khải trong lịch sử, đang khi chuẩn đích sau cùng chỉ có thể là sự thấu hiểu lời Thiên Chúa, được đào sâu liên lỉ qua các thế hệ. Đàng khác, vì lời Thiên Chúa là Chân lý (Xc. Ga 17, 17), để thấu hiểu lời ấy, ta không thể không nhờ đến việc tìm kiếm chân lý cách nhân bản, nghĩa là bằng cách tư duy triết học, được phát triển trong sự tôn trọng các định luật riêng biệt của nó. Điều đó không có nghĩa đơn thuần là sử dụng, trong suy luận thần học, ý niệm này hay ý niệm khác, hoặc phần nào đó trong cấu trúc triết học; điều cốt yếu là lý trí của người tín hữu phải vận dụng những khả năng suy tư vào việc nghiên cứu chân lý trong nội tại của một tiến trình, khởi diễn từ lời của Thiên Chúa, và nỗ lực đạt tới sự hiểu biết lời ấy cho hoàn hảo hơn. Đàng khác, hiển nhiên là, khi giao dịch giữa hai điểm này - là lời của Thiên Chúa và sự hiểu biết lời ấy - trí khôn như được giác ngộ, và một cách nào đó được hướng dẫn, để tránh những con đường làm cho nó đi trệch ra ngoài Chân lý mặc khải, và rút cuộc, ra ngoài chân lý tinh khiết và đơn thuần; nó cũng được mời gọi để khám phá ra những con đường, mà một mình nó cũng chẳng tưởng là có thể vượt qua. Do tương quan vòng vo với lời Thiên Chúa đó, triết học trở thành phong nhiêu, vì lý trí khám phá ra những phạm vi mới mà nó không ngờ là có.
74. Tang chứng tỏ rõ sự phong nhiêu ấy là lịch sử cá nhân của những nhà thần học tên tuổi, cũng là những triết gia vĩ đại, vì các vị đã để lại những tác phẩm có giá trị cao về tư duy, đến độ thiên hạ có đủ lý do để liệt các ngài ngang hàng với những nhà hiền triết học cổ thời. Điều đó đúng với các Giáo phụ, và trong số này ít là phải kể đến thánh Gregorio thành Naziance và thánh Augus-tino, cũng như những Tiến sĩ thời Trung cổ, trong số đó nổi bật là bộ ba vĩ đại gồm thánh Anselmo, thánh Bonaventura và thánh Thomas Aquino. Tương quan phong nhiêu giữa triết học và lời Thiên Chúa cũng được giãi bày trong việc nghiên cứu can đảm, được thực hiện bởi những tư tưởng gia đương đại, trong số đó tôi muốn nhắc đến những vĩ nhân bên trời Âu, như Gioan Henry Newman, Anton Rosmini, Jacques Maritain, Etienne Gilson, Edith Stein, và bên Đông, những nhà tư tưởng có tầm cỡ như Vladimir S. Soloviev, Pavel A. Florenski, Petr. J. Caadaev, Vladimir N. Lossky. Cố nhiên, khi đưa ra danh tánh của các tác giả này, và có thể nhắc đến nhiều tác giả khác, tôi không có ý bảo đảm cho tư tưởng của họ về mọi khía cạnh cạnh, nhưng chỉ có ý đưa ra những gương mẫu có ý nghĩa của một đuờng lối nghiên cứu triết học, đã mang lại lợi ích lớn bởi sự đối chiếu triết lý với những dữ kiện của đức tin. Một điều chắc chắn là : sự chú ý đến lộ trình tinh thần của những bậc thầy ấy chỉ có thể cổ võ sự tiến triển trong việc khám phá chân lý, và trong việc phục vụ con người, bằng những thành quả đã đạt được. Phải hy vọng rằng truyền thống vĩ đại triết-thần ngày nay và sau này sẽ gặp những nhân vật kế thừa, và vun trồng truyền thống ấy, hầu mưu ích cho Giáo hội và cho nhân loại.
Những tình trạng khác nhau của triết học
75. Theo lịch sử của những tương quan giữa đức tin và triết học, như được nhắc lại cách vắn gọn trên đây, ta có thể phân biệt những tình trạng khác nhau của triết học trong tương quan với đức tin Kitô hữu. Thứ nhất là tình trạng của triết học hoàn toàn độc lập với Mặc khải của Tin mừng : là trạng thái của triết học theo sử quan được cụ thể hoá trong những thời kỳ trước Chúa Cứu thế giáng sinh, và do đó, trong những miền chưa được Tin mừng cảm hoá. Trong tình trạng này, triết học giãi bày một ước vọng chính đáng là cách tư duy tự lập, nghĩa là diễn tiến theo những định luật riêng, và chỉ nhờ đến nghị lực của lý trí mà thôi. Khi lưu ý đến những giới hạn nghiêm trọng, do sự yếu đuối cố hữu của lý trí con người, mà củng cố và tăng cường khát vọng đó là chuyện thích hợp. Quả thực, sự vận dụng triết học, là việc nghiên cứu chân lý cách tự nhiên, cũng mặc nhiên cởi mở để đón nhận siêu nhiêu.
Hơn nữa, ngay cả khi chính suy luận thần học sử dụng những quan niệm và những lý chứng của triết học, thì sự tụ do của tư tưởng vẫn phải được tôn trọng. Quả thực, sự viện chứng được khai triển theo những tiêu chuẩn hữu lý nghiêm minh là một bảo đảm để đạt tới những thành quả có giá trị phổ quát. Ở đây thể hiện nguyên lý cho rằng, ân sủng không thủ tiêu nhưng kiện toàn tính tự nhiên : sự thuận theo đức tin, cam kết lý trí và ý muốn, không thủ tiêu nhưng kiện toàn sự tự do tự quyết của mọi tín hữu, đón nhận dữ kiện mặc khải.
Triết thuyết mệnh danh là “tách biệt” [separée] mà một số triết gia đương đại chủ trương, hiển nhiên là lìa xa cái đòi hỏi đúng đắn đó. Ngoài việc khẳng định một quyền tự quyết đích đáng trong cách tư duy triết học, chủ thuyết ấy còn tranh thủ một thứ tự túc của tư tưởng, điều đó hiển nhiên là chuyện bất chính : quả thực, từ chối những trợ giúp của chân lý, phát xuất từ mặc khải của Thiên Chúa, có nghĩa là tự cấm cản không đi tới một nhận thức sâu sắc hơn về chân lý, và làm thiệt hại cho chính triết học nữa.
76. Tình trạng thứ hai của triết học là tình trạng mà nhiều người đặt tên là triết học kitô giáo. Danh xưng này nguyên nó là chính đáng, nhưng không nên hiểu cách mập mờ : ta không nên hiểu đó là triết học chính thức của Giáo hội, vì đức tin nguyên nó không phải là một triết học. Đúng ra, với danh xưng ấy người ta có ý ám chỉ lối tư duy triết học Kitô hữu, một suy tư triết học được quan niệm trong sự liên kết mật thiết với đức tin. Điều đó không liên hệ cách đơn thuần đến một nền triết học, được xây dựng bởi những triết gia Kitô hữu, những người khi nghiên cứu không muốn chống đối đức tin. Khi nói về triết học Kitô người ta có ý bao gồm những phát triển quan trọng của tư tưởng triết học đã thành tựu với phần đóng góp, trực tiếp hay gián tiếp, của đức tin Kitô giáo. Thành thử có hai khía cạnh của triết học Kitô: một là khía cạnh chủ vị, hệ tại sự lý trí được đức tin thanh luyện. Theo tư cách là nhân đức thần hướng, đức tin giải thoát lý trí khỏi tính kiêu căng, loại cám dỗ mà các triết gia dễ mắc phải. Xưa kia thánh Phaolô và các Giáo phụ, và gần chúng ta hơn, những triết gia như Pascal, và Kierkegaard, đã lên án nết xấu đó. Vì khiêm nhường, triết gia đã can đảm đương đầu với một số vấn đề, mà họ khó lòng giải quyết nếu không suy cứu những dự kiện được đón nhận từ Mặc khải. Chẳng hạn những vấn đề về điều ác và về sự đau khổ, hay trực tiếp hơn, về vần đề siêu hình cơ bản: “Tại sao có vật này vật nọ?”
Rồi có khía cạnh khách thể, liên quan đến nội dung : Mặc khải trình bày rõ ràng một vài chân lý, dù không phải là những chân lý bất khả tri đối với lý trí tự nhiên, nhưng lý trí loay hoay một mình thì không bao giờ khám phá ra. Trong phối cảnh ấy, có những đề tài như đề tài về sự thực hữu của Thiên Chúa ngôi vị, tự do và tạo thành, là đề tài rất hệ trọng đối với việc phát triển tư tưởng triết học, cách riêng cho triết học về hữu thể. Nằm trong lãnh vực này còn có thực tại của tội lỗi, như nó bộc lộ dưới ánh sáng đức tin, giúp ta đặt vấn đề về điều ác một cách đầy đủ theo phương diện triết học. Nguyên lai của quan niệm ngôi vị như một hữu thể thiêng liêng cũng đặc biệt do đức tin : việc Kitô giáo loan báo phẩm giá, sự bình đẳng và sự tự do của mọi người, chắc chắn đã ảnh hưởng đến suy tư triết học mà những người đương đại thực hiện. Gần chúng ta hơn, người ta có thể nhắc đến sự khám phá ra tầm quan trọng, mà sự Mặc khải Kitô giáo, như biến cố lịch sử trung tâm, cũng mang đến cho triết học. Không phải do ngẫu nhiên mà biến cố ấy trở thành trọng tâm của triết lý lịch sử, và xuất hiện như một chương mới trong công cuộc nhân loại khám phá chân lý.
Trong những yếu tố khác quan của triết học Kitô giáo có nhu cầu phải khám phá tính hợp lý của một số chân lý, được giãi bày trong Thánh Kinh, như sự khả dĩ của ơn kêu gọi con người lên bậc siêu nhiên, và của chính tội tổ truyền. Đó là những phận vụ thúc bách lý trí phải nhìn nhận là có những điều chân thật và hữu lý vượt trên những giới hạn nghiêm nhặt, trong đó lý trí có thể liều mình giam hãm cính mình. Những đề tài ấy trong thực tế đã mở rộng lãnh vực của điều hữu lý.
Trong suy tư về những yếu tố ấy, các triết gia không trở thành những nhà thần học, theo mức độ mà họ không tìm cách khởi đi từ Mặc khải để thấu hiểu và thuyết minh những chân lý đức tin. Họ đã tiếp tục hoạt động trong lãnh địa riêng, với phương pháp thuần lý riêng, nhưng bằng cách mở rộng những khám phá của mình đến những lãnh vực mới của điều thật. Ta có thể nói rằng, không có ảnh hưởng khích lệ của lời Thiên Chúa, ắt cả một phần tinh hoa của triết học cận đại và đương đại sẽ vắng bóng. Sự kiện đó vẫn giữ được tất cả cái chính xác của nó, ngay cả khi đứng trước cái cảm nghiệm gây thất vọng. là một số nhà tư tưởng của những thế kỷ vừa qua đã bỏ tính cách chính thống Kitô giáo.
77. Chúng tôi cũng nhận thấy một trạng huống khác có ý nghĩa của triết học, khi chính thần học nại đến triết học. Trong thực tế, thần học luôn luôn và tiếp tục cần đến sự trợ giúp của triết học. Vì là một công trình của lý trí phê bình dưới ánh sáng của đức tin, công việc của thần học trong mọi nghiên cứu đều giả định và đòi hỏi một lý trí, đã được giáo huấn và đào luyện theo sự xếp đặt những quan niệm và những lý chứng. Ngoài ra, thần học cũng cần đến triết học như người đối thoại để kiểm chứng tính cách khả hội và chân lý phổ quát của những điều mình khẳng quyết. Không phải vì ngẫu nhiên mà, trong công tác giải thích này, các Giáo phụ và những nhà thần học thời Trung cổ đã nhờ đến những triết gia ngoài Kitô giáo. Sự kiện lịch sử này nêu rõ giá trị tự lập mà triết học vẫn bảo trì cả trong tình trạng thứ ba này, nhưng đồng thời cũng tỏ rõ những cải biến cần thiết và sâu sắc mà triết học phải chấp nhận.
Chính trong ý nghĩa của sự trợ giúp cần thiết và cao nhã mà, từ thời các giáo phụ, triết học được mệnh danh là nữ tỳ của thần học [ancilla theologiae]. Tước hiệu này không áp dụng để chỉ sự phục tùng nô lệ, hay là công tác cơ năng của triết học đối với thần học. Nó đã được dùng theo ý nghĩa mà ông Aristot đã nói tới, khi cho các khoa thực nghiệm là những nữ tỳ của “triết học đệ nhất”. Ngày nay vì những nguyên tắc tự lập vừa nhắc đến, khó có thể dùng kiểu nói “nữ tỳ của thần học”, nhưng nó đã được dùng qua dòng lịch sử để tỏ ra tương quan cần thiết, bất khả phân ly giũa hai khoa học.
Nếu nhà thần học từ khước không nại đến triết học, thì liều mình dùng triết học mà không hay biết, và khư khư giữ những cấu trúc tư tưởng không phù hợp với sự hiểu biết đức tin. Về phần mình, nếu triết gia xa lánh mọi tiếp cận với thần học, sẽ tưởng rằng mình phải tự chiếm đoạt cho mình nội dung của đức tin Kitô giáo, như đã xảy ra cho một số triết gia hiện đại. Trong trường hợp này cũng như trường hợp nọ, sẽ xảy nguy cơ hủy diệt những nguyên tắc căn bản của sự tự lập mà mỗi khoa học muốn bảo vệ một cách chính đáng,
Tình trạng của triết học được bàn đến ở đây, cùng với thần học, được đặt cách trực tiếp dưới uy thế và sự biện phân của Huấn quyền, vì những lên hệ mà triết học hàm súc để hiểu biết Mặc khải, như tôi đã trình bày trên đây. Quả thực, từ những chân lý của đức tin, phát xuất ra những đòi hỏi nhất định mà triết học phải tôn trọng trong lúc nó muốn giao tiếp với thần học.
78. Với những suy tư ấy, người ta dễ dàng hiểu tại sao đã nhiều lần Huấn quyền ca tụng những công trạng của thánh Thomas, và lấy người là hướng đạo và gương mẫu cho những nghiên cứu thần học. Điều quan trọng không phải là theo lập trường của người về những vấn đề triết học thực danh, cũng không phải là bó buộc phải chấp nhận những đề luận riêng lẻ. Chủ ý của Huấn quyền xưa kia, và hiện nay là, tỏ rõ thánh Thomas như một gương mẫu chính thức cho những ai tìm kiếm chân lý. Quả thực, sự đòi hỏi của lý trí và sức mạnh của đức tin đã tìm được sự tổng hợp cao nhất mà tư tưởng đã từng thực hiện trong suy tư của thánh Thomas, bởi người đã biết bảo vệ sự mới mẻ cơ bản mà Mặc khải mang lại, nhưng không bao giờ hạ thấp đường lối riêng của lý trí.
79. Để làm sáng tỏ hơn nội dung của Huấn quyền trước đây, trong phần sau cùng này, tôi muốn giãi bày một vài yêu sách mà ngày nay thần học - và trước hết, lời Thiên Chúa - đặt ra cho suy tư triết học và cho triết học hiện thời. Như tôi đã nhấn mạnh, triết gia phải xử trí theo những qui tắc riêng, và phải được xây dựng trên những nguyên lý riêng; nhưng chỉ có thể có một chân lý. Mặc khải, với nội dung của nó, không bao giờ có thể hạ giá lý trí trong những khám phá và trong sự tự lập của nó; tuy nhiên về phần mình, lý trí không bao giờ được để mất khả năng tự vấn và đặt câu hỏi, đang khi ý thức rằng không thể tự đưa mình lên hàng giá trị tuyệt đối và chuyên biệt. Chân lý được mặc khải, khởi đi từ ánh rạng ngời, phát xuất từ chính Hữu thể lập hữu, khi đưa hữu thể ra giữa ánh sáng, sẽ soi đường cho suy tư triết học. Nói tóm lại, mặc khải Kitô giáo trở thành điểm gặp gỡ và đối chiếu giữa tư tưởng triết học và tư tưởng thần học trong những tương quan giao hỗ. Vậy ước chi những thần học gia và những triết gia được hướng dẫn bởi thế giá duy nhất của chân lý, bằng cách xây dựng một triết học thân cận với lời của Thiên Chúa. Triết học này sẽ là điểm gặp gỡ giữa các nền văn hoá và đức tin Kitô giáo, và là nơi hoà hợp giữa những người tin và không tin. Điều đó sẽ là một trợ lực để những Kitô hữu xác tín cách thâm thúy hơn rằng, sự sâu sắc và tính xác thực của đức tin được cổ võ khi đức tin liên kết với một tư tưởng và không từ chối tư tưởng ấy. Một lần nữa, chính bài học của các Giáo phụ hướng dẫn chúng ta trong xác tín này : “Chính việc tin tưởng là suy nghĩ khi ưng thuận, chứ không phải chi khác [...]. Ai tin tưởng là suy nghĩ, và khi tin là người ấy suy nghĩ và khi suy nghĩ là người ấy tin [...]. Nếu không được suy nghĩ thì đức chả là gì hết”[75]. Vả lại : “Nếu hủy bỏ sự ưng thuận là hủy bỏ đức tin, vì không có sự ưng thuận là người ta không tin gì hết”[76]


Chương VII
NHỮNG ĐÒI HỎI
VÀ NHỮNG PHẬN SỰ HIỆN NAY
Những đòi hỏi khẩn thiết của lời Thiên Chúa
80. Thánh Kinh hàm chứa cách minh thị hay ám thị một loạt những yếu tố, cho phép đạt được một quan niệm về con người và về thế giới có tính cách triết học dày đặc và thiết thực. Những Kitô hữu đã dần dần ý thức sự phong phú của Thánh Kinh. Thành thử thực tại mà chúng ta nghiệm thấy không phải là tuyệt đối; nó không phải là tự hữu, cũng không tự sinh sản ra chính mình. Duy Thiên Chúa là Đấng Tuyệt đối. Đàng khác, theo những trang Thánh Kinh thì con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thứ hình ảnh hàm chứa những dữ kiện minh bạch về hữu thể, về sự tự do và về sự bất hoại của linh hồn. Vì thế giới thụ tạo không tự túc, nên mọi ảo tưởng về sự tự lập, u minh về sự lệ thuộc cốt yếu vào Thiên Chúa của mọi thụ tạo, kể cả loài người, sẽ dẫn đến những tình trạng bi thảm, sẽ hủy diệt sự nghiên cứu hữu lý về sự hài hoà và về ý nghĩa của cuộc nhân sinh.
Vấn đề về sự ác luân lý - một hình thức bi thảm nhất của điều ác - cũng được đề cập tới trong Thánh Kinh : Thánh Kinh cho chúng ta hay điều ác không phải là sự thiếu hụt của vật chất, nhưng là một vết thương phát sinh do việc con người sử dụng sự tự do cách lộn xộn. Sau hết, lời của Thiên Chúa làm sáng tỏ vấn đề về ý nghĩa của cuộc đời, và đưa ra câu giải đáp hướng dẫn con người đến với Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Đấng đã thực hiện đầy đủ kiếp nhân sinh. Nhờ đọc Thánh Kinh, những khía cạnh khác sẽ có thể được minh giải; dù sao, hệ luận nổi bật nhất là : phải tẩy chay mọi hình thức tương đối, duy vật và phiếm thần.
Xác tín nền tảng của “triết học” này, hàm chứa trong Thánh Kinh, đó là cuộc sống con người và thế giới có một ý nghĩa, và được qui hướng đến chỗ hoàn chỉnh, được thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô. Mầu nhiệm nhập thể sẽ luôn luôn là trọng điểm phải được qui chiếu, để có thể thấu hiểu sự bí ẩn của cuộc nhân sinh, của thế giới thụ tạo, và của chính Thiên Chúa. Trong mầu nhiệm này, triết học phải giải quyết những thách đố tột cùng, vì lý trí được kêu gọi để nhận lấy thứ lý luận vượt quá những giới hạn, trong đó nó liều mình tự vây hãm chính mình. Nhưng cũng chính nhờ đó mà người ta đạt tới ý nghĩa tuyệt đỉnh của cuộc nhân sinh. Quả thực, yếu tính của Thiên Chúa và của con người trở thành khả hội : vì trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại được bảo tồn, mỗi một bản tính đều độc lập : đồng thời cũng được giãi bày mối liên hệ duy nhất trong tương quan giao hỗ của hai bản tính không hỗn đồng[77].
81. Ta phải ghi nhận rằng, một trong những khía cạnh rõ rệt nhất trong hiện tình của chúng ta là “khủng hoảng về ý nghĩa”. Những quan điểm về sự sống và về thế giới thường có tính cách khoa học, đã gia tăng nhiều đến độ, trong thực tế, chúng ta đang chứng kiến sự phát triển của hiện tượng bẻ vụn kiến thức. Đó chính là điều làm cho việc tìm kiếm ý nghĩa trở nên khó khăn, nhiều khi còn luống công nữa. Quả thực, điều bi thảm hơn nữa là, giữa những dữ kiện và những sự kiện rối bời trong đó ta đang sống, và hình như làm nên chính khuôn khổ cuộc đời, nhiều người đã tự vấn rằng, hỏi han về ý nghĩa còn có nghĩa lý chăng. Việc từng loạt những chủ thuyết tranh luận về câu trả lời, hay những cách quan niệm và giải thích khác nhau về thế giới và về cuộc đời con người chỉ trầm trọng hoá nỗi do dự cơ bản, thứ do dự mau lẹ chìm ngập trong thuyết hoài nghi, trong sự nhửng nhưng hay trong những hình thức khác nhau của thuyết hư vô.
Hệ lụy của tất cả những điều đó là trí khôn thường bị xâm chiếm bởi một hình thức tư tưởng mơ hồ, dẫn nó đến chỗ tự khép mình hơn nữa trong những giới hạn của cái nội tại riêng, không qui chiếu mảy may với điều siêu việt. Một triết học không đặt vấn đề về ý nghĩa của cuộc đời sẽ mắc cái nguy cơ giản lược lý trí vào những chức năng dụng cụ thuần túy, không có tham vọng chính đáng nào để tìm kiếm chân lý.
Để được hài hoà với lời Thiên Chúa, trước hết triết học cần phải tìm lại chiều kích thông tuệ của mình [dimension sapientielle], là tìm kiếm ý nghĩa tối hậu và toàn diện của sự sống. Nghĩ cho kỹ, đòi hỏi thứ nhất này là một kích thích tố rất hữu ích cho triết học, để nó xứng đáng với bản tính của nó. Quả thực, theo cách này nó không phải chỉ là thứ sơ quyết biện phân xác định, tỏ bày những lãnh vực khác nhau của tri thức khoa học nền tảng và giới hạn của chúng, mà còn là thứ chung quyết thống nhất tri và hành của con người, hướng dẫn chúng qui hướng về một mục đích và một ý nghĩa sau cùng. Ngày nay chiều kích thông tuệ này càng cần thiết khi kỹ năng của con người tăng gia một cách mênh mong, đòi hỏi một lương tâm sống động và được đổi mới đối với những giá trị tối thượng. Nếu ta không bó buộc phải qui hướng những phương sách kỹ thuật về một mục đích không thuần túy vụ lợi, thì chày kíp những phương sách ấy sẽ giãi bày tính vô luân của chúng, và còn trở thành một tiềm lực hủy diệt nhân loại[78].
Lời Thiên Chúa mặc khải cứu cánh của con người, và cung cấp ý nghĩa toàn diện cho hoạt động của con người trong thế giới. Vì thế lời ấy mời gọi triết học dấn thân vào việc khám phá nền tảng tự nhiên của ý nghĩa này, là khát vọng tôn giáo cấu thành toàn thể nhân vị. Một triết học phủ nhận rằng, không thể có một ý nghĩa tối hậu và toàn diện, chẳng những là thứ triết học không thích hợp, lại còn sai ngoa nữa.
82. Đàng khác, vai trò thông tuệ không thể được vuông tròn bởi một thứ triết học không phải là một tri thức chân chính và xác thực, nghĩa là thứ triết học chỉ tự giới hạn vào những khía cạnh riêng lẻ và tương đối của thực tại - chẳng kỳ là khía cạnh cơ năng, hình thức hay vụ lợi - mà không bàn tới chân lý toàn diện và quyết định của nó; nói cách khác, không bàn tới chính hữu thể của đối tượng nhận thức. Vậy đây là đòi hỏi thứ hai : phải đinh ninh là con người có khả năng nhận biết chân lý, thứ nhận biết đạt tới chân lý khách quan, vì chân lý là sự tương hợp giữa sự vật và trí tuệ; các Tiến sĩ của Kinh viện đã nương tựa trên sự tương hợp ấy[79]. Đòi hỏi này, là đặc trưng của đức tin, đã được tái khẳng định trong CĐC Vatican II : “Quả thực, trí khôn không bị giới hạn trong những hiện tượng mà thôi, nhưng còn có thể thấu triệt thực tại khả hội một cách chắc chắn đích thực, cho dù nó đã bị lu mờ và suy nhược phần nào do hậu quả của tội lỗi”[80].
Một triết học triệt để Duy Hiện tượng hay Duy Tương đối sẽ không thích hợp để giúp chúng ta thâm hiểu sự giầu có hàm chứa trong lời của Thiên Chúa. Quả thực, Thánh Kinh luôn luôn giả định là con người, dù đắc tội tráo trở và gian dối, vẫn có thể nhận biết và hiểu rõ chân lý tinh trong và đơn thuần.
Trong Thánh Kinh, và đặc biệt trong Tân Ước, có những trích văn và những khẳng định có tầm mức thực thể luận đúng nghĩa. Quả thực, những thánh ký muốn đưa ra những khẳng định chân xác, nghĩa là thích hợp để để giãi bày thực tại khách quan. Ta không thể nói là Truyền thống Công giáo đã sai nhầm khi hiểu một vài bản văn của thánh Gioan và của thánh Phaolô, như những khẳng định về chính bản thân của Chúa Kitô. Vậy thần học, khi nỗ lực thấu hiểu và giải thích những khẳng định ấy, đã cần đến sự trợ giúp của thứ triết học, không phủ nhận sự khả dĩ của một nhận thức chân xác khách quan, dù luôn luôn có thể được kiện toàn. Điều vừa nói đó cũng có giá trị đối với những phán đoán của lương tâm luân lý, mà Thánh Kinh giả định có thể là chân xác cách khách quan[81].
83. Hai đòi hỏi vừa được nhắc tới hàm chứa đòi hỏi thứ ba  là sự cần thiết của một triết học có tầm cỡ siêu hình đích thực, nghĩa là thích hợp để vượt qua những dữ kiện thường nghiệm mà đạt tới điều tuyệt đối, tối thượng và nền tảng trong khi nghiên cứu chân lý. Đó là một đòi hỏi ám tàng trong sự nhận thức có đặc tính thông tuệ cũng như trong nhận thức phân tách; cách riêng, đây là đòi hỏi đặc biệt của nhận thức về điều thiện luân lý, mà nền tảng tôi hậu là điều Thiện tuyệt đỉnh, là chính Thiên Chúa. Ở đây tôi không có ý nói về siêu hình như về một trường phái nhất định, hay về một trào lưu lịch sử riêng biệt nào. Tôi chỉ muốn xác định rằng, thực tại và chân lý siêu việt trên điều có tính chất sự kiện và thực nghiệm, và tôi muốn khẳng định khả năng mà con người có để nhận biết chiều kích siêu việt và siêu hình một cách xác thực và chắc chắn, dù chỉ là khiếm khuyết và loại suy. Trong ý nghĩa này, không nên coi siêu hình như một khoa thế chân cho nhân loại học, vì chính khoa siêu hình giúp kiến tạo quan niệm về phẩm giá con người bởi địa vị thiêng liêng của nó. Cách riêng, do sự trác tuyệt mà chính nhân vị đạt tới hữu thể, và do đó khiển sự suy tư siêu hình.
Ở đâu con người nghiệm thấy lời mời gọi đi đến cái tuyệt đối và siêu việt, là nó đã được thoáng nhìn thấy chiều kích siêu hình của thực tại : như trong điều chân và mỹ, trong những giá trị luân lý, trong ngôi vị của tha nhân, trong chính hữu thể, trong Thiên Chúa. Một thách đố lớn đặt ra cho chúng ta vào cuối thiên niên này là, biết hoàn chỉnh cuộc kinh qua, vừa cần thiết vừa khẩn thiết, từ hiện tượng đến nền tảng. Không thể dừng lại ở kinh nghiệm mà thôi, ngay cả khi nó biểu lộ và tỏ bày tính nội tại và thiêng liêng của con người, sự suy tư trừu tượng phải đạt tới bản tính thiêng liêng và nền tảng mà suy tư ấy nương tựa. Một tư tưởng triết học từ chối mọi cởi mở đối với siêu hình, tức là thứ tư tưởng từ cội rễ không thích hợp để chu toàn chức năng trung gian trong việc thấu hiểu Mặc khải.
Lời của Thiên Chúa luôn luôn liên hệ đến những điều vượt quá kinh nghiệm, và vượt quá cả tư tưởng của con người nữa; nhưng “mầu nhiệm” này không thể được mặc khải, và thần học cũng không thể giải thích[82], nếu nhận thức nhân loại bị giới hạn một cách nghiêm nhặt trong thế giới của kinh nghiệm khả cảm. Vậy siêu hình học nghiễm nhiên là một trung gian có ưu thế trong việc nghiên cứu thần học. Thần học thiếu phối cảnh siêu hình không thể vượt lên trên sự phân tách về kinh nghiệm tôn giáo, và không giúp cho sự hiểu biết đức tin giãi bày một cách mạch lạc giá trị phổ quát và siêu việt của chân lý mặc khải.
Sỡ dĩ tôi nhấn mạnh đến yếu tố siêu hình, là vì tôi xác tín rằng đó là con đường cần thiết để vượt qua tình trạng khủng hoảng, hiện nay đang phổ cập trong nhiều ngành triết học, và như vậy để sửa chữa một vài lối xử sự làm lệch hướng, được quảng bá trong xã hội chúng ta.
84. Tầm quan trọng của sự xích lại với siêu hình càng trở nên rõ ràng, nếu ta suy đến sự phát triển hiện nay của những khoa chú giải và những phân tách khác nhau về ngôn ngữ. Những thành quả do những nghiên cứu ấy thâu lượm có thể rất hữu ích cho việc hiểu biết đức tin, theo mức độ chúng làm sáng tỏ cấu trúc của tư tưởng và lối phát biểu của chúng ta, cũng như ý nghĩa mà ngôn ngữ mang theo. Nhưng có những chuyên viên của các khoa học này, những người, trong khi nghiên cứu, chỉ để ý đến cách người ta hiểu và nói lên thực tại, lại kiêng dè không kiểm chứng những khả năng của trí khôn khám phá yếu tính. Sao lại không thấy trong thái độ đó tang chứng của cơn khủng hoảng về niềm tín nhiệm vào những khả năng của lý trí, mà thế giới của chúng ta đang trải qua? Và khi, vì những thỉnh đề tiên thiên, những đề luận ấy chủ trương làm lu mờ nội dung của đức tin, hoặc chối bỏ giá trị phố quát của nó, thì chúng chẳng những hạ giá lý trí, mà còn tự đặt mình vào chỗ việt vị. Quả thực, đức tin giả định một cách minh bạch rằng, ngôn ngữ nhân loại có thể giãi bày cách phổ quát thực tại thần linh và siêu việt - dù chỉ bằng những hạn từ loại suy-, nhưng không vì thế mà không có ý nghĩa[83]. Nếu không thế, thì lời của Thiên Chúa, luôn luôn là lời thần linh trong ngôn ngữ nhân loại, sẽ không thể giãi bày gì về Thiên Chúa, mà chỉ là biểu thức của những quan niệm nhân loại về Thiên Chúa, và về điều người ta giả thiết là điều Thiên Chúa nghĩ về chúng ta.
85. Vẫn biết rằng những yếu sách đặt ra cho triết học như thế là nghiêm nghị đối với nhiều người sống trong hiện trạng của việc nghiên cứu triết học. Chính vì thế, đang khi lấy lại những điều mà các Đức Giáo Hoàng không ngừng giảng dậy từ nhiều thế hệ và chính CĐC Vatican II đã nhắc lại, với sự xác tín mạnh mẽ, tôi muốn tuyên bố rằng, con người có thể đạt tới một quan niệm thống nhất và hữu cơ về kiến thức. Đó là một phận vụ mà tư tưởng Kitô giáo phải tự đảm trách trong thiên niên sắp tới của công nguyên Kitô. Việc cắt vụn kiến thức cản trở sự thống nhất nội tại của con người hiện nay, vì nó kéo theo sự xích lại từng phần chân lý và, do đó, cũng bẻ vụn ý nghĩa. Làm sao Giáo hội có thể không e ngại? Phận vụ thuộc lãnh vực thông tuệ dành riêng cho các Chủ chăn này, đối với các ngài, thì phát xuất trực tiếp từ Tin Mừng, và các ngài không thể trốn tránh bổn phận phải chu toàn.
Tôi thiết tưởng những ai, theo tư cách là triết gia, muốn đáp trả những đòi hỏi mà lời Thiên Chúa trình bày cho tư tưởng nhân loại, sẽ phải xây dựng lý luận của mình trên những thỉnh đề này, và phải lập định một cách mạch lạc trên sự nối kết với truyền thóng vĩ đại, bắt đầu từ các tổ phụ, qua các Giáo phụ và những bậc thầy của Kinh viện, để đi đến chỗ hội nhập những hiểu biết cốt yếu của tư tưởng cận kim và hiện đại vào. Nếu biết kín múc trong truyền thống và lấy nó làm nguồn khởi hứng, ắt triết gia sẽ không quên tỏ mình là người trung thành với yêu sách độc lập của tư tuởng triết học.
Theo ý đó, và trong phối cảnh hiện nay, thật là ý vị khi một vài triết gia trở thành người cổ võ việc tái khám phá chức năng quyết định của truyền thống đối với cách thức nhận thức đúng đắn. Quả thực, việc tìm đến với truyền thống không phải là sự nhắc nhớ suông đến dĩ vãng; mà hệ tại việc nhìn nhận giá trị của một gia sản văn hoá thuộc về toàn thể nhân loại thì đúng hơn. Ta cũng có thể nói là chính chúng ta thuộc về truyền thống và chúng ta không thể xếp đặt nó theo ý muốn. Phải đi đến chỗ căn để của truyền thống mới có thể đưa ra một tư tưởng độc đáo, mới mẻ và được qui hướng về tương lai. Sự nhắc nhở như thế còn có hiệu lực hơn đối với thần học. Không những vì thần học có Truyền thống sống động của Giáo hội như nguồn mạch cội gốc[84], mà còn vì đó mà thần học phải có khả năng để tìm lại được truyền thống thần học sâu xa, đã đánh dấu cho các thời đại dĩ vãng, và truyền thống liên lỉ của triết học, trong sự thông tuệ xác thực của nó, đã biết vượt qua những giới hạn của không gian và thời gian.
86. Việc nhấn mạnh đến sự cần thiết của mối quan hệ chặt chẽ về sự liên tiếp giữa suy tư triết học hiện đại và suy tư triết học, mà truyền thống Kitô đã xây dựng, là có ý đề phòng những nguy cơ, gắn liền với một vài mẫu tư tưởng ngày nay đã được phổ biến cách riêng biệt. Tôi thiết tưởng cần phải dừng lại nơi một vài khuynh hướng, dù chỉ để sơ lược vạch ra những sai lầm và những nguy hiểm mà chúng đưa ra cho sinh hoạt triết học.
Khuynh huớng thứ nhất trong các huynh hướng ấy là chủ nghĩa chiết trung. Hạn từ này được dùng để chỉ thái độ của những người, khi nghiên cứu, giảng dạy và tranh luận, cả về thần học, có thói quen chấp nhận những quan niệm khác nhau, mượn bởi nhiều triết học, mà không chú ý đến sự mạch lạc, đến nguồn gốc thuyết hệ, và đến khung cảnh lịch sử của chúng. Như thế họ đặt mình vào tình trạng không thể phân biệt phần chân lý của một tư tưởng với phần sai lầm hoặc không thích hợp mà nó có thể hàm chứa. Ta cũng nhận thấy một hình thức thái quá của thuyết chiết trung, mà một số thần học gia mắc phải trong việc sử dụng những hạn từ triết học theo cường điệu hùng biện. Lối vận dụng ấy không giúp gì cho việc khám phá chân lý và không chuẩn bị lý trí - thần học hay triết học - để viện chứng một cách nghiêm túc và khoa học. Việc học hỏi nghiêm túc và thâm trầm những đạo lý triết học, thuật ngữ riêng và khung cảnh trong đó những đạo lý ấy được quan niệm, sẽ giúp để vượt qua những nguy hiểm của chủ nghĩa chiết trung, và cho phép hội nhập một cách thích hợp vào lý luận của thần học.
87. Thuyết chiết trung là sự sai lầm về phương pháp, nhưng nó cũng có thể tàng trữ những đề luận của thuyết duy lịch sử. Để hiểu biết một đạo lý về quá khứ, cần phải đặt lại nó trong khung cảnh lịch sử và văn hoá. Trái lại, đề luận căn bản của thuyết duy lịch sử hệ tại thiết lập chân lý của một triết lý trên sự phù hợp của nó với một thời đại nhất định, và với trách vụ nhất định trong lịch sử. Như thế, ít là người ta mặc nhiên phủ nhận giá trị lâu dài của điều thật. Nhà duy lịch sử chủ trương rằng, điều đã đúng vào một thời đại có thể không còn đúng vào thời đại khác nữa. Tóm lại, họ cho lịch sử của một tư tưởng không đáng giá hơn những dấu vết khảo cổ học, mà người ta nại đến để trình bày những lập trường của quá khứ, mà ngày nay phần lớn đã lỗi thời không có giá trị đối với hiện tại. Trái lại, ta phải đinh ninh rằng, nếu cách phát biểu có lệ thuộc phần nào vào một thời đại và một nền văn hoá, thì dù sao chân lý hay sự sai lầm mà thời đại và nền văn hoá ấy giãi bày có thể được nhìn nhận và cứu xét như chúng có thực, bất kể quãng cách không gian và thời gian là thế nào đi nữa.
Trong suy tư thần học, thuyết duy lịch sử nỗ lực xuất hiện nhiều dưới hình thức của “thuyết duy tân”. Với bận tâm làm cho lý luận thần học trở thành hiện đại và có thể được người thời nay hấp thụ, người ta chỉ nại đến những khẳng định và ngôn ngữ triết học mới nhất, mà bỏ qua những vấn nạn phê bình mà ngẫu nhiên ta phải nêu lên dưới ánh sáng của truyền thống. Hình thức duy tân này, vì lẫn lộn hiện đại với chân lý, đã tỏ ra bất lực không thể thoả mãn những đòi hỏi của chân lý mà thần học có thiên chức phải giải đáp.
88. Thuyết duy khoa học là một nguy cơ khác cần phải suy nghĩ. Quan niệm triết học này từ chối, không công nhận giá trị của những cách nhận thức khác với những cách thức riêng biệt của khoa học thực tiễn, họ liệt những nhận thức tôn giáo và thần học, cũng như kiến thức luân lý và thẩm mỹ, vào lãnh vực tưởng tượng thuần túy. Trước đây, quan niệm này được trình bày qua thuyết duy thực nghiệm và tân duy thực nghiệm, và cho những quả quyết có tính cách siêu hình là vô nghĩa. Phê bình luận đã làm cho lập trường ấy thất thế, nhưng nó đã tái sinh dưới những đường nét mới của thuyết duy khoa học. Trong phối cảnh này, những giá trị trở thành những sản phẩm suông của tình cảm, và ý niệm về hữu thể bị gạt ra ngoài lề để nhường chỗ cho “tính sự kiện” suông và thuần túy. Vậy nhờ sự phát triển kỹ thuật, khoa học đang chuẩn bị để chế ngự mọi khía cạnh của cuộc nhân sinh. Những thành quả không thể phủ nhận của khám phá khoa học, và của kỹ thuật học hiện đại, đã cộng tác vào việc truyền bá não trạng duy khoa học, có vẻ không còn giới hạn, bởi cách thức nó thấm nhập vào những nền văn hoá khác nhau, và bởi nó đã mang lại.những thay đổi tận gốc.
Nhưng thật bất hạnh khi nghiệm thấy rằng, thuyết duy khoa học coi tất cả những chi liên hệ đến ý nghĩa cuộc đời là phi lý và là chuyện giả tưởng. Theo trào tư tưởng ấy, ta không thể không thất vọng về cách nó tiếp cận với những vấn đề lớn của triết học, những vấn đề, hễ đã u minh, thì đều bị phân tách theo những tương tự hời hợt, thiếu nền tảng hữu lý. Điều đó nghèo nàn hoá sự suy tư nhân loại, bằng cách làm cho nó mất khả năng bàn hỏi các vấn đề căn bản mà động vật có lý trí, ngay từ khi xuất hiện trên mặt đất, vẫn liên lỉ đặt ra. Trong nhỡn quan ấy, sau khi đã tẩy chay sự phê phán theo tiêu chuẩn luân lý, não trạng duy khoa học đã thành công vì làm cho nhiều người công nhận ý niệm này là, điều gì có thể thực hiện về mặt kỹ thuật, tức cũng là điều có thể chấp nhận về mặt luân lý.
89. Thuyết duy thực dụng cũng để lộ ra ngần ấy nguy cơ, đây là thái độ của những người lựa chọn mà bỏ qua việc suy tư lý thuyết, hay những lối cân nhắc căn cứ trên những nguyên lý triết học. Những kết quả thực hành của lối suy nghĩ này thật đáng kể. Nói riêng, người ta đi đến chỗ bảo vệ một quan niệm dân chủ, không đếm xỉa gì đến việc qui chiếu theo những nền tảng thuộc lãnh vực nhân phẩm học, tức là những nền tảng bất biến; để quyết định có nên chấp nhận lối hành sử nào đó hay chăng, người ta căn cứ trên đa số phiếu của nghị viện[85]. Kết quả của lối nhìn đó đã hiển nhiên: trong thực tế những nghị quyết luân lý lớn về con nguời sẽ lệ thuộc vào những cuộc thảo luận, được thực hiện dần dần bởi những cơ quan hiến định. Hơn nữa, nhân loại học ấy cũng lệ thuộc nhiều vào việc nó trình bày quan niệm một chiều về con người, những song quan luận phong hoá lớn và những phân tách hiện sinh về ý nghĩa của đau khổ và hy sinh, của sự sống và sự chết đều bị loại ra ngoài lề.
90. Đến lượt mình, những đề luận được cứu xét cho đến đây, lại dẫn tới một quan niệm tổng quát hơn; ngày nay thứ quan niệm ấy hình như làm thành một phối cảnh chung của những triết học đã tẩy chay ý niệm về hữu thể. Ở đây tôi nghĩ đến cái nhìn duy hư vô, là cái nhìn vừa phủ nhận mọi nền tảng, vừa chối bỏ mọi chân lý khách quan. Thuyết duy hư vô là sự phủ nhận nhân loại tính và chính căn tính của con người, trước khi đối lập với những đòi hỏi và với nội dung riêng biệt của lời Thiên Chúa. Quả thực, người ta không quên rằng, hễ người ta sao nhãng vấn đề về hữu thể, ắt sẽ dẫn đưa, một cách không thể tránh, đến chỗ mất tiếp xúc với chân lý khách quan, rút cuộc là đến chỗ không tiếp xúc với nền tảng, là điểm tựa cho phẩm giá con người. Như vậy người ta mở ra cái khả năng xoá khỏi dong nhan con người những nét, tỏ rõ con người giống như Thiên Chúa, để từng bước hạ thấp nó thành một ý muốn quyền lực hủy hoại, hay thành sự thất vọng trong cô đơn. Một khi đã làm cho chân lý xa lìa con người mà đòi làm cho con người được tự do, thì đó là chuyện hão huyền. Quả thực, chân lý và sự tự do thì song hành với nhau, hay cùng nhau bị tiêu diệt cách khốn nạn[86].
91. Khi bình luận những luồng tư tưởng mà tôi vừa nhắc tới, tôi không chủ ý trình bày một bức hoạ đầy đủ về tình trạng hiện nay của triết học : đàng khác cũng khó qui kết nó vào một bức hoạ toàn cảnh thống nhất. Tôi phải nhấn mạnh đến sự kiện là gia sản kiến thức và thông tuệ đã thực sự trở nên phong phú trong nhiều lãnh vực. Chỉ cần nhắc đến luận lý học, đến ngôn ngữ luận, phê bình luận, triết học về thiên nhiên, nhân chủng học, phân tách xâu sắc những kiểu cách tình cảm của nhận thực, việc xích gần cách hiện sinh đến việc phân tách sự tự do. Đàng khác, từ thế kỷ vừa qua, sự khẳng định nguyên lý nội tại, là trọng tâm của chủ trương duy lý, đã khơi dậy những phản ứng khiến phải triệt để bàn lại những thỉnh đề đã được coi là không còn thể tranh luận. Như thế đã xuất hiện trào lưu duy phi lý, đang khi phê bình luận cho thấy rõ ràng tính cách hư ảo của yêu sách tự kiến tạo tuyệt đối của lý trí.
Một vài nhà tư tưởng đã lấy hạn từ “hậu hiện đại” [post-modernité] mà phẩm định thời đại chúng ta. Hạn từ này, thường được dùng trong những khung cảnh khác nhau, ám chỉ sự nổi cộm của một tổng thể những nhân tố mới, vì tính cách phổ cập và hiệu lực của chúng, xem ra có thể gây nên những thay đổi có ý nghĩa và lâu bền. Vì thế, trước tiên hạn từ ấy được dùng để nói về những hiện tượng thuộc lãnh vực thẩm mỹ, xã hội hay kỹ thuật. Rồi nó được chuyển sang lãnh vực triết học, nhưng vẫn có phần mơ hồ, vì phán đoán về những điều mà người ta phẩm định là “hậu hiện đại”, thì có thể luân phiên là tích cực hay tiêu cực, và cũng vì không có sự đồng thuận về vấn đề tế nhị là đăt ranh giới cho những thời đại khác nhau của lịch sử. Nhưng không nên hoài nghi rằng, những trào lưu tư tưởng tự xưng là hậu hiện đại thì đáng được nghiên cứu cách chăm chú. Quả thực, đối với một số người trong nhóm này, thời gian của những chắc chắn đã qua đi một cách không thể cứu vãn, từ nay con người phải học sống trong một phối cảnh hoàn toàn thiếu ý nghĩa, dưới lá cờ của điều tạm bợ và phù du. Trong phê bình hủy diệt mọi chắc chắn, nhiều tác giả trong phê bình hủy diệt mọi chắc chắn, đã chối bỏ cả những chắc chắn của đức tin, vì không biết đến những phân biệt cần thiết.
Có thể nói rằng, thuyết Duy hư vô đã được biện minh bởi kinh nghiệm khủng khiếp về điều ác, đánh dấu thời đại chúng ta. Kinh nghiệm bi thảm này đã làm điêu đứng thuyết lạc quan duy lý, là thuyết nhìn thấy trong lịch sử sự phát triển thắng lợi của lý trí, nguồn mạch của hạnh phúc và của sự tự do, thành thử một trong những đe doạ trầm trọng nhất của cuối thế kỷ này là cơn cám dỗ về sự thất vọng.
Tuy nhiên quả thật cũng có một não trạng thực tiễn nào đó, vẫn tiếp tục nuôi cái ảo tưởng là, con người như một con tạo (demiurge], nhờ những chinh phục khoa học và kỹ thuật, có thể tự mình hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình.
Những phận vụ hiện nay của thần học
92. Vào những thời đại khác nhau của lịch sử, trong chức năng hiểu biết Mặc khải, thần học luôn luôn được dẫn đưa để đón nhận các yếu tố của những nền văn hoá khác nhau để, qua trung gian của mình, hội nhập nội dung của đức tin vào những nền văn hoá đó theo một lối quan niệm mạch lạc. Ngay hiện nay, thần học vẫn có hai phận vụ. Quả thực, một đàng phải chu toàn sứ mạng mà CĐC Vatican II đã ủy thác vào thời buổi của mình là : canh tân những phương pháp để phục vụ việc phúc âm hoá cho hiệu nghiệm hơn. Trong phối cảnh này, tại sao không nhắc lại những tuyên ngôn của Đức Gioan XXIII vào dịp khai mạc CĐ? Lúc đó người nói : “Khi đáp lại sự nôn nóng chờ mong của những người yêu mến đạo Kitô, công giáo và tông truyền, đạo lý này phải được nhận biết sâu rộng hơn, các tâm trí phải được thấm nhuần và được huấn luyện về đạo lý ấy đầy đủ hơn; đạo lý chắc chắn và bất biến, mà người ta phải theo một cách trung thành hơn, cần phải được khám phá và được trình bày một cách phù hợp với đòi hỏi của thời đại chúng ta”[87] Đàng khác, thần học phải nhìn vào chân lý sau cùng, được Mặc khải ủy thác cho mình, chứ đừng dừng lại ở những bước trung gian. Nhà thần học là nhớ lại rằng, công việc của mình thì đáp ứng với “sự sinh động hiện hữu trong chính đức tin”, và đối tượng riêng mà mình nghiên cứu là “Chân lý, là Thiên Chúa hằng sống, cùng kế hoạch cứu độ của Người, được mặc khải nơi Chúa Giêsu Kitô”[88]. Bổn phận này, trước hết thuộc thần học, cũng liên lụy đến triết học. Quả thực, con số những vấn đề được đặt ra hiện nay đòi hỏi hoạt động chung, - dù được điều khiển bằng những phương pháp khác nhau, - để chân lý được nhìn nhận và giãi bày lại. Chân lý, là Đức Kitô, áp đặt như một quyền bính phổ quát điều hành, khích lệ và làm tăng trưởng cả thần học lẫn triết học (xc. Ep 4, 15).
Việc tin tưởng vào khả năng nhạn biết chân lý có giá trị phổ quát, tuyệt nhiên không phải là nguồn mạch của sự bất khoan nhượng; trái lại là điều kiện cần thiết cho một cuộc đối thoại thành thực và chân chính giữa con người. Nhờ chính điều kiện này mới có thể vượt qua những chia rẽ, và cùng nhau đi trên con đường đưa đến chân lý toàn diện, bằng cách rảo qua những nẻo đường mà chỉ có Thần Linh của Chúa phục sinh biết[89]. Theo những phận vụ hiện nay của thần học, bây giờ tôi muốn trình bày xem, ngày nay yêu sách thống nhất xuất hiện một cách cụ thể như thế nào.
93. Tiêu đích chính yếu của thần học hệ tại trình bày sự hiểu biết Mặc khải và nội dung của đức tin. Nhưng sự suy niệm chính mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi mới là trọng tâm đích thực của suy tư thần học. Ta đi đến mầu nhiệm ấy bằng cách hồi suy về mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa : Đấng đã làm người, rồi đi đón cuộc khổ nạn và sự chết, một mầu nhiệm kết thúc trong sự phục sinh vinh quang và lên ngự bên hữu Chúa Cha, từ đó Người cử Thần chân lý đến để thiết lập và linh động hoá Giáo Hội của Người. Trong phối cảnh này, hiển nhiên phận vụ thứ nhất của thần học là hiểu biết sự tự hạ [kenose] của Thiên Chúa, mầu nhiệm chân thật và vĩ đại đối với trí khôn nhân loại; đối với trí khôn này hình như không thể bênh vực được rằng, sự đau khổ và sự chết có thể giãi bày tình yêu hiến tặng không đòi đáp trả. Do quan điểm này, yêu sách tiên quyết và khẩn thiết được đặt ra là một sự phân tách chăm chú những văn bản : trước hết là những văn bản Thánh Kinh, rồi đến những văn bản giãi bày Truyền thống sống động của Giáo hội. Về điểm này, một số vấn đề được đặt ra ngày nay, chỉ mới mẻ một phần, những vấn đề không thể được giải đáp cách thoả đáng nếu không có sự đóng góp của triết học.
94. Yếu tố nghi hoặc thứ nhất liên hệ đến tương quan giữa điều được ám chỉ và đến chân lý. Cũng như mọi văn bản khác, những nguồn mạch, mà nhà thần học diễn giải, trước tiên thông đạt điều được ám chỉ, mà nhà thần học phải nắm bắt và trình bày. Vậy điều được ám chỉ này xuất hiện như chân lý về Thiên Chúa, do chính Thiên Chúa thông đạt qua văn bản Thánh Kinh. Như vậy ngôn ngữ của Thiên Chúa, thông đạt chân lý của mình với “lòng khoan thứ” lạ lùng, phù hợp với việc Nhập thể[90], hoá thân trong ngôn ngữ nhân loại. Khi diễn giải những nguồn mạch của Mặc khải, thần học cần phải lưu ý đến những giới hạn của ngôn ngữ, mà tìm hiểu xem đâu là chân lý sâu xa, và chân chính mà các văn bản muốn thông đạt.
Còn về những điều liên can đến văn bản Kinh Thánh, cách riêng là Tin mừng, chân lý của chúng hẳn không thể giản lược vào sự tường trình những biến cố thuần túy lịch sử, hay đến việc mặc khải những sự kiện vô thưởng vô phạt [faits neutres], như thuyết thực nghiệm duy lịch sử chủ trương[91]. Trái lại, những văn bản ấy trình bày những biến cố hàm chứa chân lý trổi vượt trên sự kiện lịch sử đơn thuần: chân lý của chúng ở tại ý nghĩa nằm trongcho lịch sử cứu độ. Chân lý này được giải thích đầy đủ trong sự diễn giải mà Giáo hội vẫn theo đuổi qua các thế kỷ, bằng cách gìn giữ bất di bất dịch ý nghĩa nguyên sơ. Vậy theo quan điểm triết học, người ta cũng phải cấp thiết tra cứu về tương quan giữa sự kiện và ý nghĩa của nó, thứ tương quan tạo nên ý nghĩa riêng biệt của lịch sử.
95. Lời Thiên Chúa không đưọc gửi đến một dân tộc hoặc một thời đại. Cũng vậy, những biểu thức tín lý, dù đôi khi lệ thuộc vào văn hoá của thời đại đã chấp nhận chúng, vẫn bày tỏ một chân lý bền vững và dứt khoát. Nên phải tìm hiểu xem người ta làm cách nào để dung hoà tính tuyệt đối và tính phổ quát của chân lý với sự điều chế lịch sử và văn hoá không thể tránh của những công thức giãi bày chân lý. Như tôi đã nói trên đây, không thể bênh vực được những đề luận của thuyết duy lịch sử. Trái lại, việc áp dụng một lối chú giải am hợp với những đòi hỏi của siêu hình học có thể chứng minh được là, làm thế nào, khởi đi từ những hoàn cảnh lịch sử và bất tất, trong đó những văn bản được quan niệm, để đạt tới chân lý mà chúng giãi bày, thứ chân lý vượt lên trên những sự điều chế ấy.
Nhờ ngôn ngữ có tính lịch sử và cảnh huống của mình, con người có thể giãi bày những chân lý trổi vượt trên kết cấu ngữ học. Quả thực chân lý không bao giờ bị giam hãm trong thời gian và trong văn hoá; nó được biết đến trong lịch sử, nhưng nó vượt trên chính lịch sử.
96. Suy tư này giúp thoáng nhìn ra lối giải đáp cho một vấn đề khác, ấy là giá trị bền vững của ngôn ngữ trừu tượng được dùng trong những nghị quyết của Công Đồng Chung. Vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, là Đức Pio XII, đã đề cập đến vấn đề này trong Thông điệp Humani generis[92].
Suy nghĩ về vấn đề này không phải là chuyện dễ, vì người ta phải nghiêm túc chú trọng đến ý nghĩa của các từ ngữ trong các nền văn hoá, và các thời đại khác nhau. Dù sao lịch sử của tư tưởng cũng chứng minh rằng qua sự biến hoá và khác biệt của những nền văn hoá, một số quan niệm nền tảng vẫn giữ được giá trị tri thức phổ quát và chân lý của những mệnh đề mà chúng giãi bày[93]. Chẳng vậy, triết học và các khoa học không thể hiệp thông với nhau, và không thể được tiếp nhận bởi những nền văn hoá khác với nền văn hoá đã nghĩ tưởng và soạn thảo ra chúng. Vậy có vấn đề chú giải, nhưng có thể giải quyết được. Đàng khác, giá trị thiết thực của nhiều quan niệm đôi khi không làm cho ý nghĩa của chúng khỏi khiếm khuyết. Sự suy tư triết học có thể là một trợ giúp lớn lao trong lãnh vực này. Ước chi triết học dấn thân đặc biệt để đào sâu tương quan giữa ngôn ngữ trừu tượng và chân lý, và đề nghị những cách thức toàn ứng để thấu hiểu tương quan này cho đúng đắn.
97. Nếu sự giải thích các nguồn mạch là chức năng quan trọng của thần học, thì sự thấu hiểu chân lý mặc khải, hay là việc bồi đắp sự hiểu biết đức tin lại là một trong những phận vụ tế nhị và khẩn thiết nhất của nó. Như đã nói trên, sự hiểu biết đức tin giả định sự đóng góp của một triết học về hữu thể, trước hết giúp cho thần học tín lý đóng đúng chức năng của mình cho đầy đủ. Theo thuyết thực dụng tín lý của đầu thế kỷ này, thuyết đã bị phi bác và bị tẩy chay, những chân lý đức tin chỉ là những qui tắc về hạnh kiểm[94]; dù thế, vẫn luôn luôn tồn tại sức dụ dỗ để hiểu những chân lý ấy một cách duy công dụng. Nếu quả thế, thì vẫn chỉ là sự xích gần không thích hợp, giản lược và thiếu sinh lực trừu tượng cần thiết. Chẳng hạn, một Kitô học chỉ diễn tiến “từ dưới lên” như người ta nói ngày nay, hay một Giáo hội học chỉ được soạn thảo theo kiểu mẫu của các xã hội dân sự thì khó lòng tránh được loại duy giản lược này.
Nếu sự thấu hiểu đức tin muốn hội nhập mọi phong phú của truyền thống thần học thì phải nại đến triết học về hữu thể. Triết học này phải có khả năng lấy lại vấn đề về hữu thể, phù hợp với những đòi hỏi và những đóng góp của toàn thể truyền thống triết học, kể cả truyền thống mới nhất, bằng cách tránh sự lặp lại suông những mô hình cũ kỹ. Triết học về hữu thể, theo khuôn khổ của truyền thống siêu hình học Kitô, là một triết học sinh động, nhìn thấy thực tại trong những cấu trúc thực thể luận, nhân quả và tương quan. Nó tìm được sức mạnh và sự trường cửu của mình ở việc xây dựng trên chính hiện thể của hữu thể, cho phép nó cởi mở đầy đủ và tổng quát đối với hết mọi thực tại, bằng cách vượt trên mọi giới hạn cho đến khi đạt tới Đấng đưa mọi sự đến chỗ hoàn chỉnh. Trong thần học, có các nguyên lý của Mặc khải như một nguồn mạch mới của nhận thức, phối cảnh này được củng cố nhờ tương quan chặt chẽ liên kết đức tin và sự lý luận siêu hình.
98. Cũng có thể thực hiện những suy tư tương tự liên hệ đến thần học luân lý. Cũng khẩn thiết phải trở lại với triết học trong lãnh vực hiểu biết đức tin có liên hệ đến sinh hoạt của những tín hữu. Đứng trước những thách đố đương đại trong những lãnh vực xã hội, kinh tế, chính trị và khoa học, lương tâm luân lý của con người bị lạc hướng. Trong thông điệp Sự sáng ngời của chân lý, tôi đã lưu ý rằng, nhiều vấn đề được đặt ra trong thế giới hiện nay, phát xuất từ “sự khủng hoảng về vấn đề chân lý [...]. Một khi mất ý niệm về một chân lý phổ quát về điều thiện mà lý trí con người có thể biết, thì quan niệm về lương tâm cũng phải thay đổi không thể tránh: lương tâm không còn được nhìn nhận trong thực tại bản lai của nó, nghĩa là như hành vi hiểu biết về nhân vị, có chức năng áp dụng sự nhận thức phổ quát về điều thiện vào một trường hợp nhất định, và như vậy là đưa ra phán đoán về phẩm hạnh đúng đắn phải lựa chọn ở đây và bây giờ; người ta có khuynh hướng qui cho lương tâm cá nhân đặc quyền qui định một cách độc lập, những tiêu chuẩn của thiện ác, và theo đó mà hành động. Lối nhìn này cũng đồng nhất với luân lý cá nhân chủ nghĩa, cho rằng mỗi người phải trực diện với chân lý của mình, khác vói chân lý của tha nhân” (số. 32).
Khắp nơi trong thông điệp, tôi đã minh bạch nhấn mạnh đến chức năng nền tảng của chân lý trong lãnh vực luân lý. Chân lý này, trong những điều liên can đến hầu hết những vấn đề phong hoá rất khẩn trương, đòi hỏi thần học luân lý phải thực hiện một suy tư sâu sắc, và phải nói một cách minh bạch rằng những vấn đề ấy ăn rễ trong lời của Thiên Chúa. Để có thể chu toàn sứ mạng đó, thần học luân lý phải nhờ đến luân lý triết học bàn về chân lý của điều thiện, nhiên hậu đến thứ luân lý không chủ quan, cũng không vụ lợi. Luân lý mà người ta chờ đợi vừa bao hàm vừa giả định một triết lý nhân chủng học và một siêu hình học về điều thiện. Khi nương tựa vào cái nhìn thống nhất, liên kết cách thiết yếu với sự thánh thiện Kitô giáo, và với sự thực hành các đức tính nhân bản và siêu nhiên, thần học luân lý sẽ có thể đề cập một cách thích hợp và hiệu nghiệm hơn đến những vấn đề khác nhau thuộc sở năng của mình, như vấn đề hoà bình, công bình xã hội, gia đình, bảo vệ sự sống và môi trường thiên nhiên.
99. Công tác thần học của Giáo hội trước hết là phục vụ việc loan truyền lời của Thiên Chúa và dạy giáo lý[95]. Loan báo Tin mừng kêu mời sự trở lại bằng cách trình bày sự thật về Chúa Kitô, mà chóp đỉnh là Mầu nhiệm vượt qua : quả thực, chỉ có thể biết sự viên mãn của chân lý cứu độ trong Đức Kitô (xc. Cv. 4, 12; 1 Tm 2, 4-6).
Trong khung cảnh ấy người ta hiểu tại sao, bên cạnh thần học, việc nhắc đến dạy giáo lý có tầm quan trọng: quả thực, giáo lý có những hệ lụy triết học cần phải đào sâu theo ánh sáng đức tin. Giáo huấn do giáo lý cung cấp có ảnh hưởng trong việc đào tạo nhân vị. Giáo lý, cũng là sự thông đạt ngôn ngữ, cần phải trình bày đạo lý của Giáo hội trong sự trọn vẹn của nó[96], bằng cách tỏ ra những tương quan của nó với đời sống của những tín hữu. (ibi. 1295-1296). Như vậy người ta liên kết được một cách đặc biệt giáo huấn với đời sống, và không thể thực hiện cách nào khác. Điều mà giáo lý thông đạt, không phải là một bộ những chân lý trừu tượng, mà là mầu nhiệm về Thiên Chúa hằng sống[97].
Sự suy tư triết học còn có thể giúp ích nhiều để làm sáng tỏ những tương quan giữa chân lý và cuộc đời, giữa biến cố và chân lý của đạo lý, và nhất là tương quan giữa chân lý siêu việt và ngôn ngữ nhân loại có thể hiểu[98]). Vậy những trao đổi giữa các môn thần học và những thành quả đã đạt được bởi những trào lưu triết học khác nhau có thể là phong phú thực sự để loan truyền đức tin, và để thấu hiểu đức tin một cách sâu xa hơn.



Kết luận
100. Hơn một trăm năm sau khi công bố thông điệp Aeterni Patris của Đức Leo XIII, thông điệp mà tôi đã qui chiếu nhiều lần trong những trang này, tôi thiết tưởng cần phải trình bày lại, và trình bày một cách có hệ thống hơn, những tương quan giữa đức tin và triết học. Hiển nhiên là tư tưởng triết học có tầm quan trọng lớn trong việc phát triển các nền văn hoá, và trong việc hướng dẫn những lối cư xử cá nhân cùng xã hội. Nó cũng ảnh hưởng mạnh đến thần học và những môn khác nhau của thần học, mà người ta không luôn luôn nhìn nhận cách minh thị. Vì những lý do đó, tôi nghĩ việc chính đáng và cần thiết là nhấn mạnh đến giá trị của triết học đối với việc hiểu biết đức tin, và đến những giới hạn mà triết học gặp khi lãng quên hay tẩy chay những chân lý của Mặc khải. Giáo hội xác tín một cách thâm sâu rằng đức tin và lý trí “hỗ trợ lẫn nhau”[99], thi hành chức năng sàng lọc hoặc khích lệ lẫn nhau, để tiến tới trong việc nghiên cứu và thâm hiểu.
101. Nếu chúng ta nhìn qua lịch sử của tư tưởng, nhất là ở Tây phương, ta dễ khám phá ra sự giầu có mà cuộc gặp gỡ giữa triết học và thần học, cùng sự trao đổi những thành tựu riêng của chúng, đã mang lại cho sự tiến bộ của nhân loại. Thần học, mà số mạng cởi mở và tính chuyên biệt giúp nó hiện hữu như khoa học về đức tin, chắc chắn đã kích thích lý trí cởi mở đón nhận tính mới mẻ triệt để, mà mặc khải của Thiên Chúa hàm chứa. Và điều đó hẳn đã có lợi cho triết học, vì đã thấy khai mở ra những phối cảnh mới về những ý nghĩa chưa từng có, mà lý trí có thiên chức để đào sâu.
Chính nhờ sự nghiệm thấy đó, như tôi đã nhắc lại rằng, thần học có bổn phận tái lập tương quan chính thức với triết học, thì tôi nghĩ cũng phải nhấn mạnh rằng triết học phải tìm lại mối liên hệ với thần học, để mưu thiện ích và sự phát triển cho tư tưởng thì mới thích hợp. Triết học sẽ tìm thấy trong thần học không phải sự suy tư cá nhân, thứ suy tư, dù có sâu sắc và phong phú, vẫn mang theo những cái nhìn có giới hạn, là đặc trưng của tư tưởng cá nhân, nhưng là sự phong phú của suy tư chung. Thần học, trong việc nghiên cứu chân lý, được nâng đỡ thực sự và theo bản chất bởi tính cách giáo hội của nó[100]. và bởi truyền thống của dân Thiên Chúa, nhờ sự triển nở phong nhiêu của những kiến thức và những nền văn hoá trong sự hiệp nhất của đức tin.
102. Khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng và đến những chiều kích chân thực của tư tưởng triết học như thế, Giáo hội cổ võ việc bảo vệ địa vị của con người một trật với việc loan báo sứ điệp Tin mừng. Để hoàn thành những phận vụ này, thực ra ngày nay không có sự chuẩn bị nào khẩn cấp hơn sự chuẩn bị sau đây : hướng dẫn con người khám phá ra khả năng của họ để nhận biết chân lý[101], và nguyện vọng của họ đạt tới ý nghĩa tối hậu và dứt khoát của cuộc sống. Trong phối cảnh của những đòi hỏi xâu xa này, đã được Thiên Chúa in vào bản tính nhân loại, ý nghĩa nhân bản và nhân bản hoá của lời Thiên Chúa càng trở thành rõ rệt. Nhờ sự trung gian của triết học, đã trở thành sự thông tuệ đích thực, con người hiện kim sẽ đi đến chỗ nhìn nhận rằng, càng cởi mở đón nhận Đức Kitô, bằng cách đặt tín nhiệm vào Tin mừng, họ càng là người hơn.
103. Đàng khác, triết học là như tấm gương trong đó phản chiếu văn hoá của các dân tộc. Một triết học, dưới sự thúc đẩy của những đòi hỏi của thần học, được phát triển ăn khớp với đức tin, là tham gia vào việc “phúc âm hoá nền văn hoá”, mà Đức Phaolô VI đã vạch ra như một trong các tiêu đích nền tảng của việc phúc âm hoá[102]. Đang khi tôi loan báo, không biết mỏi, sự khẩn trương của việc tân phúc âm hoá, tôi tha thiết kêu mời các triết gia đào sâu những chiều kích của điều chân, thiện, mỹ mà lời Thiên Chúa dẫn tới. Điều đó sẽ trở thành khẩn thiết hơn nếu người ta lưu ý đến những thách đố, mà thiên niên mới hình như sẽ tung ra, những thách đố sẽ liên hệ cách đặc biệt đến những miền và những nền văn hoá thuộc truyền thống kito giáo cố cựu. Mối bận tâm này cũng phải được coi như phần hùn nền tảng và độc đáo trên con đường tân phúc âm hoá.
104. Tư tưởng triết học thường là địa hạt duy nhất của sự hoà hợp và đối thoại với những ai không chia sẻ đức tin của chúng ta. Phong trào triết học đương đại đòi hỏi sự dấn thân khẳng khái và có hiệu lực của những triết gia Kitô hữu, có khả năng nhận ra những nguyện vọng, những cởi mở và những điều nghi nan trong thời buổi lịch sử này. Với một lý chứng đặt nền tảng trên lý trí, và phù hợp với những qui tắc của nó, đang khi các triết gia kitô giáo luôn luôn được hướng dẫn bởi sự hiểu biết phụ thêm mà lời Thiên Chúa cung cấp, họ có thể phát triển một lý luận, mà cả những người chưa tiếp thu được chân lý đầy đủ, do Mặc khải của Thiên Chúa giãi bày, cũng hiểu được và còn cho là lý chứng chín chắn. Ngày nay địa hạt hoà hợp và đối thoại này càng trở nên quan trọng khi nhiều vấn đề được đặt ra một cách khẩn thiết hơn cho nhân loại - chẳng hạn những vấn đề về môi sinh, về hoà bình và sự chung sống của các chủng tộc và các nền văn hoá - có thể được giải quyết nhờ sự hợp tác thành thực và đoan chính của những Kitô với những tín đồ của các tôn giáo khác, và với những người, dù không chia sẻ niềm xác tín của tôn giáo, nhưng tha thiết với việc canh tân của nhân loại. CĐC Vatican II đã khẳng định: “Niềm ước mong đối thoại đó chỉ do lòng yêu chân lý hướng dẫn, và dĩ nhiên vẫn giữ được sự khôn ngoan thích hợp; về phần chúng tôi, niềm ước vọng này không loại trừ ai hết : từ những nguời đang tôn thờ những giá trị tinh thần nhân bản cao quí mà chưa nhận biết Đấng Tạo Thành, đến những ai chống đối và bách hại Giáo hội nhiều cách”[103]. Một triết học trong đó phản chiếu phần chân lý nào đó của Chúa Kitô, là câu trả lời duy nhất và dứt khoát cho những vấn đề của con người[104], sẽ làm điểm tựa hiệu nghiệm cho một nền phong hoá đích thực, đồng thời là máy hành tinh mà nhân loại ngày nay cần đến.
105. Tôi phải kết thúc Thông điệp này bằng cách ngỏ lời một lần nữa và riêng với các thần học gia, để họ đặc biệt lưu ý đến những liên hệ triết lý của lời Thiên Chúa, và để họ thực hiện thứ suy tư làm phát hiện ra tính trù mật lý thuyết và thực hành của khoa thần học. Tôi xin cám ơn các thần học gia về công lao của họ trong việc phục vụ Giáo hội. Mối liên hệ mật thiết giữa thông tuệ thần học và kiến thức triết học, là một trong những sự giầu có rất nền tảng của truyền thống Kitô giáo để đào sâu chân lý mặc khải. Cho nên tôi khuyến khích các thần học gia lấy lại, và tận lực làm tăng giá chiều kích siêu hình của chân lý, để có thể đối thoại với tư tưởng triết học đương đại một cách phê bình và câu thúc, cũng như với mọi truyền thống triết học, chẳng kỳ là hoà hợp hay đối lập với lời Thiên Chúa. Ước chi các thần học gia luôn ghi lòng tạc dạ khẩu hiệu của vị thầy vĩ đại về tư tưởng và về linh đạo, là thánh Bonaventura, khi dẫn nhập vào Itinerarium mentis in Deum, thánh nhân đã mời gọi độc giả “đừng tưởng mình có thể thoả mãn với việc đọc mà không cảm động, với suy tư mà không sốt sáng, khám phá mà không ngạc nhiên, khôn ngoan mà không mừng rỡ, hoạt động và không đạo đức, tri thức mà không bác ái, hiểu biết mà không khiêm nhường, với sự học hành tách rời ân sủng của Chúa, với sự hồi suy tách rời sự thông tuệ do Thiên Chúa soi sáng”[105].
Ý nghĩ của tôi cũng hướng đến các vị đảm trách việc đào tạo linh mục về học vấn cũng như về mục vụ, để các vị đặc biệt chăm chú đến việc huấn luyện triết học cho những ai có bổn phận loan báo Tin Mừng cho con người thời nay, hơn nữa, cho những ai phải hiến thân dạy thần học và nghiên cứu. Ước chi các vị nỗ lực thi hành công việc theo ánh sáng những qui tắc của CĐC Vatican II[106] và những quuyết định hậu đính, làm nổi bật bổn phận cấp bách và cần thiết của mọi người phải tham gia vào việc thông đạt chính thức và sâu xa những chân lý đức tin. Đừng ai quên rằng trách nhiệm nghiêm trọng là phải bảo đảm lấy một ban giáo sư, được đào tạo trước cho đầy đủ, để dậy triết học trong các Chủng viện và trong những phân khoa của Giáo hội[107]. Việc đào luyện này cần phải được chuẩn bị trước bằng kiến thức thích hợp, lại phải được quan niệm một cách có hệ thống bằng cách để gia sản vĩ đại của truyền thống Kitô giáo trước mặt, và được theo đuổi bằng sự biện phân thích hợp trước những nhu cầu hiện nay của Giáo hội và của thế giới.
106. Tôi cũng xin mời gọi các triết gia và những giáo sư triết học can đảm tìm lại, trong vết tích của truyền thống triết học bất biến và có giá trị, những thể thức của sự thông tuệ chính thức và của chân lý, kể cả chân lý siêu hình, trong tư tuởng triết học. Ước chi các triết gia được hối thúc bởi những đòi hỏi phát xuất từ lời của Thiên Chúa, và ước chi họ được đủ nghị lực để điều khiển sự suy nghĩ và lập luận của họ theo sự hối thúc ấy. Ước chi họ luôn hướng về chân lý và chú ý đến điều thiện hàm chứa trong điều thật. Như vậy họ có thể đưa ra một thứ phong hoá chính thức, mà nhân loại đang cần đến một cách cấp thiết, nhất là trong những năm gần đây. Giáo hội theo rõi những nghiên cứu của họ một cách chăm chú và có thiện cảm; vì thế họ nên yên tâm về sự tôn trọng của Giáo hội đối với quyền độc lập chính đáng thuộc khoa học của họ. Tôi đặc biệt khích lệ các tín hữu hoạt động trong ngành triết học, để họ soi sáng những lãnh vực hoạt động nhân bản khác nhau, bằng cách tập luyện lý trí, thứ lý trí càng đón nhận sự nâng đỡ của đức tin càng trở nên chắc chắn, và hữu hiệu một ngày một hơn.
Tôi cũng không thể thiếu sót mà không hướng tới những nhà khoa học, những người nhờ các nghiên cứu của mình, mang lại cho chúng ta kiến thức phát đạt về vũ trụ trong tổng thể của nó, và về sự khác biệt phong phú lạ lùng của những thành tố có sinh sống cũng như vô hồn, với những cấu trúc hạt nhân phân tử phức hợp của nó. Trên lộ trình đã trải qua, nhất là trong thế kỷ này, họ đã vượt qua những chặng đường, không ngừng cảm kích chúng ta. Khi tỏ bày lòng ngưỡng mộ và những khích lệ của tôi đối với những nhà tiên phong dũng cảm trong việc nghiên cứu khoa học, nhờ họ mà nhân loại có được sự phát triển lớn lao hiện nay, tôi thấy có bổn phận khuyến khích họ theo đuổi những cố gắng của họ, đang khi luôn luôn sống trong tầm nhìn thông tuệ, trong đó những hiểu biết khoa học và kỹ thuật phối hợp với những giá trị triết lý và luân lý, là những biểu hiện riêng biệt và cốt yếu của nhân vị con người. Nhà khoa học ý thức rõ ràng rằng “sự tìm kiếm chân lý, dù liên hệ đến thực tại hữu hạn của thế giới hay của con người, thì vô tận, nhưng luôn luôn qui hướng về điều gì cao cả hơn là đối tượng học hỏi trực tiếp, về những vấn đề mở lối vào Mầu nhiệm[108].
107. Đối với mọi người, tôi xin các bạn suy nghĩ thâm sâu về con người, mà Đức Kitô đã cứu vãn bằng mầu nhiệm tình thương của Người, về sự con người nghiên cứu liên lỉ chân lý và ý nghĩa. Những hệ thống triết học khác nhau, nhờ phỉnh gạt, đã làm cho con người xác tín rằng mình là chủ tể tuyệt đối của chính mình, có thể quyết định một cách tự lập vận mạng và tương lai của mình, bằng cách cậy vào chính mình và vào những năng lực của mình. Sự cao cả của con người không bao giờ có thể là như thế. Để đạt được sự hoàn chỉnh nhân bản, quyết định duy nhất là chủ tâm đi đến chân lý, bằng cách xây dựng trú quán của mình dưới bóng của sự Thượng trí và trụ tại đó. Chỉ trong khát vọng chân lý con người mới biết sử dụng đầy đủ sự tự do và ơn gọi của mình, là yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, là sự hoàn chỉnh tối thượng của chính mình.
108. Tư tưởng sau cùng của tôi hướng về Đấng mà lời kinh của Giáo hội cầu khẩn như Toà Đấng Thượng trí. Cuộc đời của Người quả là ẩn dụ đích thực, có thể chiếu giãi ánh sáng trên suy tư mà tôi đã thực hiện. Quả thực, người ta có thể thoáng nhìn thấy sự hài hoà sâu xa giữa ơn gọi của Đức Trinh nữ diễm phúc, với ơn gọi của triết học chính thức. Cũng như Đức Trinh nữ được mời gọi hiến dâng toàn thể nhân loại tính và nữ tính của mình, để Ngôi Lời Thiên Chúa có thể nhập thể và trở thành một người trong chúng ta, thì triết học cũng được kêu gọi để thực thi công việc suy lý và phê bình của mình, để thần học trở thành sự hiểu biết phong nhiêu và hữu hiệu về đức tin. Và như Đức Maria, khi ưng thuận lời truyền tin của sứ thần Gabriel, không làm cho nhân loại tính và sự tự do chính thức của Người mất mát gì, thì tư tưởng triết học, khi đón nhận lời mời gọi phát xuất từ chân lý của Tin mừng, thì cũng không làm cho quyền tự lập của nó mất mát chi hết, nhưng còn thấy mình đạt được chỗ hoàn chỉnh cao cả trong mọi nghiên cứu của mình. Các vị ẩn sĩ thánh thiện của Kitô giáo cổ thời đã thấu hiểu chân lý này, khi các vị xưng tụng Đức Maria là cái bàn hiểu biết về đức tin. Các ngài nhìn thấy nơi Đức Maria hình ảnh mạch lạc của triết học đích thực, và các ngài xác tín rằng mình phải “được Đức Maria dạy cho biết lý luận.
Ưóc chi Toà Đấng Thượng trí là nơi trú ẩn cho những ai dành cả cuộc đời để nghiên cứu sự thông tuệ ! Ước chi con đường của sự thông tuệ, mục đích tối hậu và chính thức của mội kiến thức chân thật, được thoát ly khỏi mọi trở ngại, nhờ lời cầu bầu của Đấng, khi sinh ra Chân lý và giữ gìn chân lý trong lòng, mãi mãi chia sẻ chân lý ấy cho toàn thể nhân loại!
Ban hành tại Rôma gần đền thờ thánh Phêrô, ngày 14 tháng 9 năm 1998, lễ suy tôn Thánh giá, năm 20 triều đại Giáo hoàng của tôi.




Ghi chú: Người phiên dịch chỉ chuyển nghĩa một số cước chú, xét là cần thiết thôi. Xin độc giả kê cứu theo bản chính.
                                                          Khoa Kin



[1] Redemptor hominis. n. 19; AAS l979, p. 306.
[2] Niềm vui và Hy vọng, 16.
[3] Xc. Dei Filius III: DS 3008.
[4] Ibi. IV: DS. 3015; GS 59
[5] Ca tiếp liên “Lauda Sion...”
[6] Pensées 789
[7] Niềm vui và Hy vọng, số 22.
[8] Hiến chế Mặc khải, số 2.
[9] Préambule; 1;15: edit. M.Corbin, Paris (1968), pp. 223; 241; 266.
[10] De vera religione, XXXIX, 72 : CCL 32, p.234.
[11] Ut te semper desiderando quaererent et inveniendo quiescerent: Sách lễ Roma.
[12] Arist. Met I, 1.
[13] Conf. X, 23, 33 : CCL 27, p. 173.
[14] Xc. Tông thư Salvifici doloris, 11.2.1984, số 9 AAS 1984, pp. 209-210
[15] Xc. Nostra aetate, n. 2.
[16] Xc. Audience générale du 19 oct. 1983, nn. 1-2 : La Doc. cat. 1983, pp. 1071-1072.
[17] Xc. Jean Paul II, Discours à l’Académie pontificale des sciences, 10 nov. 1979 : La Doc. cat. 1979 p. 1010
[18] Origène, Contre Celse, 3, 55; SC 136, p.130.
[19] Dialogue avec Tryphon, 8,1: PG 6, 492.
[20] Stromates I, 18, 90,1 :SC 30, p. 115.
[21] Xc. Ibi .I, 16 80, 5 :SC 30, p. 108
[22] Xc. Ibi. I, 5, 28, 1 : SC 30, p. 65
[23] Ibi. VI, 7,55, 1-2; PG 9, 277.
[24] Ibi. I, 20,100, 1: SC 30, p. 124.
[25] Conf. VI, 5,7 : CCL 27, pp. 77-78.
[26] Xc. Ibi. VII, 9, 13-14 : CCL 27, pp.101-102
[27] De praescriptione haereticorum, VII, 9: SC 46 p.98 : “Quid ergo Athenis et Hierosolymis? Quid Academiae et Ecclesiae?
[28] Xc. Congrég. pour l’Education cat., Instruction sur l’étude des Pères de l’Eglise dans la formation sacerdotale (10 nov. 1989), n. 25 : AAS 1990, pp. 617-618
[29] “Ad te videndum factus sum, et nondum feci propter quod factus sum” S. Anselme, Proslogion 1: éd. M. Corbin, Paris, p. 239.
[30] Idem, Monologion, 64: éd. M.Corbi, Paris 1986, p.181
[31] Xc. S. Thomas d’Aquin, Somme contre les Gentils, I, VII
[32] Xc. S.Thomas d’Aquin, Somme théologique, I,q. 1, a.8, ad 2 : “cum enim gratia non tollat naturam sed perficiat”.
[33] Xc. Jean-Paul II, Discours aux participants au Congrès thomite inter-national (29 sept. 1990): Insegnamenti, XIII, 2 (1990), pp. 770-771
[34] Tông thư Lumen Ecclesiae (20 nov. 1974), số 8:AAS 1974, trg. 680
[35] Xc. I, q.1.a. 6: “Vả lại, đạo lý này được chinh phục bằng học hỏi. Còn sự thông tuệ có được là do phú bẩm và được liệt vào số bẩy ơn Chúa Thánh Thần”.
[36] S.T. II-II, q. 45, a. 1, ad 2; xc. II-II, q.45, a. 2.
[37] “Omne verum a quocumque dicatur a Spiritu Sancto est”. Ibi, I-II q. 109, a. 1, ad 1, thánh Thomas lặp lại câu nói thời danh của Ambrosiaster, In prima Cor. 12, 3: PL 17, 258
[38] Léon XIII, Thông điệp AETERNI PATRIS (4 aout 1879, ASS 1878-1879, p.109
[39] Paul VI, Tông thư Lumen Ecclesiae (20 nov. 1974), số 8: AAS 1974, trg. 683
[40] Thông điệp Redemptor hominis (4 mars 1979), số 15: AAS 1950, trg. 566.
[41] Xc. Pie XII, Thông điệp Humani generis (12 Aout 1950) AAS 1950, p. 566
[42] Xc CĐC Vat. I, Hiến chế tín lý Pastor aeternus: DS 3070; CĐC Vat. II, Hiến chế tín lý Lumen gentium số 25
[43] Xc.Synode de Constantinople :DS 403
[44] Xc. DS 205; DS 459-460; Sixte V, Bulle Coeli et terrae Creator (5 janv. 1586); Bullarium Rômanum 44, Rome(1747) pp.176-179; Urbain VIII, Inscrutabilis judiciorum (1er avril 1631) : Bullarium Rômanum 61, Rome (1758) pp 268-270
[45] Xc.CĐC Vienne, décret Fidei catholicae:DS 902; CĐC Latran V, Bulle Apostolici regiminis; DS 1440
[46] DS. 2751-2756; 2765-2769
[47] Xc. S.Congr. Indicis, Décret Theses contra traditionalismum Augustini Bonnetty (11 juin 1855): DS. 2811-2814.
[48] Xc. Pie IX, Bref Eximiam tuam (15 juin 1857) DS. 2828-2831; Bref Gravisssimum inter (11 décembre 1862): 2850-2861.
[49] Xc. S. Congr. du Saint Office, Décret Errores ontologistarum (18 sept. 1861): DS. 2841-2847.
[50] Xc. Hiến chế tín lý Dei Filius, II : DS. 3004; can 2, 1 : DS 3026.
[51] DS. 3015; GS 59.
[52] CĐC Vat. I, Hiến chế tín lý về đức tin công giáo, Dei Filius, IV: DS. 3017
[53] Xc.Thông điệp Pascendi dominici gregis (8 sept.1907), ASS 1907, pp. 596-597
[54] Xc. Pie XI, Thông điệp Divini Redemptoris (19 mars 1937), AAS, 1937, pp. 65-106
[55] Thông đệp Humani generis (12 aout 1950) AAS 1950, pp. 562-563
[56] Ibi l.c. pp.563-564
[57] Xc. Jean-Paul II Tông hiến Pastor bonus (28 juin 1988) art. 48-49; AAS 1988, p. 873; Thánh bộ giáo lý đức tin, Huấn thị Donum veritatis (24 mai 1990) số 18: AAS 1990, p. 1558
[58] Xc. Huấn thị Libertatis nuntius (6 aout 1984) VII-X: AAS (1984) pp. 890-903
[59] Với những lời lẽ rõ ràng và được phát biểu với uy thế, CĐC Vatican I đã lên án điều sai lầm này, một đàng khẳng định rằng “đối với đức tin [...] Giáo hội công giáo tuyên xưng, đây là một nhân đức siêu nhiên, nhờ đó, dưới sự soi sáng của Thiên Chúa và sự trợ giúp của ân sủng, chúng tôi tin những điều Người mặc khải cho cúng ta là chân thật, không phải vì chân lý nội tại được ánh sáng tự nhiên của lý trí nhận ra, mà vì chính Thiên Chúa mặc khải, Đấng không thể sai lầm cũng thể đánh lừa chúng ta” : Hiến chế tín lý Dei Filius, III: DS 3008; can. 3, 2: DS 3032. Đàng khác, CĐC cũng tuyên bố là lý trí tự nhiên không bao giờ “có thể thấu hiểu [những mầu nhiệm] cũng một cách như những chân lý thuộc về đối tượng riêng của nó”: ibi. IV: DS 3016. Từ đó dẫn xuất ra kết luận thực hành: “Những tín hữu chẳng những không được bảo vệ những ý kiến bị coi là nghịch với đức tin như là những kết luận hợp pháp của hoa học, nhất là khi những ý kiến ấy đã bị Giáo hội luận phi, trái lại phải coi chúng như những sai lầm ngụy trang dưới bộ dạng chân lý” ibi, IV: DS 3018.
[60] Xc. Thông điệp Humani generis, (12 aout 1950) AAS (1950) pp. 565-567; 571-573
[61] Xc.Thông điệp AETERNI PATRIS (4 aout 1879) ASS (1878-1879 pp. 97-115
[62] Ibi: l.c. p. 109
[63] ” Sắc lệnh về đào tạo linh mục Optatam totius, số 15.
[64] Xc. Jean-Paul II Const. apost. Sapientia christiana (15 avril 1979, art. 79-80: AAS (1979) pp. 495-496; Exhort. apost. post-synodale Pastores dabo vobis (25 mars 1992,n. 52: AAS (1992) pp. 750-751; Discours à l’Athénée pont. intern .Angelicum (17 nov. 1979): La Doc. cat. (1979), pp. 1067-1071; Discours aux participants du VIIIe Congrès thomiste intern. (13 sept. 1980): Insegnamenti III, 2 (1980) pp. 604-615; Discours aux participants au Congrès intern. de la Société “Saint Thomas” sur la doctrine de l’âme chez saint Thomas (4 janv. 1986): La Doc. cat. (1986), pp. 235-237; S. Congr. pour l’Education cath. Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis (6 janv. 1970) nn. 70-75: AAS (1970) pp. 366-368; Décret Sacra Theologia (20 janv. 1972): AAS (1972) pp. 583-586.
[65] Xc. Hiến chế Niềm vui và Hy vọng, số 57, 62
[66] Xc. Niềm vui và Hy vọng, số 44
[67] Xc. Bulle Apostolici regimini sollicitudo, Session VIII : Conc. oecum. Decreta (1991),pp. 605-606
[68] Xc. CĐC Vat. II, Hiến chế về Mặc khải, số. 10
[69] Thánh Thomas Aquino, Tổng luận thần học. II.II q.5 a.3 ad 2
[70] “Việc tìm hiểu xem, trong những điều kiện nào, con người tự đặt ra cho mình những câu hỏi cơ bản và đầu tiên về ý nghĩa của cuộc đời, về mục đích mà nó muốn vạch ra và về điều chờ đợi nó sau khi chết, làm thành khai đoạn cần thiết (préambule nécessaire) cho thần học nền tảng, để ngay hiện nay đức tin cũng có thể chỉ đường một cách đầy đủ cho lý trí thành thực tìm kiếm chân lý”: Jean-Paul II, Lettre aux par-ticipants au Congrès de la théologie fondametale organisé pour 125e anniversaire de la Const. dogm. Dei Filius (30 sept. 1995), n. 4: La Doc. cat. (1995) pp. 972-973
[71] Như vừa trích dẫn.
[72] Xc. Hiến chế Niềm vui và Hy vọng, số 15; Sắc lệnh Đến với các Dân tộc, số 22.
[73] S.Thomas d’Aquin, De coelo 1, 22
[74] Xc. Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, số 53-59.
[75] Thánh Augustino, De praedestinatione sanctorum, 2, 5:.PL 44, 963.
[76] Thánh Augustino, De fide, spe et caritate, 7: CCL 64, p.6.
[77] CĐC Chalcédoine, Symbole, Définition: DS 302.
[78] Xc. Gioan Phaolô II, Thông điệp Đấng Cứu chuộc con người (4.3. 1979), số 15: AAS (1979) pp. 286-289.
[79] Xc. th. Thomas Aquino, Tổng luận Thần học, I q.16, a.1; th. Bonaventura, Coll. in Hex., 3, 8, 1
[80] Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, số 15.
[81] Gioan Phaolô II, Thông điệp, Sự rạng ngời của chân lý (6.8.1993), số. 57-61: AAS (1993), tr. 1179-1182.
[82] Xc.CĐC Vat. I Hiến chế tín lý Con Thiên Chúa, IV: DS 3016
[83] Xc. CĐC Lat. IV. Về sai lầm của viện phụ Joachim, II : DS 806
[84] Xc. CĐC Vat. II Hiến chế tín lý về Mặc khai, Dei Verbum, số 24; Sắc về đào tạo linh mục Optatam totius, số 16.
[85] Xc. Gioan Phaolô II, Thông điệp, Tin mừng về sự sống (25. 3. 1995) số 69.
[86] Xc. Gioan Phaolô II, Thông điệp Đấng Cứu chuộc con người, số 12. AAS (1979), pp. 280-281.
[87] Discours à l’ouverture du Concile (11 nov. 1962): AAS (1962), p. 792.
[88] Congr. pour la Doctrine de la Foi, Instruction sur la Vocation ecclé-siale du Theologien, Donum veritatis (24 mai 1990), nn. 7-8 : AAS (1990), pp.1552-1553
[89] Xc. Gioan Phaolô II, Thông điệp Dominum et vivificantem, số 6 : AAS (1986) pp. 815-816.
[90] Xc. Hiến chế tín lý về mặc khải, Dei Verbum, n. 13
[91] Xc. Commission biblique pontificale, Instruction sur la vérité historique des Evangiles (21 avril 1964) :AAS (1964), p. 713.
[92] “Cũng hiển nhiên là Giáo hội không thể cấu kết với bất cứ hê thống triết học nào chỉ chế ngự trong một thời gian vắn; nhưng những biểu thức được kiến lập, qua nhiều thế kỷ, với sự đồng thuận của các Tiến sĩ công giáo, để hiểu biết phần nào tín điều, quả không nương tựa trên nền tảng mong manh đâu. Quả thực, những biểu thức được xây dựng trên những nguyên lý và những quan niệm dẫn xuất bởi sự nhận thức chân thực những vật thụ tạo; trong việc suy diễn những nhân thức này, chân lý mặc khải như ngôi sao đã soi sáng trí tuệ con người, qua trung gian của Giáo Hội. Vì thế, không có chi phải ngạc nhiên, nếu một số những quan niệm chẳng những được dùng trong các Công Đồng Chung, hơn nữa còn được phê chuẩn đến độ không được phép tẩy chay”: AAS (1950), pp. 566-567; xc. La Documentation catholique, 1990, pp. 489-502.
[93] “Còn về ý nghĩa của những công thức tín lý, ý nghĩa ấy luôn luôn đúng và vẫn y nguyên trong Giáo hội, cả khi nó trở thành sáng sủa hơn và được hiểu biết một cách toàn diện hơn. Vậy những tín hữu phải coi chừng ý kiến mà ta có thể lược tóm như sau : trước hết những công thức tín lý, hay một loại nào trong các công thức ấy, không thể biểu thị chân lý một cách nhất định, nhưng chỉ biểu thị những xích lại gần đang đổi thay của chân lý, làm cho nó biến dạng và sai lệch” (S. Congr. pour la Doctrine de la Foi, Déclaration sur la doctrine catholique concernant l’Eglise, Mysterium Ecclesiae (24 juin 1973) n. 5 : AAS (1973), p.403.
[94] Xc. Congr. du Saint-Office, Décret Lamentabili (3 juillet 1907),n. 26 : ASS (1907), p.473.
[95] Xc. Jean-Paul II, Exhort. apost. Catechesi tradendae (16.10. 1979), n. 30: AAS (1979), pp.1302-1303; Congr. pour la Doctrine de la Foi, Instruction sur la vocation ecclésiale du theologien Donum veritatis (24 mai 1990), n. 7: AAS (1990) pp. 552-1553
[96] Xc. Jean-Paul II, Exhort. apost. Catechesi tradendae, n. 30: AAS (1979), pp.1302-1303.
[97] Ibi. n. 22, l.c. p. 1282.
[98] Ibi. n. 59 :l.c.p. 1325
[99] CĐC Vat. I Hiến chế tín lý Con Thiên Chúa, IV : DS 3019
[100] “Không ai có thể coi thần học như thể chỉ hệ tại việc thuyết trình những tư tưởng cá nhân của mình; nhưng ai nấy phải ý thức là mình liên kết chặt chẽ với sứ vụ giảng dạy chân lý, mà Giáo hội đảm trách” (Jean-Paul II, Encycl. Redemptor hominis (4 mars 1979) n. 19 : AAS 1979, p. 308).
[101] Xc. CĐC Vat. II, Tuyên ngôn về sự tự do tôn giáo; Phẩm giá con người, các số 1-3
[102] Xc. Exhort. apost. Evangelii nuntiandi (8 dec. 1975), n. 20 :AAS (1976), pp 18-19
[103] Hiến chế mục vụ : Niềm vui và Hy vọng, số 92.
[104] Xc. Niềm vui và Hy vọng số 10
[105] Opera omnia, Florence 1891, t.V p. 296.
[106] Xc. Sắc lệnh Optatam totius n. 15.
[107] Xc. Gioan Phaolô II, Tông hiến Sapientia christiana, (15.4.1979), art. 67-68 : AAS (1979) pp. 491-492.
[108] Gioan Phaolô II, Diễn văn kỷ niệm 600 năm thành lập Đại học Jagellone, Cracovie (8. 6.1997) số 4 : La Doc. cath. (1997) p. 677.

10 nhận xét:

  1. Thật tuyệt vời, cam ơn anthanh rất nhiều. Nguyện xin Chúa chúc lành cho những việc làm tót lành.
    Tôi rảo quanh nhiều trang website Công Giáo để tìm Thông điệp này, nhưng chỉ có lời giới thiệu hoặc bài tóm lược. May quá, tạ ơn Chúa, nhờ anthanhlinhgiang.blogspot.com mà tôi đã tìm được điều mình muốn. Thông điệp này giúp tôi xác tín hơn về những gì mình truyền đạt cho lớp Giáo lý mà tôi đang hướng dẫn.

    Trả lờiXóa
  2. xin Chúa chúc lành cho những việc làm của anh! Cảm ơn anh nhiều, chúc anh một mùa chay thánh thiện và nhiều niềm vui trong cuộc sống. Nhờ anh mà nhiều người có được Thông Điệp của Đức Thánh Cha.

    Trả lờiXóa
  3. Cảm ơn các bạn đã để lại những lời chúc tốt đẹp. Vì thời gian hạn hẹp quá nên một số lớn các văn kiện mà anthanhlinhgiang đã sưu tập được vẫn nằm cứng trong máy chứ chưa đăng lên được. Hy vọng thời gian tới anthanhlinhgiang sẽ đưa đươc toàn bộ lên. Cộng với những đóng góp của mọi người, hy vọng chúng ta sẽ có một bộ sưu tập thật phong phú và có ích!

    Trả lờiXóa
  4. anthanhlinhgiang ơi, màu sác nền và màu chữ em khó nhìn quá, sao thánh linh mà hơi thiếu ánh đúng hông? cam on nhieu.

    Trả lờiXóa
  5. Cảm ơn bạn đã góp ý, chắc là mình sẽ chuyển thành dạng nền trắng chữ đen theo lối cổ điển thôi. Màu mè chỉ thêm lằng nhằng thôi bạn nhỉ?
    Mặt khác, cái chính mà mọi người cần là các văn bản chứ không phải lòe loẹt như quảng cáo...?!!!
    À... anthanhlinhgiang chỉ đơn giản là an-thanh-linh-giang thôi bạn à. Không phải "Thánh linh" đâu...

    Trả lờiXóa
  6. em cảm ơn anh vì đã cung cấp cho độc giả nhiều thông điệp, tông thư.... của Giáo Hội. đây là công việc rất âm thầm nhưng lại giúp ích rất nhiều cho những ai muốn tìm hiểu về các giáo huấn của Giáo Hội. nguyện xin Chúa ban xuống trên anthanhlinhgiang tràn đầy ân sủng, bình an và sức khỏe để tiếp tục cống hiến cho cho độc giả kho báu quý giá là đức tin của Giáo Hội.nguyện xin Chúa qua lòi chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Hằng Cứu Giúp ban cho anthanhlinhgiang được tràn đầy ơn Chúa.
    cám ơn anh
    chào anh
    Nguyen Dinh

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cảm ơn bạn Nguyen Dinh đã cho những lời động viên quý báu. Xin Chúa ở với bạn.

      Xóa
  7. em xin góp ý: nên tạo một phông nền sáng hơn để độc giả có thể dễ dàng tìm kiếm và đọc các tiêu đề của bài
    cảm ơn anh

    Trả lờiXóa
  8. Em cam on tac gia da day cong tim toi va trinh bay nhung thong diep va huan quyen cua Giao Hoi...Theo em, neu duoc thi tac gia cho mau chu dam hon thi dep! Em chan thanh cam on...

    Trả lờiXóa

Nhận xét!