LƯU Ý

Đây là những văn bản Huấn quyền của Giáo Hội mà anthanhlinhgiang đã thu thập được trong nhiều năm và từ nhiều nguồn khác nhau - có thể từ internet hoặc có thể từ những người thiện chí gửi đến. Vì thế có những văn bản không rõ nguồn được lấy từ đâu hoặc có thể không có tính chính xác trong khi dịch thuật hoặc đã bị chỉnh sửa. Vì vậy trong quá trình sử dụng, bạn nào thấy có điều bất trắc, xin vui lòng báo lại để anthanhlinhgiang điều chỉnh hoặc gỡ bỏ.

Những văn bản có nguồn gốc thì anthanhlinhgiang sẽ ghi rõ ràng để các bạn yên tâm.

Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2011

ĐTC Gioan Phaolô II - Tông huấn về hoà giải và sám hối trong sứ mạng của Hội Thánh ngày nay - Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Gám mục (Phần II)




TÔNG HUẤN
HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG
VỀ HÒA GIẢI VÀ SÁM HỐI TRONG SỨ MẠNG
CỦA HỘI THÁNH NGÀY NAY
Giáo hoàng Gioan Phaolô II,
gởi các giám mục, giáo sĩ và tín hữu

(PHẦN II)


Dịch theo Bản Anh văn :
On Reconciliation and Penance
in the Mission of the Church today
St. Paul Editions


PHẦN III
MỤC VỤ SÁM HỐI VÀ HÒA GIẢI
CỔ VÕ VIỆC SÁM HỐI VÀ HÒA GIẢI
23. Việc khơi dậy trong tâm hồn con người lòng hoán cải và sám hối và việc trao ban cho họ ơn hòa giải là sứ mạng chuyên biệt của Hội Thánh nhờ thế công trình cứu chuộc của Đấng Sáng Lập được tiếp tục. Sứ vụ này không bị hạn chế vào một số xác quyết lý thuyết cũng như việc đề ra một lý tưởng đạo đức mà không kèm theo đó những nghị lực cần thiết để thực hiện lý tưởng ấy. Sứ mạng đã tìm cách diễn tả ra những công việc xác định của thừa tác vụ nhắm tới việc thực hành cụ thể bí tích sám hối và hòa giải.
Thừa tác vụ này, được đặt nền và được soi dẫn do những nguyên lý đức tin đã được trình bày trên đây, hướng về những mục tiêu cụ thể, và được nâng đỡ bởi những phương tiện tương xứng, chúng ta có thể gọi đó là mục vụ sám hối và hòa giải. Khởi điểm của nó là điều xác tín của Hội Thánh rằng, con người mà mọi hình thức mục vụ - đặc biệt mục vụ về sám hối và hòa giải - nhắm đến là con người mang dấu ấn tội lỗi mà Đa-vit là ví dụ điển hình cho chúng ta. Khi đón nhận những lời khiển trách của Na-than, Đa-vit đã chấp nhận đương đầu với tội ác của chính mình và ông thú nhận “Tôi đã phạm tội chống lại Đức Chúa” . Ông tuyên bố :“Phải, tôi biết tội mình, lỗi lầm tôi luôn ở trước mặt tôi” . Nhưng ông cũng cầu xin :”Xin rửa tôi bằng cành hương thảo và tôi sẽ được tinh tuyền, xin rửa và tôi sẽ trắng hơn tuyết” . Và ông đã nhận được lời đáp trả của Thiên Chúa thương xót:"Chúa đã tha thứ tội con, con sẽ không chết” .
Vì thế Hội Thánh đứng trước con người - trước toàn thể nhân loại- tổn thương do tội và bị tội tấn công nơi thâm sâu của hữu thể ; nhưng đồng thời con người lại được thúc đẩy bởi một ước muốn không thể cưỡng lại là được giải thoát khỏi tội, và, đặc biệt nếu người ấy là Kitô hữu, họ ý thức rằng mầu nhiệm đạo thánh (pietas), tức Đức Giêsu Kitô đang hoạt động nơi họ và nơi thế giới nhờ quyền năng của ơn cứu chuộc.
Vì thế nhiệm vụ hòa giải của Hội Thánh phải được thể hiện ra phù hợp với mối dây thâm sâu nối kết chặt chẽ ơn tha thứ và việc tha tội của mỗi người với việc hòa giải căn bản và trọn vẹn của nhân loại được thực hiện nhờ ơn cứu chuộc. Mối dây này làm cho chúng ta hiểu rằng nếu tội là nguyên lý tác động việc chia rẽ - chia rẽ con người với Đấng Tạo Hóa, chia rẽ trong con tim và trí óc của con người, chia rẽ những cá nhân và nhóm người với nhau, chia rẽ con người với thiên nhiên được dựng nên bởi Thiên Chúa - thì chỉ có việc hoán cải quay lưng lại với tội mới có khả năng thực hiện một cuộc hòa giải sâu xa và bền bỉ tại những nơi mà sự chia rẽ đã thâm nhập.
Không cần phải nhắc lại ở đây điều mà tôi đã bàn về tầm quan trọng của “tác vụ hòa giải”  và việc mục vụ tương đương thực thi tác vụ này trong ý thức và đời sống của Hội Thánh. Việc mục vụ này sẽ thiếu hụt đi một khía cạnh cốt yếu và sẽ bỏ qua một trong những nhiệm vụ tất yếu của nó nếu “sứ điệp hòa giải”  không được công bố cách vững chắc và rõ ràng trong lúc thuận cũng như lúc nghịch, và nếu ơn hòa giải không được trao cho thế giới. Nhưng thật thích hợp để nhắc lại tầm quan trọng của việc phục vụ ơn hòa giải của Hội Thánh lan rộng đến toàn thế giới, vượt khỏi các biên cương của Hội Thánh
Như thế, bàn về mục vụ sám hối và hòa giải có nghĩa là kể ra các nhiệm vụ Hội Thánh, ở trên mọi bình diện, nhằm quảng bá nó. Một cách rõ rệt hơn, nói về mục vụ này có nghĩa là khơi dậy tất cả mọi hoạt động qua đó Hội Thánh, nhờ tất cả và từng phần tử - Mục tử và giáo dân, ở mọi tầng lớp và mọi môi trường, và bằng tất cả những phương tiện có trong tầm tay, qua hành động, lời nói, qua việc dạy dỗ và cầu nguyện - Hội Thánh dẫn đưa con người, cá nhân hay tập thể, đến việc sám hối thực sự và như thế dẫn đưa họ vào con đường hòa giải trọn vẹn.
Các nghị phụ của Thượng Hội Đồng - với tư cách là đại diện cho các Giám mục anh em, và là những người hướng dẫn đoàn dân được trao phó - đã quan tâm tới những yếu tố thực tiễn và cụ thể nhất của việc mục vụ này. Và tôi sung sướng được làm tiếng vang cho họ bằng việc liên kết mình với những nỗi lo lắng và những hy vọng của họ, bằng việc đón nhận những thành quả của công cuộc tìm kiếm và kinh nghiệm của họ, bằng việc khích lệ họ trong những dự án và những công tác thực thi. Hy vọng họ sẽ tìm thấy trong phần này của sứ điệp sự đóng góp của họ vào Thượng Hội Đồng, phần góp mà tôi cũng muốn dựa vào trong những trang sau để làm lợi cho Hội Thánh.
Vì thế tôi thấy rất đúng lúc để đưa ra ánh sáng những nét căn bản về việc mục vụ sám hối và hòa giải khi quảng diễn hai điểm sau :
1. Những phương tiện được dùng và những đường lối Hội Thánh theo đuổi để cổ vũ việc sám hối và hòa giải.
2. Bí tích Sám hối và Hòa giải.
CHƯƠNG I
SỰ CỔ VŨ CHO VIỆC SÁM HỐI VÀ HÒA GIẢI
NHỮNG PHƯƠNG THẾ VÀ ĐƯỜNG LỐI
24. Để cổ vũ việc sám hối và hòa giải, Hội Thánh có trong tầm tay hai phương thế được chính Đấng Sáng Lập giao phó : Huấn giáo và các bí tích. Hội Thánh thực thi chúng theo cách thức mà Hội Thánh xét thấy hoàn toàn phù hợp với những đòi hỏi của sứ mạng cứu độ và đồng thời đáp trả được những đòi hỏi và những nhu cầu thiêng liêng của con người ở mọi thời đại ; dưới những thể thức và đường lối mới và cũ. Trong những thể thức ấy, rất tốt để nhắc lại một cách đặc biệt điều mà chúng ta gọi là phương pháp đối thoại, tiếp theo đấng tiền nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI.
ĐỐI THOẠI
25. Đối với Hội Thánh, đối thoại là một phương thế xét theo một nghĩa nào đó, và đặc biệt là một đường lối để hành động trong thế giới hiện đại.
Thật vậy, Công dồng Vaticano II tuyên bố rằng :“Theo như sứ vụ của Hội Thánh là phải soi sáng toàn vũ trụ bằng sứ điệp Tin Mừng và qui tụ mọi người trong Thần khí duy nhất ... Hội Thánh xuất hiện như một dấu hiệu của tình huynh đệ làm cho cuộc đối thoại chân thành trở nên khả dĩ và mạnh sức”. Sau đó Công đồng nói thêm rằng Hội Thánh phải có khả năng “thiết lập một cuộc đối thoại không ngừng mở rộng giữa mọi thành phần làm nên Dân Chúa duy nhất”  , cũng như có khả năng “thiết lập một cuộc đối thoại với xã hội nhân loại”  .
Đấng tiền nhiệm của tôi Đức Phaolô VI đã dành một phần đáng kể trong thông điệp đầu tiên của ngài Ecclesiam suam để bàn về đối thoại, trong đó người mô tả và biểu thị đặc tính của nó một cách có ý nghĩa như là một cuộc đối thoại cứu độ .
Thật vậy Hội Thánh sử dụng phương pháp đối thoại để đưa nhiều người hơn - những người tự nhận mình là thành phần của cộng đoàn Kitô hữu nhờ bí tích Thanh tẩy và lời tuyên xưng đức tin cũng như những người ở ngoài cộng đoàn - đến với việc hoán cải và sám hối, trên con đường đổi mới sâu sắc lương tâm và đời sống của họ, dưới ánh sáng của mầu nhiệm cứu chuộc và cứu độ được thực hiện nhờ Đức Kitô và phó thác cho tác vụ của Hội Thánh. Như thế, cuộc đối thoại chân thật trước tiên nhắm đến việc tái tạo mỗi người, bằng việc hoán cải nội tâm và bằng sám hối, trong khi vẫn tôn trọng cách sâu xa lương tâm của ho, trong tiến trình kiên nhẫn và tiệm tiến mà điều kiện con người ngày nay đòi hỏi.
Cuộc đối thoại mục vụ nhắm đến việc hòa giải ngày nay vẫn luôn là một cuộc dấn thân căn bản của Hội Thánh trong nhiều lãnh vực và cấp độ khác nhau.
Trước hết Hội Thánh cỗ vũ cách đối thoại đại kết, có nghĩa là với các giáo hội và các cộng đoàn giáo hội cùng tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ duy nhất. Hội Thánh cũng cổ vũ đối thoại với các cộng đoàn khác của những con người tìm Chúa và muốn có một sự liên kết với Ngài.
Làm nền cho cuộc đối thoại như vậy với các giáo hội khác, với các cộng đoàn giáo hội và với các tôn giáo khác - đó cũng là điều kiện của tính khả tín và tính hiệu lực của đối thoại - cần có một nỗ lực chân thật để đối thoại liên lỉ và mới mẻ ngay trong lòng của chính Hội Thánh Công giáo. Tự bản tính, Hội Thánh ý thức mình là bí tích của sự hiệp thông phổ quát của đức ái , nhưng đồng thời cũng ý thức luôn những căng thẳng hiện diện trong nội bộ và có nguy cơ trở thành những yếu tố gây chia rẽ.
Lời kêu gọi cương quyết và đầy thống thiết nơi vị tiền nhiệm của tôi dịp Năm Thánh 1975 ngày nay vẫn còn hiệu lực . Để có thể vượt qua những tranh chấp và tránh cho những căng thẳng không gây nguy hại đến sự hợp nhất của Hội Thánh, tất cả chúng ta phải tự đặt mình trước lời Chúa ; chúng ta phải loại bỏ những cái nhìn chủ quan và cần tìm kiếm chân lý ở nơi có chân lý, có nghĩa là trong Lời Chúa và trong việc giải thích thính thức do Huấn quyền Hội Thánh. Dưới ánh sáng đó, việc lắng nghe lẫn nhau ; sự tôn trọng và tránh những xét đoán hấp tấp, sự kiên nhẫn, khả năng tránh cho niềm tin gây liên kết phải chịu lệ thuộc vào những ý kiến, những thời trang, những lựa chọn ý thức hệ gây chia rẽ : tất cả những điều này tạo nên bấy nhiêu đức tính cho cuộc đối thoại cần được theo đuổi trong lòng Hội Thánh một cách bền bỉ, cởi mở và chân thành. Hiển nhiên cuộc đối thoại sẽ không mang những đức tính và cũng sẽ không trở thành yếu tố hòa giải nếu huấn quyền không được lắng nghe và chấp nhận.
Dấn thân một cách có hiệu quả trong việc tìm kiếm sự thông hiệp nơi chính nội bộ của mình, Hội Thánh Công giáo có thể kêu gọi một cuộc hòa giải, như đã từng làm từ thời xa xưa, đối với các Giáo Hội khác chưa được thông hiệp trọn vẹn cũng như đối với các tôn giáo khác cùng những người tìm kiếm Chúa với lòng chân thành. Điều này Hội Thánh mới bắt đầu thực hiện gần đây.
Dưới ánh sáng của Công đồng và Huấn quyền của các đấng tiền nhiệm mà tôi đã nhận được từ đó một gia sản quý báu cần phải được giữ gìn và đem ra áp dụng, tôi có thể xác quyết rằng Hội Thánh Công giáo, ở mọi cấp bậc đang thành thực dấn thân trong cuộc đối thoại đại kết, vừa tránh thái độ lạc quan dễ dãi, nhưng cũng tránh thái độ đố kỵ, dè dặt hay chần chừ. Những quy luật căn bản mà Hội Thánh Công giáo tìm cách theo đuổi trong cuộc đối thoại này là, một mặt xác tín rằng, chỉ có cuộc đại kết thiêng liêng - đặt nền tảng trên kinh nguyện chung và sự vâng phục cùng một Đức Chúa duy nhất – mới cho phép trả lời cách chân thành và nghiêm túc cho những đòi hỏi khác của công cuộc đại kết  . Mặt khác, sự xác tín rằng một vài thái độ nhân nhượng (irenisme) dễ dãi về đạo lý và nhất là trong tín lý có thể đưa đến hình thức “sống chung”, hời hợt và chiếu lệ, nhưng không phải là sư hiệp thông sâu xa và bền vững mà chúng ta mong ước. Người ta sẽ đạt được sự hiệp thông này vào giờ Đấng Quan Phòng muốn, nhưng để đạt tới, Hội Thánh Công Giáo, trong những gì liên hệ với mình, biết rằng cần phải mở rộng và nhạy cảm với tất cả “những giá trị thực sự kitô bắt nguồn từ gia sản chung và cũng gặp thấy nơi các anh em ly khai” , nhưng Hội Thánh Công giáo cũng biết rằng cần phải đặt nền tảng của cuộc đối thoại chân thành và xây dựng, dựa trên một sự rõ ràng về những lập trường của mình, và dựa trên sự trung thành và sự gắn bó với đức tin được chuyển giao và được tuyên định bởi Huấn quyền trong sự liên tục của truyền thống Kitô giáo. Mặt khác, mặc dù có sự đe dọa của một não trạng sợ thất bại nào đó, và dù có sự chậm trễ không thể tránh được và cách hành động vụng về không phù hợp, Hội Thánh Công giáo vẫn tiếp tục tìm kiếm những con đường dẫn về hợp nhất cùng với các anh em kitô hữu, và tìm kiếm sự đối thoại thành thật cùng với các tín đồ của các tôn giáo khác. Ước mong cuộc đối thoại liên tôn này vượt qua được mọi thái độ thù nghịch, nghi kị, kết án lẫn nhau và ngay cả những sự lăng nhục lẫn nhau ! Đó là điều kiện mở đầu để chúng ta có thể gặp nhau ít nhất là trong niềm tin vào Thiên Chúa độc nhất và sự xác tín cuộc sống vĩnh cửu dành cho linh hồn bất tử. Và đặc biệt hơn, cầu xin Chúa cho cuộc đối thoại đại kết đưa đến cuộc hòa giải chân thật trong khung cảnh của tất cả những gì chúng ta đã có chung cùng với các giáo hội Kitô giáo khác : niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu thế và là Chúa ; việc lắng nghe Lời Chúa ; việc nghiên cứu Mạc khải, bí tích Rửa tội.
Trong mức độ mà Hội Thánh có khả năng sản sinh một sự hòa hợp tích cực - hiệp nhất trong sự đa dạng - ngay chính giữa lòng mình và có thể hiến mình như là chứng nhân và tác nhân trung thành của sự hòa giải đối với các Giáo Hội và Cộng Đoàn giáo hội khác cũng như các tôn giáo khác, thì Hội Thánh trở thành “thế giới được hòa giải” theo như định nghĩa đầy ý vị của thánh Augustin . Lúc đó, Hội Thánh có thể là dấu chỉ của sự hòa giải trong thế giới và cho thế giới.
Khi ý thức về tình cảnh cực kỳ nghiêm trọng tạo nên bởi những động lực gây chia rẽ và chiến tranh, tình cảnh cấu tạo nên cho ngày nay một sự đe dọa nặng nề không những ảnh hưởng đến sự thăng bằng hòa điệu của các quốc gia mà còn ảnh hưởng đến sự sống còn của nhân loại, Hội Thánh cảm thấy có nhiệm vụ phải đề nghị và đóng góp hợp tác đặc biệt để vượt qua những tranh chấp và tái lập sự hòa hợp.
Đây là một cuộc đối thoại phức tạp và tế nhị cho hòa giải. Hội Thánh dấn bước vào trước hết bằng hành động của Tòa Thánh và các cơ quan khác của Tòa Thánh. Có thể khẳng định rằng Tòa Thánh cố gắng can thiệp nơi các vị cầm quyền các nước và những người chức trách của nhiều cấp thẩm quyền quốc tế, hoặc cộng tác với họ, đối thoại với với họ, hoặc mời gọi họ đối thoại với nhau, làm thuận lợi cho việc hòa giải ngay giữa nhưng cuộc xung đột. Tòa Thánh làm những việc ấy không vì những hậu ý, hoặc những lợi ích thầm kín - bởi vì Tòa Thánh không có ý như thế - mà chỉ vì ưu tư nhân đạo , đặt cơ cấu và uy tín tinh thần của mình - cả hai chỉ là một - để phục vụ cho sự hòa hợp và hòa bình. Tòa Thánh làm việc ấy trong niềm xác tín rằng, “trong cuộc chiến, hai bên nổi lên chống nhau”, cũng thế “trong vấn đề hòa bình, hai bên cùng biết tình nguyện và cam kết” và như vậy “người ta tìm được ý nghĩa đích thực của đối thoại cho hòa bình” .
Trong công cuộc đối thoại cho hòa giải, Hội Thánh cũng bắt đầu qua các giám mục, theo thẩm quyền và trách nhiệm riêng, hoặc từng vị trong việc hướng dẫn giáo phận riêng, hoặc hợp nhất trong Hội đồng giám mục, với sự cộng tác của các linh mục và của tất cả các thành viên trong các cộng đồng Kitô hữu. Các vị trung thành chu toàn bổn phận khi cổ vũ cuộc đối thoại cần thiết, và khi công bố những yêu cầu của con người cũng như của Kitô hữu muốn hòa giải và hòa bình. Hiệp thông với các chủ chăn, các giáo dân mà “môi trường của hoạt động Phúc Âm hóa là thế giới rộng lớn và phức tạp của chính trị, xã hội kinh tế và của đời sống quốc tế” , giáo dân được gọi trực tiếp dấn thân vào cuộc đối thoại hay cổ võ đối thoại cho hòa giải. Cũng nhờ cộng tác trung gian của họ mà Hội Thánh chu toàn hành động hòa giải của mình. Sự tái sinh của các tâm hồn qua việc hoán cải và sám hối là điều tiên quyết cơ bản và là nền tảng chắc chắn của mọi cuộc đổi mới xã hội bền bỉ và hòa bình giữa các quốc gia.
Cần nhắc lại rằng, về phần Hội Thánh và các thành phần Hội Thánh, cuộc đối thoại bất kỳ diễn ra dưới hình thức nào - những hình thức này thường là có thể rất khác nhau, bởi vì quan niệm đối thoại có một giá trị loại suy - cuộc đối thoại vẫn không bao giờ có thể khởi đầu từ thái độ dửng dưng với chân lý. Trái lại cuộc đối thoại cần được trình bày chân lý một cách thanh thản, với lòng tôn trọng sự hiểu biết và lương tâm người khác. Cuộc đối thoại hòa giải sẽ không thể thay thế hay giảm nhẹ việc loan báo chân lý Tin mừng, mà mục đích là hoán cái tội nhân và hiệp thông với Chúa Kitô và Hội Thánh. Cuộc đối thoại phải phục vụ cho việc truyền thông chân lý đó qua các phương tiện mà Đức Kitô đã để lại cho Hội Thánh để làm mục vụ giao hòa : huấn giáo và sám hối.
HUẤN GIÁO
26. Trong lãnh vực rộng lớn mà Hội Thánh mang sứ mạng hoạt động nhờ đối thoại, mục vụ sám hối và hòa giải được hướng tới các thành phần của Hội Thánh. Trước hết bằng huấn giáo thích hợp liên quan tới hai thực tại khác nhau, nhưng bổ túc cho nhau mà các nghị phụ Thượng Hội Đồng đã dành cho một vị trí quan trọng đặc biệt mà các ngài đã làm nổi bật trong nhiều kiến nghị (Propositiones), đó là : sám hối và hòa giải. Huấn giáo là phương tiện thứ nhất phải dùng.
Lời khuyên hợp thời của Thượng Hội Đồng đặt nền tảng trên một giả thuyết cơ bản là : điều gọi là mục vụ không thể đối lập với đạo lý. Hoạt động mục vụ không thể tách khỏi nội dung đạo lý ; trái lại, từ đạo lý mà hoạt động mục vụ rút ra bản chất và giá trị thực của mình. Mà nếu Hội Thánh là “cột trụ và điểm tựa chân lý” , và nếu Hội Thánh được thiết lập trong thế giới như người Mẹ và người Thầy, thì làm thế nào Hội Thánh có thể lơ là bổn phận dạy chân lý xây dựng đường sự sống ?
Từ các chủ chăn trong Hội Thánh, trước hết người ta chờ đợi một sự huấn giáo về hòa giải. Huấn giáo này không thể không dựa trên giáo huấn Thánh Kinh, đặc biệt là Tân ước, liên hệ tới sự cần thiết tái lập giao ước với Thiên Chúa trong Đức Kitô cứu chuộc và giao hòa. Và theo ánh sáng sự hiệp thông và tình bạn mới này, dường như là kéo dài nó, huấn giáo cần dựa trên giáo huấn về sự cần thiết giao hòa với anh em, dù phải hoãn lại việc dâng của lễ . Chúa Giêsu nhấn mạnh rất nhiều về chủ đề hòa giải anh em : như khi Người mời ta đưa má kia cho kẻ đánh ta, ta để áo choàng cho người lấy mất áo trong , khi người dạy chúng ta một lề luật tha thứ, một tha thứ mà mỗi người sẽ tiếp nhận trong mức độ mà mình biết tha thứ , một tha thứ đến mức dành cho kẻ thù , một tha thứ tới 70 lần 7 , nghĩa là trên thực tế không chút giới hạn. Chính với các điều kiện ấy, chỉ thực hiện được trong bầu khí thực sự Tin mừng mới có sự hòa giải chân thực giữa các cá nhân, giữa các gia đình, các cộng đoàn, các quốc gia, các dân tộc. Từ những dữ kiện Thánh Kinh về sự giao hòa, đương nhiên sẽ phát sinh một huấn giáo thần học đưa vào những yếu tố tâm lý học, xã hội học và nhiều khoa học nhân văn, những khoa học này có thể làm sáng tỏ những hoàn cảnh, đặt đúng những vấn đề, thuyết phục được thính giả hay độc giả có quyết tâm cụ thể.
Từ các chủ chăn trong Hội Thánh, người ta cũng chờ một huấn giáo về sám hối. Ở đây, sứ điệp phong phú của Thánh Kinh cũng phải là nguồn mạch. Sứ điệp này nhấn mạnh trước nhất - trong vấn đề sám hối - đến giá trị hoán cải, danh từ mà qua đó người ta tìm cách để dịch từ métanoia  , nghĩa đen là tác động cho tâm trí quay về ngõ hầu trở lại với Thiên Chúa. Đây còn là hai yếu tố nền tảng nổi bật trong dụ ngôn người con hoang đàng nay tìm được : sự kiện “trở về với mình”  và quyết định trở về với cha mình. Không thể có hòa giải mà không có hai thái độ tiên khởi này, và huấn giáo phải giải thích hai thái độ ấy qua những khái niệm và những từ thích hợp với từng độ tuổi, từng hoàn cảnh văn hóa, phong tục và xã hội.
Giá trị đầu tiên của sám hối kéo qua giá trị thứ hai : sám hối nghĩa là hối hận. Cả hai nghĩa của métanoia rất rõ trong lệnh truyền mà Chúa Kitô công bố :“Nếu anh em con hối hận, hãy tha cho nó. Và nếu một ngày bảy lần y có lỗi với con và bảy lần y trở về với con mà nói :“em hối hận”, con cũng tha cho nó” . Bài huấn giáo tốt sẽ chỉ cho biết sự hối hận cũng như sự hoán cải thay vì là một tình cảm hời hợt, nó phải là trở về của tâm hồn.
Giá trị thứ ba ở trong sám hối : đó là một vận động qua đó thái độ hoán cải và hối hận nói trên được bộc lộ ra bên ngoài : đó là điều ta gọi là làm việc sám hối. Ý này rất dễ thấy trong từ métanoia như vị thánh Tiền hô đã dùng theo bản Nhất lãm . Làm việc sám hối có nghĩa là tái lập lại sự quân bình hòa hợp bị tội lỗi phá vỡ, đổi hướng đi dù phải trả giá bằng hy sinh.
Tóm lại ta không thể bỏ qua huấn giáo về sám hối một cách đầy đủ và xứng hợp nhất, trong thời đại như thời đại chúng ta khi mà các thái độ chủ yếu trong tâm lý học và trong cư xử xã hội đếu đối lập với ba giá trị đã trình bày trên : con người ngày nay hình như gặp nhiều vất vả hơn mới nhìn nhận được sai lầm của mình và quyết định trở về trên đường sau khi đã điều chỉnh bước đi của mình ; con người hình như ít dám nói :“tôi hối hận” hay “xin lỗi”. Hình như tự bản năng con người muốn chối từ và thường không cưỡng lại được, những gì là sám hối, theo nghĩa chấp nhận và thực hành hy sinh để sửa chữa tội lỗi. Về mặt này, tôi muốn nhận mạnh rằng, mặc dầu mấy năm nay có nhẹ bớt, nhưng kỷ luật sám hối trong Hội Thánh không thể bãi bỏ, mà không gây thiệt hại cho đời sống nội tâm các Kitô hữu và cộng đoàn Hội Thánh cũng như cho khả năng lan rộng việc truyền giáo. Không phải là hiếm những người ngoài Kitô giáo đã phải ngạc nhiên về sự hiếm có chứng từ sám hối thực nơi các môn đệ Đức Kitô. Mặt khác, rõ ràng là việc sám hối theo Kitô giáo sẽ là chân thực, khi nó được gợi lên do lòng mến Chúa, chứ không do sợ hãi mà thôi ; khi sám hối hệ tại sự cố gắng nghiêm túc để đóng đinh con người cũ hầu có thể sinh “con người mới” nhờ quyền năng của Đức Kitô ; khi sám hối dõi theo gương mẫu Đức Kitô, Đấng vô tội mà đã chọn con đường nghèo khó, nhẫn nhục, nghiêm nhặt, và có thể nói đời sống sám hối.
Từ các chủ chăn trong Hội Thánh, ta còn chờ đợi, như huấn giáo Thượng Hội Đồng đã nhắc nhở, một huấn giáo về lương tâm và đào tạo lương tâm. Ở đây cũng còn một chủ đề mang tính thời sự lớn, vì do những đảo điên ảnh hưởng tới văn hóa thời đại ta, nên nội cung của con người, nghĩa là phần thâm sâu nhất của con người tức là lương tâm, thường bị xâm phạm, thử thách, bị đảo lộn và mờ tối đi. Để có một huấn giáo nghiêm minh về lương tâm, ta có thể tìm được những chỉ dẫn quý báu nơi các tiến sĩ Hội Thánh hay trong thần học của Công đồng Vatican II và đặc biệt trong những văn kiện về Hội Thánh trong thế giới ngày nay  và về tự do tôn giáo . Theo dòng tư tưởng ấy Đức Phaolô VI thường can thiệp để nhắc nhở về bản chất và vai trò lương tâm trong đời sống chúng ta . Phần tôi, theo đường lối Người, tôi không bỏ qua dịp nào để làm sáng tỏ những gì thuộc phần cao nhất của sự cao cả và phẩm giá con người  , về một loại "cảm thức luân ly” đưa ta tới chỗ phân biệt được cái gì là tốt, cái gì là xấu ... như một con mắt bên trong, một tài năng trông nhìn của trí khôn có thể hướng dẫn bước đi trên con đường thiện hảo”. Tôi cũng nhắc lại sự cần thiết phải đào tạo theo Kitô giáo chính lương tâm mình, để nó đừng trở nên “một sự phá hoại chính lòng nhân đạo của mình, mà phải trở nên nơi thánh mà Thiên Chúa bày tỏ sự thiện hảo của Ngài”
Cũng còn những điểm khác không kém phần quan trọng về sự hòa giải mà người ta chờ nơi huấn giáo của các chủ chăn.
- Cảm thức về tội lỗi đã bị giảm đi trong thế giới hiện nay, như tôi đã trình bày.
- Về thử thách và những cơn cám dỗ : chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, chỉ trừ tội lỗi” . Người đã chịu để cho ác thần cám dỗ  để chỉ cho chúng ta biết rằng những kẻ đi theo Người cũng sẽ bị cám dỗ và cho ta biết phải đối xử thế nào khi bị cám dỗ. Đối với những ai đã cầu xin Chúa Cha để không bị thử thách quá sức mình  và không quỵ ngã trước cám dỗ  ; đối với những ai không liều lĩnh vào dịp tội, thì việc bị cám dỗ không có nghĩa là phạm tội, mà đó là dịp để lớn mạnh trong lòng trung thành và gắn bó qua khiêm nhường và tỉnh thức.
- Về chay tịnh : có thể thực hiện dưới các hình thức cũ hay mới, như dấu hiệu cho sự hoán cải, hối hận và hãm mình, đồng thời là dấu chỉ kết hợp với Đức Kitô chịu đóng đinh, và liên đới với các anh em đang đói và đau khổ.
- Về việc bố thí : là cách cụ thể hóa lòng bác ái, chia sẻ những gì mình có với những người đang chịu những hậu quả của nghèo đói.
- Về dây liên kết giữa sự vượt qua được các chia rẽ trên thế giới và sự hiệp thông đầy đủ với Thiên Chúa và loài người là mục đích cánh chung của Hội Thánh.
- Về những hoàn cảnh cụ thể trong đó được thực hiện sự giao hòa (trong gia đình hay cộng đoàn dân sự, trong các tổ chức xã hội) và riêng đặc biệt, về 4 cuộc hòa giải đang sửa lại 4 cuộc cắt đứt căn bản : hòa giải của con người với Thiên Chúa, với chính mình, với anh em, và với toàn thể tạo vật.
- Hội Thánh không thể bỏ qua mà không cắt xén nghiêm trọng khỏi sứ điệp thiết yếu, vừa riêng tư, vừa phổ quát của mình, chính giáo lý hằng dạy về điều mà ngôn ngữ truyền thông Kitô gọi là 4 sự sau cùng của con người : sự chết, phán xét (riêng và chung), hỏa ngục và thiên đàng. Trong bối cảnh văn hóa muốn giam con người trong cái khung của cuộc sống trên trái đất mà thôi, nơi mà con người gặt được thành công ít nhiều, người ta đòi các chủ chăn trong Hội Thánh một huấn giáo rộng mở và soi sáng, bằng các điều chắc chắc của đức tin vào cõi bên kia cuộc sống hiện tại ; đàng sau những cánh cửa huyền bí của sự chết còn chạy dài cả một vĩnh cửu hân hoan trong hiệp thông với Thiên Chúa, hoặc phải khổ hình vì xa Thiên Chúa. Chỉ trong tầm nhìn cánh chung ấy ta mới thấy được cái tầm vóc của tội và mới cảm thấy cách quyết định thúc đẩy ta sám hối và hòa giải.
Các chủ chăn nhiệt tình và sáng kiến không thiếu dịp rao giảng huấn giáo trên trong tầm rộng lớn và khác biệt của nó, bằng cách lưu ý về sự dị biệt văn hóa và huấn luyện lòng đạo của những người mà các vị trình bày. Các bài Kinh Thánh và nghi thức thánh lễ, và những bí tích khác, cũng như các cơ hội cử hành các bí tích thường cũng là cơ hội thuận tiện cho huấn giáo. Nhiều sáng kiến có thể áp dụng cho mục đích này như các bài giảng, diễn văn, tranh luận và các lớp dạy tôn giáo ... như đã làm tại nhiều nơi. Tôi muốn nêu bật sự quan trọng và hiệu quả của các Tuần Đại Phúc cho việc huấn giáo này. Nếu được thích nghi với nhu cầu riêng của thời đại ta, chúng có thể, hôm nay cũng như hôm qua, trở thành dụng cụ sáng giá để giáo dục đức tin, đặc biệt trong điều liên quan tới sám hối và hòa giải.
Vì tầm quan trọng rất lớn của hòa giải dựa trên lãnh vực hoán cải, trong lãnh vực tế nhị của các mối tương quan giữa nhân loại và đời sống xã hội ở mọi đẳng cấp, kể cả bình diện quốc tế, huấn giáo không thể bỏ qua sự đóng góp quý báu của giáo huấn xã hội của Hội Thánh. Giáo huấn theo hoàn cảnh và chính xác nơi các vị tiền nhiệm của tôi, từ Đức Lêo XIII, được tiếp nối bằng sự đóng góp chủ yếu của Hiến chế Mục vụ Vui Mừng và Hy Vọng của Công đồng Vatican II, và giáo huấn của nhiều Hội đồng giám mục được gợi ý can thiệp vào nhiều hoàn cảnh nơi xứ sở của các giám mục, tất cả đã tạo thành một cơ cấu đạo lý rộng lớn và vững chắc đụng chạm tới nhiều đòi hỏi gắn liền với cuộc sống cộng đoàn nhân loại, với tương quan giữa các cá nhân, các gia đình và các nhóm tạo nên cộng đồng ấy và với sự thành lập một xã hội tìm cách gắn bó với luật luân lý, là nền tảng của văn minh.
Trên nền tảng giáo huấn xã hội của Hội Thánh, hiển nhiên có một cái nhìn, rút ra từ Lời Chúa về các quyền lợi và bổn phận của các cá nhân, gia đình và cộng đoàn ; về giá trị của sự tự do và các chiều kích của công lý ; về vị trí tuyệt đỉnh của đức ái ; về phẩm giá nhân vị của con người và những yêu sách của công ích mà các nền chính trị và kinh tế phải tìm cách thực hiện. Các nguyên tắc căn bản của huấn quyền về xã hội đã củng cố và tái phát biểu những mệnh lệnh phổ quát của lý trí và của lương tâm các dân tộc. Phần lớn hy vọng giải quyết ôn hòa các mối xung đột xã hội, và nói tóm lại, hy vọng hòa giải phổ quát, dựa trên những nguyên tắc ấy.
CÁC BÍ TÍCH
27. Phương thế thứ hai Thiên Chúa thiết lập, mà Hội Thánh cống hiến cho mục vụ sự sám hối và hòa giải là các Bí tích.
Trong tính năng động huyền nhiệm của các bí tích, rất phong phú về biểu tượng và nội dung, ta có thể nhận thấy một khía cạnh không phải luôn luôn được nêu bật: mỗi một bí tích là một dấu chỉ, không những của ân sủng riêng, nhưng còn là của sự sám hối và hòa giải. Như vậy trong mỗi bí tích có thể làm sống lại những chiều kích thiêng liêng này.
Chác chắn bí tích Thánh Tẩy là sự tắm gội của ơn cứu rỗi, như thánh Phêrô nói về giá trị của bí tích: “Nhờ phép rửa này, không phải là anh em được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cầu xin Thiên Chúa ban cho mình một lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô . Đó là việc chết, mai táng và sống lại cùng với Đức Kitô Đấng đã chết, mai táng, và sống lại . Đó là món quà của Chúa Thánh Thần thông qua Đức Kitô . Tuy nhiên yếu tố này, cấu thành bản chất và nguyên ủy phép rửa của Kitô giáo, không thể tách ra được, nhưng lại làm tăng thêm vẻ sám hối đã hiện diện trong phép rửa mà chính Chúa Giêsu đã lãnh nhận của Gioan “để hoàn thành mọi sự công chính” . Nói cách khác, có một sự hoán cải và phục hồi trong công chính mối tương quan với Thiên Chúa, giao hòa với Thiên Chúa, cùng với việc xóa bỏ tì ố nguyên tổ và dẫn vào đại gia đình của những kẻ được giao hòa.
Cũng vậy, bí tích Thêm sức, xét như là sự chuẩn nhận bí tích Thánh Tẩy và họp thành bí tích khai tâm, trao ban trọn vẹn Chúa Thánh Thần và dẫn tới đời sống kitô hữu trưởng thành, vì thế nó biểu lộ và thực hiện cuộc hoán cải rộng lớn hơn của con tim và cuộc liên kết chặt chẽ và hữu hiệu hơn cùng một cộng đoàn những người được giao hòa, tức là Hội Thánh Chúa Kitô.
Thánh Augustino đã định nghĩa về bí tích Thánh Thể như là: “Bí tích sự thánh hóa, dấu chỉ sự hiệp nhất, mối dây bác ái” . Như vậy Người đã khơi sáng lên những hiệu quả thánh hóa bản thân (pietas) và sự hòa giải cộng đoàn (unitas và caritas), được phát sinh từ yếu tính của mầu nhiệm Thánh Thể, xét như là sự tái diễn không đổ máu của hy lễ thập giá xưa, và là nguồn mạch của ơn cứu độ và sự hòa giải cho tất cả mọi người. Tuy nhiên cần phải nhắc lại rằng Hội Thánh, được đức tin dẫn đưa vào bí tích cao trọng này, đã dạy rằng: người kitô hữu nào ý thức mình đã phạm một tội trọng, thì không thể rước lấy Thánh Thể trước khi được Thiên Chúa tha thứ. Chúng ta cũng đọc thấy như thế trong Huấn thị Eucharisticum Mysterium (mầu nhiệm Thánh Thể), được Đức Phaolo VI phê chuẩn, đã xác nhận hoàn toàn giáo huấn của Công đồng Tren-tô : “Thánh Thể được ban cho các tín hữu cũng như là phương thuốc để giải thoát chúng ta khỏi những lỗi lầm hàng ngày và gìn giữ chúng ta khỏi tội trọng; các tín hữu cần được chỉ dẫn những phương cách thích hợp để sử dụng những phần sám hối của nghi thức thánh lễ. Ai muốn rước Mình Thánh Chúa thì hãy nhớ lại mệnh lệnh: “ai nấy phải tự xét mình” . Tập truyền của Hội Thánh chỉ dạy rằng việc xét mình này là cần thiết, bởi vì bất cứ ai, nếu ý thức mình có tội trọng, cho dù đã tưởng mình đã sám hối đến đâu, cũng không được phép đến gần Thánh Thể mà trước đó không lãnh bí tích xưng tội. Nếu ai cảm thấy mình ở trong trường hợp cần thiết và không thể đi xưng tội, thì trước tiên phải ăn năn tội cách trọn .
Bí tích Truyền chức đã đem lại cho Hội Thánh những chủ chăn. Họ không chỉ là những người thầy, những người hướng dẫn, nhưng họ đã được gọi làm chứng nhân và tác nhân của sự hiệp nhất, họ là những người xây dựng gia đình Thiên Chúa, những người bảo vệ và canh giữ mối thông hiệp của gia đình này chống lại mọi mầm mống chia rẽ và phân tán.
Bí tích hôn nhân mang lại lời ca tụng của tình yêu nhân loại dưới tác động của ân sủng. Đó chính là dấu chỉ của tình yêu Chúa Kitô đối với Hội Thánh, nhưng cũng là dấu chỉ của cuộc chiến thắng mà Chúa Kitô đã trao cho các đôi bạn để kháng cự những sức mạnh làm méo mó và phá hủy tình yêu; nhờ vậy gia đình được sinh ra từ bí tích này trở nên một dấu chỉ của Hội Thánh hòa giải hướng đến một thế giới được hòa giải trong tất cả những cơ cấu và thể chế.
Sau cùng, bí tích Xức dầu bệnh nhân, trong cuộc thử thách của bệnh tật và tuổi già và cách đặc biệt vào giờ phút lâm chung của đời sống kitô hữu, là một dấu chỉ của cuộc cải hoán chung quyết về với Chúa, cũng như dấu chỉ của việc hoàn toàn chấp nhận đau khổ và cái chết như là sự sám hối những tội lỗi. Và chính đây là việc thực hiện một cuộc giao hòa tuyệt đỉnh với Chúa Cha.
Tuy nhiên, trong tất cả các bí tích có một bí tích, tuy thường được gọi là bí tích xưng tội vì lý do của sự cáo những tội đã trót phạm, nhưng có thể được gọi bằng tên thích đáng hơn như là: “Bí tích của sự sám hối chính nghĩa. Như vậy chúng ta chỉ rõ hiệu quả của nó, khi gọi là: “Bí tích của sự hoán cải và giao hòa”. Mới đây, Thượng hội đồng Giám mục đã bàn bạc cách đặc biệt về bí tích này, vì tầm quan trọng của nó đối với sự hòa giải.
CHƯƠNG II
BÍ TÍCH SÁM HỐI VÀ HÒA GIẢI
28. Trong suốt mọi giai đoạn và cấp bậc, Thượng hội đồng Giám mục đã hết sức chú ý đến dấu chỉ bí tích biểu hiện và đồng thời thể hiện việc sám hối và hòa giải. Chắc chắn rằng, bí tích này không gồm chứa hết mọi khái niệm về việc hoán cải và giao hòa. Thực vậy, Hội Thánh ngay từ đầu đã nhận và sử dụng nhiều hình thức phong phú và đa dạng của việc sám hối: Một vài hình thức mang tính cách phụng vụ hoặc bán phụng vụ, trong đó có việc sám hối trong thánh lễ, các nghi thức sám hối, các cuộc hành hương; những hình thức khác thuộc loại khổ hạnh, như là việc ăn chay. Tuy nhiên, trong số đó, không có hành vi nào có ý nghĩa hơn, có hiệu quả thần linh hơn hay cao quý hơn, và đồng thời xét như là nghi thức, lại gần tầm tay cho bằng Bí tích Sám hối.
Ngay từ giai đoạn chuẩn bị và sau đó, trong nhiều lần can thiệp ở các phiên họp, các tổ làm việc và các kiến nghị chung kết, Thượng hội đồng đã xét lời khẳng định, thường được lại đi lặp lại dưới nhiều dạng thức và chi tiết, đó là: Bí tích sám hối đang trải qua một cơn khủng hoảng. Thượng hội đồng đã lưu ý đến điều đó. Thượng hội đồng đã khuyến khích một cuộc huấn giáo sâu đậm hơn, nhưng cũng khuyến khích một cuộc phân tích không kém phần sâu sắc về khía cạnh có tính thần học, lịch sử, tâm lý, xã hội và pháp lý trên sự sám hối nói chung và của bí tích Sám hối nói riêng. Như vậy, Thượng hội đồng có chủ ý muốn làm sáng tỏ những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng và mở ra con đường giải quyết tích cực, hầu mưu ích cho nhân loại. Trong khi đó, từ chính Thượng hội đồng, Hội Thánh đã nhận được sự củng cố niềm tin của mình đối với bí tích này. Bí tích Sám hối mang lại cho mỗi kitô hữu và cho toàn thể cộng đoàn tín hữu sự chắc chắn được tha thứ do quyền năng của máu thánh cứu chuộc của Đức Kitô.
Thật là điều tốt khi lặp lại và khẳng định lại lòng tin này vào một thời điểm mà lòng tin có thể tàn yếu dần, mất đi một thứ gì toàn vẹn của nó, hay là bị dồn vào trong bóng tối và thinh lặng, bị đe dọa bởi những yếu tố tiêu cực của cuộc khủng hoảng. Thực vậy, bí tích Xưng tội bị khống chế một đàng bởi vì ý thức luân lý và tôn giáo bị lu mờ, cảm thức về tội lỗi bị suy giảm, quan niệm về sám hối đã bị bóp méo, thiếu nỗ lực để sống đời kitô hữu đích thực. Đàng khác, bí tích này đôi khi còn bị khống chế bởi ý tưởng lan tràn đó đây, theo đó người ta sẽ có thể được Thiên Chúa trực tiếp tha thứ, kể cả một cách bình thường, mà không cần lãnh Bí tích hòa giải. Một ảnh hưởng tiêu cực nữa là thực hành bí tích đôi khi thiếu lòng sốt sắng và tâm tình tự phát, có lẽ do một quan niệm sai lầm và lệch lạc về những hiệu quả của bí tích.
Vì thế thực là thích hợp khi nhắc lại những khía cạnh chính của Bí tích cao cả này.
“CÁC CON THA TỘI CHO AI...”
29. Sự kiện đầu tiên và cơ bản mà chúng ta rút ra được từ các sách thánh của Cựu ước và của Tân ước đó là Thiên Chúa khoan nhân và tha thứ. Trong các thánh vịnh và lời giảng dạy của các ngôn sứ, từ “khoan nhân” (lời chú của người dịch: “khoan nhân” hoặc “nhân hậu, nhân từ, từ bi hay thương xót, lân tuất") có lẽ một tiếng được gán cho Chúa nhiều nhất, đối lại với thành kiến cho rằng Thiên Chúa của Cựu Ước được trình bày như là một vị nghiêm khắc và báo oán.
Trong các thánh vịnh, có một đoạn văn dài, thuộc thể văn khôn ngoan, rút từ truyền thống Xuất hành, gợi lại hành động nhân từ của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Tuy hành động này được diễn tả theo lối “như nhân”, nhưng có lẽ là một trong những lời tuyên bố hùng hồn nhất trong Cựu ước về Thiên Chúa khoan nhân. Chỉ cần trích dẫn ở đây một câu: “Nhưng Ngài vẫn xót thương, thứ tha không tiêu diệt, nén giận đã bao lần, chẳng khơi bừng nộ khí. Chúa nhớ rằng: thân phận chúng bọt bèo mỏng mảnh, gió thoảng qua, không hẹn ngày về”  .
Khi đến thời viên mãn, Con Thiên Chúa đã đến như con Chiên cất đi và gánh lấy tội lỗi của nhân loại . Người xuất hiện như Đấng có quyền xét xử  và tha thứ tội lỗi , và Đấng đã đến không phải để luận phạt nhưng để tha thứ và cứu rỗi .
Và rồi, quyền “tha thứ các tội”, Chúa Giêsu, qua Thánh Thần, đã trao cho những con người tầm thường, cũng bị tội lỗi kềm kẹp, tức là các tông đồ: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, thì tội ấy được tha cho họ; các con cầm giữ tội ai, thì tội ấy bị cầm giữ” . Chân phúc Isaac Stella trong một bài giảng đã nhấn mạnh sự hòa hợp hoàn toàn giữa Đức Kitô với Hội thánh trong việc tha thứ tội lỗi: “Hội thánh không thể tha cái gì mà không có Chúa Kitô, và Chúa Kitô không muốn tha thứ mà không có Hội thánh. Hội thánh chỉ có thể tha thứ cho một hối nhân, nghĩa là một người đã được Đức Kitô chọn đến bằng ân sủng của Người. Đức Kitô không muốn coi cái gì đã được tha nơi một người khinh miệt Hội thánh”. Sermo 11, In dominica II post Epiphaniam, I: (PL 194,1729). Đây là một trong những điểm mới mẻ kinh khủng nhất của Tin Mừng ! Khi trao quyền thọ tạo cho các tông đồ, Đức Giê-su cũng cho phép họ được chuyển giao như Hội Thánh vẫn hiểu ngay từ thời sơ khai, quyền đó cho các người kế vị, được chính các Tông Đồ trao sứ vụ và trách nhiệm tiếp tục công viẹc loan báo Tin Mừng và làm thừa tác viên ơn cứu độ của Đức Ki-tô.
Ở đây ta thấy trổi lên vẻ cao trọng của tác nhân Bí tích Sám hối, được truyền thống cố cựu gọi là Cha giải tội.
Cũng giống như trên bàn thờ khi dâng Thánh lễ và cũng như khi cử hành các bí tích khác, linh mục tác viên của Bí tích Sám hối hành động “in persona Christi (với tư cách của Chúa Kitô). Chúa Kitô được linh mục làm hiện diện và hoàn tất mầu nhiệm tha thứ cũng chính là Chúa Kitô xuất hiện như là người anh của nhân loại , vị Thượng tế đầy lân tuất, trung tín và trắc ẩn , mục tử lo lắng tìm con chiên lạc  lương y chữa bệnh và an ủi , Thầy duy nhất dạy dỗ chân lý và chỉ rõ đường lối của Thiên Chúa , Thẩm phán xét xử kẻ sống và kẻ chết , Người xét xử theo sự thật chứ không theo dáng vẻ bề ngoài .
Chắc chắn đây là một tác vụ khó khăn nhất, tế nhị nhất, tổn sức nhất và đòi hỏi nhất của linh mục, nhưng cũng là một trong những tác vụ cao đẹp và an ủi nhất. Chính vì lý do ấy và chính vì lời khuyến khích nhiệt liệt của Thượng hội đồng, tôi sẽ không bao giờ quản ngại nhắn nhủ các anh em tôi, các vị giám mục và linh mục, hãy thi hành tác vụ này cách trung thành và cần mẫn . Trước lương tâm của các tín hữu vừa lo sợ vừa tin tưởng đang mở ra cho ngài, cha giải tội được mời gọi đóng vai trò cao quý là phục sự sám hối và hòa giải. Cha giải tội có nhiệm vụ học biết những yếu đuối và sa ngã của các tín hữu, hỗ trợ lòng ao ước của họ muốn đổi mới và nỗ lực của họ muốn thực thi lòng ao ước ấy, phân định tác động của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn họ, ban cho họ sự tha thứ mà duy một mình Thiên Chúa mới có thể ban, “cử hành” việc giao hòa của họ với Thiên Chúa được phác họa trong dụ ngôn người con hoang đàng, dẫn những tội nhân đã được cứu trở vào cộng đoàn Hội thánh với các anh chị em, và lấy tình cha mà khuyên nhủ các hối nhân với câu nói cương nghị, khích lệ và thân mật: “Con đừng phạm tội nữa” .
Để có thể thi hành tác vụ này cách hữu hiệu, cha giải tội cần phải có những đức tính nhân bản như khôn ngoan, kín đáo, phân định, và cương nghị hòa lẫn với nhã nhặn và tử tế. Cũng vậy, cha giải tội cần phải được chuẩn bị nghiêm túc và kỹ lưỡng trong những ngành thần học, sư phạm và tâm lý. Sự học hỏi các khoa này phải được hài hòa và toàn vẹn chứ không phải từng mảng rời rạc. Cha giải tội cũng cần được huấn luyện về phương pháp đối thoại và nhất là về sự hiểu biết Lời Chúa một cách sống động và có thể thông đạt được. Và hơn thế nữa, cha giải tội cần phải có đời sống thiêng liêng thật sâu đậm. Để có thể hướng dẫn người khác trên đường lối của sự trọn lành kitô hữu, tác viên của bí tích Sám hối phải là kẻ đầu tiên đã đi con đường ấy. Bằng hành động hơn là bằng lời lẽ dài dòng, cha giải tội phải chứng tỏ mình đã có kinh nghiệm sống đời cầu nguyện, thực hành các nhân đức đối thần và các nhân đức luân lý theo tin mừng, sự trung thành tuân theo ý Chúa, lòng yêu mến Hội hánh và ngoan ngoãn với Huấn quyền.
Tất cả những đức tính nhân bản, các nhân đức kitô hữu và các khả năng mục vụ cần phải được tập luyện và chỉ có thể thủ đắc bằng nhiều cố gắng. Mỗi linh mục phải được huấn luyện tác vụ bí tích Sám hối ngay từ những năm tại chủng viện, không những nhờ việc học thần học tín lý, luân lý, tu đức và mục vụ (tất cả là những bộ môn của một tổng bộ), nhưng còn nhờ việc học các khoa nhân văn, huấn luyện về đối thoại, cách riêng là cách tiếp xúc trong lãnh vực mục vụ. Sau đó linh mục cần được hướng dẫn và theo dõi ngay từ giai đoạn bắt đầu hoạt động. Linh mục cần phải tìm cách thăng tiến và bồi dưỡng nhờ cuộc thường huấn. Thử hỏi sẽ có biết bao ân huệ dồi dào, đời sống thiêng liêng chói ngời sẽ tỏa rộng trong Hội thánh đến đâu nếu mỗi linh mục lo lắng để khỏi mất cơ hội, do sự chểnh mảng hay những cớ thoái thác khác, để gặp gỡ các tín hữu trong tòa cáo giải, và nếu linh mục ân cần để đừng bao giờ vào tòa giải tội mà thiếu chuẩn bị hoặc thiếu những đức tính nhân bản cần thiết, và thiếu sửa soạn về thiêng liêng và mục vụ?
Nhân tiện tôi không thể nào không nhắc đến với lòng cảm phục các vị tông đồ của tòa giải tội, tựa như thánh Gioan Nêpômuxênô, thánh Gioan Viannry, thánh Giuse Cafassô, thánh Leôpôlđô Castelnuovo, đó là mới điểm qua các vị giải tội danh tiếng đã được Hội thánh ghi vào sổ các hiển thánh. Nhưng tôi cũng muốn tỏ lòng thán phục với đoàn ngũ đông đảo các vị giải tội thánh thiện và hầu như vô danh, nhờ các ngài mà biết bao linh hồn đã được ơn cứu rỗi, đã được giúp đỡ trong việc hoán cải, trong việc chiến đấu chống lại tội lỗi và các chước cám dỗ, trong sự tiến triển thiêng liêng, và nói tắt một lời, trong việc nên thánh. Tôi không ngại quả quyết rằng ngay cả các vị hiển thánh thường cũng là kết quả của tòa giải tội, và không những là các vị thánh mà thôi nhưng cả gia sản và tinh thần của Hội thánh và sự phát triển văn minh thấm nhuần tinh thần Kitô giáo nữa. Vì vậy thật đáng ca tụng đoàn ngũ thầm lặng của các anh em chúng ta đã và đang phục vụ công cuộc hòa giải nhờ tác vụ bí tích Sám hối.
BÍ TÍCH THA THỨ
30. Từ chỗ mặc khải về giá trị của tác vụ này và quyền năng tha tội được Chúa Kitô trao phó cho các tông đồ và những kẻ kế vị, đã có sự phát triển nhận thức về dấu chỉ tha thứ được thông ban qua bí tích Sám hối. Chính là sự xác tín rằng Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy thác cho Hội thánh một bí tích riêng dành để tha thứ các tội đã phạm sau khi lãnh bí tích thanh tẩy - như là một món quà của lòng khoan hậu và nhân ái của Người  cần được trao cho hết mọi người.
Xét về cách thức cử hành, bí tích này đã trải qua một tiến trình phát triển lâu dài, theo như chứng tích của các Sách Lễ cổ điển, những văn kiện của các công đồng và công nghị, những bài giảng của các Giáo phụ và những giáo huấn của các tiến sĩ Hội thánh. Nhưng xét về bản chất của Bí tích, thì ý thức Hội thánh luôn luôn duy trì niềm xác tín bền vững và bất biến rằng do ý định của Chúa Kitô, ơn tha thứ được ban cho mỗi người nhờ sự xá giải do các tác viên của bí tích Sám hối. Đó là niềm xác tín được tái khẳng định cách mạnh mẽ do cả công đồng Trentô  cũng như công đồng Vaticanô II: “Những ai tiến đến Bí tích Sám hối thì nhận được sự tha thứ mọi xúc phạm đến Thiên Chúa nhờ lòng thương xót của Ngài, và đồng thời họ được hòa giải với Hội thánh mà họ đã làm tổn thương khi phạm tội. Hội thánh hành động bằng lòng mến, bằng gương lành và bằng lời cầu nguyện để giúp cho họ cải hoán” . Và một chân lý đức tin về giá trị và mục đích của Bí tích này là sự khẳng định rằng: Đức Giêsu Kitô Chúa Cứu chuộc chúng ta đã thiết lập trong Hội thánh của Người bí tích Sám hối ngõ hầu các tín hữu đã sa ngã phạm tội sau bí tích Thánh tẩy có thể được lãnh ân sủng và hòa giải với Thiên Chúa .
Đức tin của Hội thánh về bí tích này bao hàm một vài chân lý căn bản khác không thể nào bỏ qua được. Nghi thức của bí tích Sám hối, trải qua những diễn tiến và những hình thức hiện hành, vẫn luôn duy trì và nêu bật các chân lý đó. Khi khuyến khích cải tổ nghi thức, công đồng Vaticano II muốn rằng các nghi tức phải diễn tả các chân lý đó cách rõ rệt hơn , và điều này đã đạt được với sách Nghi thức Sám hối , bởi vì nó đã thu nhập toàn bộ giáo huấn của công đồng Trentô, chuyển dịch cách trung thực từ khung cảnh lịch sử riêng biệt (tức là cố gắng xác minh đạo lý đứng trước những sai lạc không phù hợp với giáo huấn nguyên tuyền của Hội Thánh), sang những hạn từ tích hợp hơn với khung cảnh thời nay.
MỘT VÀI XÁC TÍN CĂN BẢN
31. Các chân lý vừa nói trên đã được nhắc lại cách mạnh mẽ và sáng tỏ trong Thượng hội đồng và được đưa vào trong các kiến nghị. Các chân lý đó có thể được tóm lại trong các xác định dưới đây, gắn liền với tất cả xác tín khác của đạo lý Công giáo về bí tích Sám hối.
I. Xác tín thứ nhất. Đối với một kitô hữu, bí tích Sám hối là con đường thông thường để được tha thứ các tội trọng phạm sau ngày Rửa tội. Chắc chắn rằng Đấng Cứu chuộc và công trình cứu độ của Người không bị trói buộc vào một vài dấu chỉ của bí tích đến nỗi trong bất cứ giai đoạn và lãnh vực nào của lịch sử cứu rỗi không thể tác động bên ngoài và bên trên các bí tích. Nhưng nhờ Hội thánh, trường dạy đức tin, chúng ta nhận biết rằng cũng một Đấng Cứu chuộc ấy đã muốn và xếp đặt để cho những Bí tích đức tin, vừa khiêm nhường vừa quý giá, như là những phương tiện hữu hiệu nhờ đó mà sức mạnh cứu chuộc của Ngài đã được chuyển thông và tác động. Cho nên thật là điên rồ và tự phụ khi dám tự tiện coi nhẹ các dụng cụ của ân sủng và chương trình cứu rỗi mà Thiên Chúa đã thiết lập; một cách cụ thể hơn, khi đòi hỏi được tha tội mà không cần tới bí tích do Chúa Kitô thiết lập với mục đích để tha tội. Sự đổi mới của các nghi thức từ sau Công đồng không hề phê chuẩn cái ảo tưởng nào hay sự biến chất nào theo đường hướng đó. Theo ý của Hội thánh, sự đổi mới này đã và đang nhằm gợi lên cho mỗi người chúng ta một động lực mới với mục đích đổi mới thái độ nơi chúng ta. Tôi muốn nói đến sự hiểu biết sâu xa về bản chất của bí tích Sám hối, cũng như về sự lãnh nhận bí tích một cách thấm nhuần niềm tin hơn, không phải trong lo âu mà tràn đầy tin tưởng. Tôi cũng muốn nói đến việc năng cử hành bí tích vì nhờ đó chúng ta được tiếp xúc với tình yêu khoan nhân của Thiên Chúa.
II. Xác tín thứ hai liên quan đến chức năng của bí tích Sám hối đối với những người lãnh nhận. Theo quan niệm cổ truyền, Bí tích này là một thứ hành vị xét xử. Nhưng việc xét xử này diễn ra tại tòa án nhân từ, chứ không phải tòa án công lýkhắt khe, cho nên chỉ có thể so sánh với tòa án nhân loại theo nghĩa loại suy , nghĩa là: tội nhân xưng thú các tội lỗi của mình và tình trạng thọ tạo nghiêng chiều về tội lỗi, cam kết từ bỏ và chống lại tội lỗi, nhận lãnh hình phạt (việc đền tội) mà cha giải tội đã ra, và lãnh sự xá giải.
Nhưng đang khi suy tư về chức năng của bí tích này, Hội thánh ý thức và nhận thấy, ngoài phương diện xét xử theo nghĩa đã được gợi ra, còn có khía cạnh chữa trị. Điều này gắn liền với sự kiện Chúa Kitô như là vị Thầy thuốc mà chúng ta thường gặp trong Tin mừng . Vả lại công trình cứu chuộc của Người đã được đặt tên ngay từ thời Hội thánh sơ khai là “medicina salutis” (y dược cứu rỗi). “Ta muốn chữa lành chứ không kết tội”, đó là lời mà thánh Augustinô đã nói về việc thực hành mục vụ bí tích Sám hối , và chính nhờ dược liệu của việc xưng thú mà cảm nghiệm về tội lỗi không bị đẩy vào chỗ tuyệt vọng . Sách Nghi thức sám hối cũng ám chỉ đến phương diện chữa trị của Bí tích , khía cạnh mà con người thời nay có thể dễ cảm nhận hơn, và cũng như khi nói đến tội thì họ nhạy cảm đến yếu tố yếu đuối và mỏng dòn của con người hơn là khía cạnh sai lầm.
Cho dù là tòa án nhân từ hay nơi chữa lành tinh thần, dưới cả hai phương diện, Bí tích đều đòi hỏi sự hiểu biết nội tâm của hối nhân, để có thể xét xử và tha thứ, trị liệu và chữa lành. Đó chính là lý do mà Bí tích bao hàm, về phía hối nhân, sự xưng thú các tội một cách chân thành và trọn vẹn, việc thú tội này không phải chỉ bắt nguồn từ mục tiêu khổ hạnh (như là việc thực tập đức khiêm nhường và khổ chế) nhưng là từ một mục tiêu nội tại của bản chất Bí tích.
III. Xác tín thứ ba: Xác tín mà tôi muốn nói có liên quan đến những thực tại hay những thành phần cấu thành dấu chỉ của Bí tích tha thứ và hòa giải. Một vài thực tại ấy là các hành động của hối nhân, dù không có tầm quan trọng ngang nhau nhưng đều cần thiết cho sự hữu hiệu, sự toàn vẹn và hiệu quả của dấu chỉ Bí tích.
Điều kiện thiết yếu trước tiên là lương tâm ngay thẳng, và sáng suốt của hối nhân. Người ta không thể đi tới sự sám hối đích thực, bao lâu người ta không nhận ra rằng tội lỗi đối nghịch với quy luật luân lý đã được ghi khắc trong tâm khảm ; bao lâu người ta không nhận ra một cảm nghiệm riêng tư và có trách nhiệm về sự trái nghịch ấy; bao lâu người ta không những nói rằng “đó là tội” mà còn nói “tôi đã phạm tội”; bao lâu người ta không nhìn nhận rằng tội lỗi đã đưa vào lương tâm họ sự rạn nứt làm phá hủy bản ngã toàn vẹn của mình, chia cách mình với Thiên Chúa và với anh em. Dấu chỉ Bí tích của lương tâm sáng suốt là hành vị được truyền thống gọi là “tự vấn lương tâm”. Hành vi này không thể nào chỉ là một sự chất vấn tâm lý cách xao xuyến nhưng là cuộc đối chiếu thẳng thắn và minh bạch với luật luân lý nội tâm, với những quy tắc của Tin mừng mà Hội thánh giảng dạy, với chính Chúa Kitô là Thầy và là mẫu mực đời sống của chúng ta, với Cha trên trời, là Đấng kêu gọi chúng ta sốngtoàn hảo và tốt lành .
Nhưng hành vi chính yếu của Bí tích Sám hối, xét về phía hối nhân, là sự ăn năn (contritio) tức là cương quyết từ bỏ tội lỗi cùng với dốc tâm không tái phạm nữa . Dĩ nhiên, để có thể tiến tới bí tích Sám hối, chỉ cần ăn tội cách chẳng trọn (attritio: vì sợ hơn là vì yêu) thì đã đủ. Nhưng trong phạm vi Bí tích, hành vi ăn năn tội chẳng trọn được biến thành trọn hảo nhờ tác động của ân sủng (ex attritio fit contritus), bởi vì bí tích Sám hối thực sự đã tác động nơi hối nhân được chuẩn bị đích đáng để họ được ăn năn cách trọn. Xc. Công đồng Trentô, nơi đã dẫn (Dz. Sch. 1678) vì lòng mến Chúa, lòng mến này sẽ hồi sinh cùng với việc sám hối. Cho nên sự ăn năn là khởi đầu và trọng tâm của sự hoán cải, của métanoia trong Tin mừng dẫn con người trở về với Thiên Chúa, tựa như “đứa con hoang đàng” trở về với Cha. Sự ăn năn mang một dấu chỉ hữu hình ở nơi Bí tích Sám hối, và kiện toàn việc úy hối. Do đó “sự thực của việc sám hối tùy thuộc vào việc ăn năn tội” .
Trong khi lặp lại những gì mà Hội thánh (được gợi ra từ Lời Chúa), đã giảng dạy về việc ăn năn, tôi muốn nhấn mạnh riêng đến một phương diện của đạo lý quan trọng này, mà chúng ta cần biết rõ và lưu tâm. Người ta thường coi việc hoán cải và ăn năn dưới khía cạnh của những yêu sách mà chúng đặt ra, và dưới khía cạnh khổ chế mà chúng đòi hỏi để thay đổi tận căn đời sống. Nhưng sự hoán cải và ăn năn cần phải được nhắc đến và nhấn mạnh dưới khía cạnh khác nữa: đó là chúng đưa ta tiến lại gần sự thánh thiện của Thiên Chúa, tìm lại được căn cước nội tại của mình mà tội lỗi đã đảo ngược và xáo trộn, giải phóng bản ngã của chính mình để khám phá lại niềm vui đã mất, niềm vui được cứu độ  mà phần lớn con người thời đại không còn khả năng cảm nghiệm nữa.
Cho nên chúng ta hiểu rằng ngay từ Hội thánh sơ khai, kế tiếp đường hướng của các tông đồ và của Chúa Kitô, Hội thánh đã bao gồm việc xưng thú tội lỗi vào trong dấu chỉ của Bí tích. Điều này đã mang tầm quan trọng đến mức từ nhiều thế kỷ danh xưng thường dùng để gọi Bí tích là xưng tội. Xưng thú tội lỗi là điều thiết yếu, trước hết bởi vì tội nhân phải được biết bởi một vị đóng vai thẩm phán trong Bí tích này. Vị thẩm phán này phải thẩm định về tình trạng nặng nề của tội lỗi và về lòng sám hối của tội nhân. Và vị này cũng đóng vai thầy thuốc, nên cần biết tình trạng người bệnh để trị liệu và chữa lành. Nhưng việc xưng thú tội cá nhân cũng có giá trị như một dấu chỉ: dấu chỉ của cuộc gặp gỡ hối nhân với thừa tác viên làm trung gian của Hội thánh; dấu chỉ của việc hối nhân bày tỏ mình như là kẻ tội lỗi trước mặt Thiên Chúa và Hội thánh, dấu chỉ của việc đối diện thân phận tội lỗi của mình dưới mắt Chúa. Vì thế, việc xưng thú tội không thể thu hẹp vào một thứ mưu toan giải thoát về tâm lý, cho dù nó đáp ứng một nhu cầu chính đáng và tự nhiên, khắc trong con tim con người, đó là thổ lộ tâm tình với người khác. Xưng thú tội là một hành vi phụng vụ, vừa trang trọng pha đôi chút bi thương vừa khiêm nhường và sơ sài trong ý nghĩa cao sang. Đó đích thực là hành vi của người con hoang đàng trở về với cha, và được cha đón nhận với một cái hôn bình an. Đó là hành vi ngay thẳng và can đảm. Đó là hành vi phó thác chính mình cho lòng khoan nhân tha thứ, vượt lên trên tội lỗi .
Vì thế, chúng ta hiểu được tại sao xưng thú tội lỗi thường phải mang tính cá nhân, chứ không phải tập thể, cũng như tội lỗi là một chuyện rất là cá nhân. Nhưng đồng thời, một cách nào đó việc xưng thú lôi kéo tội lỗi thầm kín trong con tim ra khỏi vòng khép kín cá nhân và nêu bật tính xã hội của nó nữa: quả vậy, qua thừa tác viên môi giới của Bí tích Sám hối, chính cộng đoàn Hội thánh đã bị tổn thương vì tội lỗi, lại đón tiếp người tội nhân hối lỗi và được tha thứ.
Một chặng chính yếu khác của Bí tích Sám hối, thuộc phạm vi thừa tác viên, trong vai trò thẩm phán, và thầy thuốc, là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha đón nhân và tha thứ cho những ai trở về cùng Ngài: đó là việc xá giải. Những lời và những cử điệu diễn tả sự xá giải, được ghi trong sách Nghi thức Sám hối cũ cũng như mới, biểu lộ tính cách đơn giản trong sự cao cả của nó. Công thức Bí tích là: “Cha tha tội cho con..”, và việc đặt tay kèm theo dấu thánh giá trên hối nhân; các cử điệu đó biểu lộ rằng ngay lúc ấy, hối nhân ăn năn hoán cải được đối diện với quyền năng và lòng nhân từ của Thiên Chúa. Đó là lúc mà Ba Ngôi Thiên Chúa đáp lời tội nhân và hiện diện trong họ để xóa bỏ tội lỗi và đem họ trở về với sự tinh tuyền ban đầu. Chính hối nhân nhận được sức mạnh cứu chuộc nhờ cuộc khổ nạn, sự chết và sống lại của Đức Giêsu, quyền năng ấy tỏ hiện như là “lòng nhân từ còn mạnh hơn tội lỗi và sự xúc phạm” như tôi đã có dịp nói rõ trong thông điệp “Dives In Misericordia” : Thiên Chúa luôn là Đấng mà tội lỗi đã làm xúc phạm hơn cả: - tibi soli peccari - và chỉ duy Ngài có thể tha thứ. Vì thế, sự xá giải mà linh mục, thừa tác viên của việc tha thứ, tuy chính mình cũng là tội nhân, ban cho hối nhân là dấu chỉ hữu hiệu của việc Thiên Chúa Cha can thiệp mỗi lần sự xá giải được ban. Sự xá giải là dấu chỉ của “sự phục sinh” từ “cái chết thiêng liêng”, được lặp lại trong mỗi lần cử hành Bí tích Sám hối. Chỉ riêng đức tin mới có thể đoan chắc cho ta rằng mọi tội lỗi được tha thứ xóa bỏ vào lúc ấy nhờ sự can thiệp mầu nhiệm của Đấng Cứu chuộc.
Việc đền tội là hành vi chót hoàn thành dấu chỉ Bí tích Sám hối. Trong một vài quốc gia hành vi mà người hối nhân được tha thứ và xá giải đồng ý thực hiện sau khi lãnh ơn xá giải được gọi là việc sám hối. Việc đền tội, hay việc sám hối có ý nghĩa gì? Chắc hẳn đây không phải là cái giá phải trả để được tha tội và xá giải: không có một giá nhân loại nào sánh được với thành quả mà Chúa Kitô đã đạt được nhờ máu châu báu của Người. Những việc đền tội, dấu đơn sơ và tầm thường, nhưng mang nhiều ý nghĩa, và khi thực hành cần phải biệu lộ các ý nghĩa ấy. Chúng là dấu chỉ của điều mà người tín hữu, trong bí tích, đã đích thân cam kết với Thiên Chúa, là họ sẽ bắt đầu cuộc đời mới (vì thế, những việc đền tội không chỉ dừng lại ở một vài kinh đọc thuộc lòng nhưng cần phải là những việc làm cụ thể như thờ phượng, bác ái, xót thương và bồi thường). Những việc đền tội bao gồm một ý tưởng là hối nhân được tha thứ có khả năng kết hợp sự khổ chế thể xác và tinh thần của mình - dù tự ý đặt ra hoặc ít là chấp nhận - với cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, Đấng đã mang lại ơn tha thứ cho họ. Những việc đền tội nhắc lại rằng ngay cả sau khi đã được tha thứ, ở trong hối nhân vẫn còn có một miền tăm tối là hậu quả do những vết thương tội lỗi, do sự thiếu sót tình yêu khi sám hối; do sự suy nhược của các quan năng tinh thần. Đó là miền mà cội rễ nhiễm độc của tội lỗi vẫn hoành hành, vì thế cần phải luôn luôn kháng cự bằng sự khổ chế và sám hối. Đó là ý nghĩa của việc đền tội tuy tầm thường nhưng thành tâm .
IV. Cần phải nhắc nhở vắn tắt một vài xác tín quan trọng khác liên quan tới Bí tích Sám hối.
Trước hết, cần phải nhắc lại rằng không có gì sâu kín riêng tư ở trong Bí tích này cho bằng khi hối nhân hiện diện trước mặt Thiên Chúa với tất cả tội lỗi thiếu sót, lòng sám hối và niềm tin của mình. Không ai có thể sám hối hay xin tha thứ thay cho mình được. Chắc chắn rằng hối nhân cảm thấy cảnh cô độc khi phạm tội. Điều này được diễn tả cách bi thảm nơi Ca-in cùng với tội lỗi của hắn “nép mình vào cửa”, theo lối diễn tả gợi cảm của sách Khởi Nguyên, và mang một dấu tích nhận dạng ở trên trán ; hoặc nơi vua Đa-vít bị ngôn sứ Na-than quở trách ; hay là nơi đứa con hoang đàng khi nhận thấy mình ở trong tình trạng xa cách cha và quyết định trở về với cha . Tất cả chỉ triển khai giữa một mình con người với Thiên Chúa. Nhưng đồng thời người ta không thể phủ nhận chiều kích xã hội của Bí tích này, trong đó toàn thể Hội thánh, - dù là chiến đấu, thanh luyện hay vinh hiển trên trời - đến cứu giúp hối nhân và tiếp nhận họ vào lòng mình, nhất là bởi vì chính Hội thánh bị xúc phạm và tổn thương vì tội lỗi. Trong chức vụ là thừa tác viên của Bí tích Sám hối, linh mục là chứng nhân và đại diện của tính cách Hội thánh của Bí tích. Hai tính cách cá nhân và Hội thánh là hai khía cạnh bổ túc cho nhau trong Bí tích này mà cuộc canh tân tiệm tiến của nghi thức Sám hối, đặc biệt là theo sách Nghi thức Sám hối (Ordo Paenitentiae) do Đức Phaolo VI ban hành, đã cố gắng nêu bật và tăng thêm ý nghĩa cho các buổi cử hành.
V. Kế đến, cần phải nhấn mạnh rằng, hoa quả cao quý nhất của ơn tha thứ được lãnh nhận trong bí tích sám hối hệ tại việc hòa giải với Thiên Chúa : việc hòa giải này diễn ra trong thâm sâu cõi lòng của con người đã mất mà tìm lại được, và người con ấy là chính mỗi hối nhân. Tuy vậy cần phải thêm rằng, việc hòa giải với Thiên Chúa còn đưa đến các việc hòa giải khác, sửa chữa lại những rạn nứt mà tội đã gây ra. Hối nhân được hòa giải với chính mình trong nơi thẳm sâu của chính mình, để nhận ra chân ngã của mình. Hối nhân được hòa giải với anh em, người mà mình đã tấn công và đả thương cách nào đó, hòa giải với Hội Thánh, hòa giải với mọi thụ tạo. Nhờ việc nhận thức các điều ấy, khi kết thúc việc cử hành bí tích hòa giải hối nhân cảm thấy tràn ngập một tâm tình biết ơn vô hạn đối với Thiên Chúa vì tình thương xót mà mình đã nhận được, Hội Thánh mời gọi mỗi hối nhân hãy có tâm tình tạ ơn đó.
Mỗi tòa giải tội là một nơi đặc biệt hồng phúc, từ nơi đó, các sự chia rẽ đã được xóa sạch, sinh ra một con người mới, không tỳ ố, một con người được giao hòa, một thế giới được giao hòa.
VI. Sau hết, tôi muốn nói đến một nhận định cuối cùng . Nó liên quan đến tất cả chúng ta, các linh mục là những thừa tác viên của bí tích Sám hối, nhưng cũng là hối nhân - chúng ta cần phải đón nhận những ơn phúc phát sinh từ bí tích Hòa giải. Đời sống siêu nhiên và mục vụ của các linh mục cũng như đời sống của các anh em giáo dân và tu sĩ, xét về phẩm chất và về lửa nhiệt tình, sự miệt mài và ý thức đều phụ thuộc vào việc thực hành cá nhân bí tích Hòa giải. Việc cử hành bí tích Thánh Thể và các bí tích khác, lòng nhiệt tâm mục vụ, những tương quan với các Kitô hữu, sự hiệp thông với các anh em linh mục, sự cộng tác với hàng giám mục, đời sống cầu nguyện, tựu trung đời sống linh mục có thể bị suy thoái nếu như chính họ do thờ ơ hoặc vì một lý do nào khác, không đến với bí tích Giải tội một cách đều đặn với một đức tin và một lòng sốt sắng đích thực. Nếu một linh mục không còn đi xưng tội nữa hoặc không thực hiện được việc thú tội thì bản chất linh mục và hoạt động linh mục của mình sẽ sớm bị ảnh hưởng và chính cộng đoàn mà linh mục dẫn dắt sẽ nhận ra điều đó.
Nhưng tôi cũng thêm rằng, để trở thành một thừa tác viên tốt và đắc lực của bí tích Sám hối, linh mục cần phải chạy đến nguồn ân sủng và thánh thiện vốn hiện diện trong bí tích này. Chúng ta, các linh mục khởi đi từ kinh nghiệm cá nhân của mình, có thể nói một cách chắc chắn rằng, càng đến với bí tích Sám hối thường xuyên với sự chuẩn bị kỹ lưỡng chúng ta càng đảm nhiệm tốt hơn tác vụ giải tội và đảm bảo rằng, các hối nhân sẽ hưởng được ân phúc nhiều hơn. Trái lại, tác vụ này sẽ mất nhiều hiệu năng nếu một cách nào đó chúng ta không còn là những hối nhân thực thụ nữa. Đó là hệ luận nội tại trong bí tích quan trọng này. Bí tích này mời gọi tất cả chúng ta, những linh mục của Đức Kitô lưu tâm đến việc xưng tội của mình.
Và rồi kinh nghiệm bản thân này trở thành và phải trở thành cho ngày hôm nay một yếu tố kích thích việc thực hành cẩn thận, đều đặn, kiên nhẫn và nhiệt tình trong tác vụ giải tội. Chúng ta mang trách nhiệm về tác vụ đó do chính chức thánh linh mục của chúng ta, và ơn gọi của chúng ta là làm những người mục tử và những người phục vụ anh chị em của mình. Vậy, với Tông huấn này tôi khẩn khoản van nài tất cả linh mục trên thế giới, đặc biệt là những anh em trong chức vụ giám mục và cha sở, hãy tận dụng mọi nỗ lực để khuyến khích các Kitô hữu sử dụng bí tích. Xin các vị hãy vận dụng tất cả các phương tiện thích hợp để giúp phần lớn những người nhận được “ân sủng” đã được ban cho chúng ta qua bí tích Sám hối nhằm đến việc hòa giải mỗi cá nhân và toàn thế giới với Thiên Chúa trong Đức Kitô.
CÁC HÌNH THỨC CỬ HÀNH
32. Trung thành với lời chỉ dạy của Công đồng Vatican II, sách Ordo Paenitentiae đã trù liệu ba nghi thức cho phép thích nghi việc cử hành bí tích Sám hối vào những hoàn cảnh mục vụ riêng biệt, tuy vẫn duy trì các nguyên vẹn các yếu tố cốt yếu.
Hình thức thứ nhất : Hòa giải từng hối nhân là cách thức duy nhất thông thường để cừ hành bí tích này, và không thể loại trừ hay coi nhẹ.
Hình thức thứ hai : Hòa giải nhiều hối nhân với việc xưng thú và xá giải từng người - dù rằng trong sự chuẩn bị cho phép làm nổi bật nhiều hơn những khía cạnh cộng đoàn của bí tích, nhưng cũng giống hình thức thứ nhất trong tác động cao điểm của bí tích, nghĩa là việc xưng thú và xá giải từng cá nhân. Vì thế, theo tính cách thông thường của việc cử hành, nó cũng được kể ngang bằng với hình thức thứ nhất.
Tuy nhiên hình thức thứ ba : Hòa giải nhiều hối nhân với việc xưng thú và xá giải chung - mang một tính cách ngoại lệ. Vì thế, nó không được sử dụng tùy theo sở thích, nhưng nó được quy định bởi một quy luật đặc biệt.
Hình thức thứ nhất cho phép nêu bật những khía cạnh cá nhân và cũng là căn bản - bao gồm trong tiến trình sám hối của hối nhân. Cuộc trao đổi giữa hối nhân và cha giải tội, toàn bộ những yếu tố được dùng (bản văn Kinh Thánh, sự lựa chọn những hình thức đền tội ..v.v.) khiến cho việc cử hành bí tích đáp ứng sát hơn với tình trạng cụ thể của hối nhân. Người ta thấy rõ giá trị của các yếu tố này khi nghĩ tới những nguyên do khác nhau thúc đẩy một Kitô hữu tiến tới bí tích Giải tội : họ cần được hòa giải bản thân và được tái thâu nhận vào tình thân hữu với Chúa, nhờ lấy lại ân sủng đã mất do tội lỗi ; họ được thẩm tra về những tiến bộ thiêng liêng của mình và thỉnh thoảng cần phải thẩm định một cách chính xác ơn gọi của mình ; trong nhiều trường hợp khác, họ cần và muốn thoát ra khỏi tình trạng vô cảm siêu nhiên và khủng hoảng tôn giáo. Mặt khác, nhờ tính cách riêng tư của nó, hình thức thứ nhất cho phép liên kết bí tích Giải tội với một hành động khác, tuy khác biệt nhưng có liên hệ với các bí tích : tôi muốn nói đến việc linh hướng. Vì chắc chắn rằng hình thức thứ nhất này cho phép diễn tả rõ ràng và quảng bá việc cá nhân quyết định và cam kết dấn thân.
Hình thức thứ hai, qua tính chất cộng đoàn của nó và qua các thức cử hành, làm nổi bật một vài khía cạnh quan trọng : Lời Thiên Chúa được lắng nghe chung thì có một hiệu quả khác hơn là một bài đọc được thực hiện cách riêng tư, và làm nổi bật tính cách Hội Thánh về việc hoán cải và hòa giải hơn. Nó mặc một ý nghĩa riêng biệt trong những mùa khác nhau của năm phụng vụ và liên quan tới các biến cố có tầm quan trọng mục vụ đặc biệt. Ở đây chỉ cần nhắc tới một điểm là : để cử hành hình thức thứ hai cần phải có một số lượng tương xứng các cha giải tội.
Như thế, hiển nhiên là những tiêu chuẩn cho phép dùng một trong hai hình thức cử hành không phải là những lý do tùy cơ hội và chủ quan, nhưng do ý muốn đạt tới thiện ích thiêng liêng của các tín hữu trong sự vâng phục kỷ luật Sám hối của Hội Thánh.
Cũng là một điều tốt khi nhắc lại rằng, để có một định hướng quân bình về mặt thiêng liêng và mục vụ, đặt nặng trong việc dặn dò các tín hữu hãy sử dụng bí tích trong lãnh vực này, cần tiếp tục nhắc lại yếu tố rất quan trọng của bí tích giải tội cũng như sám hối kể cả đối với các tội nhẹ nữa, một điều đã được nảy sinh từ truyền thống đạo lý và lối thực hành cổ xưa.
Hội Thánh biết và dạy rằng : những tội nhẹ cũng được tha thứ bằng những con đường khác. Chẳng hạn như những hành vi hối cải, những công việc bác ái, việc cầu nguyện và những nghi thức sam hối. Tuy vậy, Hội Thánh vẫn không ngừng nhắc lại cho từng người về ích lợi đặc biệt của bí tích này đối với các tội nhẹ. Việc năng lãnh nhận bí tích - như trên thực tế một số tín hữu vẫn thực hành - củng cố ý thức rằng chính các tội nhẹ làm mất lòng Chúa và gây thương tổn cho Hội Thánh là thân thể của Đức Kitô. Đối với các tín hữu, việc cử hành bí tích trở thành một cơ hội và là kích thích tố giúp người Kitô hữu uốn nắn mình nên giống Đức Kitô hơn, và nhạy bén hơn trong việc lắng nghe Chúa Thánh Thần . Đặc biệt cần nhấn mạnh rằng : ân sủng riêng của bí tích có hiệu năng chữa trị và góp phần diệt tận căn những mối tội đầu.
Việc cử hành bí tích cách chu đáo  với sự quan tâm đặc biệt đến việc đọc, nhắc nhở và giải thích Lời Chúa cho các tín hữu hoặc cùng với họ khi có thể, sẽ góp phần làm sống lại việc thực hành bí tích này, tránh cho khỏi rơi vào hình thức chiếu lệ qua lần. Hối nhân sẽ được giúp để tái khám phá rằng : họ đang sống một biến cố cứu rỗi, có khả năng gợi lên một cuộc sống mới và mang lại bình an đích thực cho tâm hồn. Việc cử hành chu đáo cũng đưa các giáo hội tại mỗi địa phương đến việc thu xếp thời giờ nhất định dành cho phụng vụ bí tích này và giáo dục các Kitô hữu, đặc biệt là thiếu nhi và thanh niên, tập thói quen tuân theo giờ giấc ấn định, đừng kể những trường hợp cần thiết, lúc ấy cha sở phải luôn tỏ ra sẵn sàng tiếp đón bất cứ ai đến gặp Ngài.
CỬ HÀNH BÍ TÍCH VỚI VIỆC XÁ GIẢI CHUNG
33. Những quy luật mới của phụng vụ gần đây nhất bộ giáo luật  đã xác định những điều kiện hợp pháp khi sử dụng “nghi thức hòa giải nhiều hối nhân với việc xưng thú và xá giải chung”. Những quy tắc và nghị quyết về điểm này, hoa quả của việc cân nhắc kỹ lưỡng và quân bình, phải được tiếp nhận và thực thi, tránh tất cả những giải thích võ đoán.
Chúng ta nên suy nghĩ kỹ về những lý do đưa đến việc truyền buộc cử hành bí tích Sám hối theo hai hình thức đầu và cho phép sử dụng hình thức thứ ba. Trước hết là do ý muốn của Chúa Giêsu, được truyền lại qua đạo lý của Hội Thánh và lý do tuân phục các luật lệ của Hội Thánh. Thượng Hội Đồng Giám Mục trong một đề nghị đã nhắc lại giáo huấn bất biến của Hội Thánh, phát xuất từ truyền thống cổ xưa và được đúc kết thành luật lệ sám hối thời cổ điển : việc xưng thú riêng tư và tất cả tội lỗi cùng với lời xá giải cá nhân là đường lối duy nhất thông thường mà người Kitô hữu mắc tội trọng được hòa giải với Thiên Chúa và với Hội Thánh. Từ việc xác nhận giáo huấn của Hội Thánh như thế, cho thấy rõ ràng là tất cả các tội nặng cùng với các hoàn cảnh của nó phải được xưng thú riêng tư.
Tiếp theo là một lý do mục vụ. Đành rằng khi hội đủ các điều kiện mà giáo luật ấn định, người ta có thể cử hành hình thức thư ba, nhưng không được phép quên rằng : hình thức này không thể trở thành một hình thức thông thường và nó chỉ có thể được sử dụng trong những trường hợp thật quan trọng, như đã được nhắc lại trong Thượng Hội Đồng. Tuy vậy, vẫn phải giữ sự đòi buộc xưng tội cá nhân trước khi lãnh nhận một ơn xá giải chung một lần nữa. Do đó, chỉ có giám mục có thẩm quyền xét xem những điều kiện được thiết lập trong bộ giáo luật về việc cử hành hình thức thứ ba có được thực hiện hay không trong khung cảnh của giáo phận. Các giám mục sẽ phán đoán với nghĩa vụ nặng theo lương tâm trong niềm kính trọng triệt để các luật và thực hành của Hội Thánh, và lưu ý đến những tiêu chuẩn, những hướng dẫn đã thỏa thuận với các thành phần của hội đồng giám mục dựa trên những tiêu chuẩn đạo lý và mục vụ được trình bày ở trên. Đồng thời cũng thuộc về mối quan tâm mục vụ được ấn định va bảo đảm những điều kiện nhằm giúp cho việc cử hành hình thức thứ ba có khả năng phát sinh những thành quả thiêng liêng đã được dự kiến. Việc sử dụng cách ngoại lệ hình thức cử hành thứ ba không bao giờ được dẫn đến sự khinh thường hay loại trừ các hình thức thông thường, cũng không được xem như tương tự với hai hình thức trên. Thực vậy, các vị chủ chăn và các tín hữu không có quyền tự do lựa chọn hình thức nào mà mình nghĩ là tiện lợi hơn cả. Các vị chủ chăn có bổn phận phải tạo cho các tín hữu mọi sự thuận tiện để họ xưng tội toàn vẹn và cá nhân. Đối với Kitô hữu, nó không những là một bổn phận nhưng còn là một quyền bất khả xâm phạm và bất khả chuyển nhượng, đó là chưa nói đến một nhu cầu thiêng liêng của họ nữa. Đối với các tín hữu việc thực thi hình thức thư ba bao gồm nghĩa vụ tuân theo tất cả những luật lệ qui định trong việc sử dụng hình thức này, trong đó có bổn phận không được nhận một ơn sám hối chung trước khi xưng tội bình thường, toàn vẹn và cá nhân càng sớm càng tốt. Trước khi ban ơn xá giải chung, linh mục phải thông báo về quy tắc này và về nghĩa vụ phải tuân giữ nó.
Qua việc nhắc lại đạo lý và luật lệ của Hội Thánh, tôi muốn gợi lên nơi mỗi người ý thức trách nhiệm nhạy bén hướng dẫn chúng ta khi tiếp cận đến những sự thánh thiêng như là các bí tích mà chúng ta không có quyền sở hữu, hoặc như các lương tâm mà chúng ta không được quyền để rơi vào tình trạng lưỡng lự hoang mang. Tôi xin lập lại : các bí tích và lương tâm là những điều thánh thiêng, cả hai đòi hỏi chúng ta phải phục vụ trong chân lý.
Đó là lý do của những luật pháp trong Hội Thánh.
VÀI TRƯỜNG HỢP TẾ NHỊ KHÁC
34. Tới đây, tôi thấy có bổn phận phải đề cập đến dù một cách vắn tắt đến một trường hợp mục vụ mà Thượng Hội Đồng đã muốn bàn luận trong khuôn khổ có thể được và đã được nhắc đến trong một kiến nghị. Tôi muốn nói đến vài trường hợp hiện nay không phải hiếm, liên hệ tới các Kitô hữu ước muốn thực hành các bí tích nhưng họ bị ngăn cản vì những điều kiện cá nhân của họ không hòa hợp với những điều mà họ đã cam kết trước mặt Chúa và Hội Thánh. Đây là những trường hợp xem ra khá tế nhị và hầu như bế tắc.
Tại Thượng Hội Đồng có nhiều phát biểu bày tỏ ý kiến chung của các nghị phụ, nhấn mạnh đến sự hiện hữu và hỗ tương của hai nguyên tắc cũng quan trọng như nhau trong những trường hợp này. Nguyên tắc thứ nhất là cảm thông và thương xót. Theo đó, Hội Thánh như là kẻ tiếp tục sự hiện diện và sự nghiệp của Chúa Kitô trong lịch sử, Đấng không muốn cho tội nhân phải chết nhưng được sống , Đấng rất ý tứ kẻo bẻ gãy cây lau, lung lay hay giật tắt đám tro leo lét . Hội Thánh phải luôn luôn tìm hết mọi cách có thể để dẫn đường cho con người trở về với Thiên Chúa và giao hòa với Người. Nguyên tắc thứ hai là sự thật và nhất thống, theo đó, Hội Thánh không thể nào gọi điều tốt là xấu, và gọi điều xấu là tốt. Dựa trên hai nguyên tắc bổ xung ấy, Hội Thánh chỉ có thể mời các con cái mình đang ở trong tình trạng đau khổ này hãy đến với lòng thương xót của Chúa bằng những con đường khác, nhưng không phải là qua các bí tích Sám hối và Thánh Thể, cho đến khi họ đạt được những sự chuẩn bị mà luật đòi hòi.
Với vấn đề này, chắc chắn đã gây ra biết bao thổn thức phiền não cho tâm hồn mục tử của chúng ta. Trong tông huấn Familiaris Consortio, tôi nhận thấy có trách vụ phải nói những lời lẽ thẳng thắn về những cặp ly dị tái hôn  hoặc những Kitô hữu ăn ở với nhau cách bất hợp pháp.
Đồng thời, cùng với Thượng Hội Đồng tôi cảm thấy mình có bổn phận khẩn nài các giáo đoàn, đặc biệt là các Giám mục, hãy hết lòng giúp đỡ các linh mục đã thiếu sót trong việc thi hành chức thánh và đang ở trong tình trạng bất hợp pháp. Cần làm sao để không ai trong những anh em này cảm thấy bị Hội Thánh bỏ rơi.
Đối với tất cả những người hiện nay không ở trong những điều kiện khách quan cần có để lãnh bí tích Sám hối, những sự biểu hiện lòng từ mẫu của Hội Thánh, sự nâng đỡ nhờ những hành vi đạo đức ngoài những hành vi bí tích, sự nỗ lực chân thành duy trì mối tương giao với Thiên Chúa, sự tham dự thánh lễ, việc năng lặp lại các kinh Tin Cậy Mến và ăn năn tội cách trọn khi có thể, những điều đó sẽ mở ra con đường đưa tới một sự hòa giải trọn vẹn vào giờ mà chỉ duy Thiên Chúa biết.
KẾT LUẬN
BÀY TỎ NIỀM HY VỌNG
35. Đến lúc kết thúc văn kiện này, tôi cảm thấy nơi tôi vang dội và mong muốn nhắc lại với tất cả anh chị em lời khuyên của vị Giám mục Rôma tiên khởi, trong giai đoạn nguy kịch của buổi đầu Hội thánh, ngài muốn ngỏ “cùng những dân ngoại kiều ly tán ... đã được tuyển chọn theo thánh ý Thiên Chúa Cha: tất cả hãy đồng tâm nhất trí, với lòng trắc ẩn, tình huynh đệ, con tim rung cảm và với tinh thần khiêm nhường” . Người đã răn dạy sống đồng tâm nhất trí ...”; nhưng liền sau đó, Người lại nhắc nhở cần phải tránh xa những tội trái nghịch với sự hiệp nhất và với bình an: “Đừng lấy ác báo ác, nguyền rủa đối lại nguyền rủa. Trái lại hãy chúc phúc, vì nhờ đó mà anh em đã được kêu gọi để thừa hưởng phúc lành”. Rồi ngài kết luận bằng một ngôn từ đầy khuyến khích và hy vọng: “Ai làm hại anh em được nếu anh em nhiệt thành làm việc thiện ?” .
Vào một giờ phút lịch sử không kém phần nguy kịch, tôi mạnh dạn tiếp nối lời khuyên nhủ của tôi với lời vị tông đồ trưởng này, người đầu tiên đảm nhận ngai tòa Rôma, như chứng nhân của Đức Kitô và mục tử của Hội Thánh và là “Đấng lãnh đạo theo lòng bác ái” trước mặt toàn thế giới. Trong niềm hiệp thông với hàng giám mục kế nhiệm các tông đồ, đồng thời với sự nâng đỡ nhờ cuộc suy tư tập đoàn mà nhiều vị giám mục nhóm họp ở Thượng Hội Đồng đã dành cho những đề tài và những vấn đề về hòa giải, tôi muốn ngỏ lời với anh chị em trong chính tinh thần của ngư phủ Galilê khi ngài nói với các anh chị em của chúng ta trong đức tin, tuy xa cách về thời gian nhưng lại rất gần qua tâm hồn: “Hãy đồng tâm nhất trí ... Đừng lấy ác báo ác ... Hãy nhiệt thành làm việc thiện”  và ngài còn thêm: “thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý Thiên Chúa còn hơn là vì làm điều ác” .
Tông huấn này đã được thấm nhiễm bởi những lời mà thánh Phêrô đã nghe từ chính Đức Giêsu và bởi những ý tưởng hợp thành Tin Mừng: Giới răn mới của tình tương thân tương ái; ước muốn mãnh liệt và sự dấn thân cổ võ cho sự hiệp nhất; các mối phúc của lòng thương xót và kiên nhẫn khi bị bách hại vì công chính; lấy điều lành đáp lại điều dữ; việc tha thứ cho những lăng nhục; yêu thương kẻ thù. Những lời và những ý tưởng này cấu thành nên tổng hợp độc đáo và siêu việt của luân lý Kitô Giáo, hay đúng hơn và thâm sâu hơn, của linh đạo của giao ước mới trong Đức Giêsu Kitô.
Tôi ký thác nơi Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót, tôi tín thác nơi Con Thiên Chúa, Đấng đã trở nên con người để là Đấng cứu độ và hòa giải của chúng ta; tôi tín thác nơi Chúa Thánh Thần, nguồn mạch hiệp nhất và bình an, và tôi ký thác nơi Ba Ngôi lời kêu gọi sám hối và hòa giải, với tư cách là một người cha và người mục tử. Ước mong sao Ba Ngôi cực thánh và đáng kính tôn làm nảy nở trong Hội Thánh và trong thế giới hạt giống nhỏ bé mà lúc này tôi đã gieo xuống mảnh đất màu mỡ của biết bao tâm hồn con người.
Để sớm thu họach được hoa trái dồi dào, tôi mời gọi tất cả anh chị em hãy cùng tôi hướng về trái tim Đức Kitô, dấu chứng hùng hồn của lòng thương xót Thiên Chúa, “của lễ đền tội chúng ta”, “niềm bình an và hòa giải của chúng ta” , hầu kín múc nơi đó sức mạnh nội tâm dẫn đưa chúng ta ra khỏi tội lỗi và qui hướng chúng ta về Thiên Chúa, đồng thời tìm thấy nơi đó lòng nhân ái của Thiên Chúa như lời đáp trả thân tình cho hối nhân.
Tôi cũng mời gọi anh chi em cùng tôi hướng về trái tim vẹn sạch Đức Maria, thân mẫu Đức Giêsu, nơi ngài “sự hòa giải của Thiên Chúa với nhân loại đã được thực hiện ... công trình hòa giải đã được hoàn tất, bởi vì Mẹ đã tiếp nhận từ Thiên Chúa ân sủng sung mãn nhờ hiến lễ cứu chuộc của Đức Kito”  Quả thật Mẹ Maria, bởi là Mẹ Thiên Chúa được kết nạp với Thiên Chúa trong công cuộc hòa giải .
Tiếng “xin vâng” của mẹ là đánh dấu khai mạc “thời viên mãn” mà sự hòa giải của con người với Thiên Chúa qua Đức Kitô đã được thực hiện. Chính trong lòng bàn tay của mẹ, chính trong trái tim vẹn sạch đó - nơi chúng ta hằng ký thác toàn thể nhân loại bị tội lỗi vây bủa và bị xâu xé bởi biết bao căng thẳng và xung đột - tôi lặp lại đặc biệt ý hướng này: ước mong nhờ sự bầu cử của Mẹ, nhân loại khám phá và bước đi trên con đường sám hối, con đường độc nhất có thể dẫn tới sự hòa giải toàn vẹn.
Hết tất cả anh chị em, những người mà trong tinh thần hiệp thông Hội Thánh, trong sự vâng lời và trong đức tin sẽ mau mắn đón nhận những chỉ dẫn, những gợi ý và những hướng dẫn được chứa đựng trong văn kiện này, trong nỗ lực rút ra những thực hành mục vụ sống động, tôi rất sẵn lòng ban phúc lành Tòa thánh của tôi.
Làm tại Rôma, gần đền thánh Phêrô,
ngày 02.12.1984,
Chúa nhật I Mùa vọng,
năm thứ 7 triều đại giáo hoàng của tôi