ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ
XVI: THƯ GỬI CÁC CHỦNG SINH
WHĐ (20.10.2010) – Ngày
18-10-2010, lễ Thánh Luca, tác giả sách Phúc âm, Tòa thánh Vatican công bố thư
của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI gừi các chủng sinh nhân Năm Linh mục kết thúc
cách nay chưa lâu và vẫn còn vang vọng dư âm và những tác động tích cực trong đời
sống của Giáo Hội.
Bức thư toát lên tình cảm
ưu ái và mối quan tâm đặc biệt của ĐTC đối với các chủng sinh, linh mục tương
lai của Hội Thánh. Đồng thời qua đó, còn cho thấy những hướng dẫn sâu sắc, đúc
kết từ kinh nghiệm cá nhân của ĐTC, dành cho các chủng sinh đang theo học tại
các chủng viện và những nhà đào tạo linh mục, về phương diện chuyên môn lẫn đường
lối tu đức, dành cho cuộc sống chủng sinh hiện tại và cuộc đời linh mục trong
tương lai.
Xin trân trọng giới thiệu
với quý độc giả toàn văn bức thư qua bản chuyển ngữ của Đức Thành.
* * *
Các chủng sinh thân mến,
Tháng Mười Hai 1944, cha được gọi nhập ngũ. Trung đội trưởng
hỏi từng người sau này mãn hạn quân dịch sẽ chọn nghề gì.Cha trả lời muốn trở
thành một linh mục Công giáo. Viên thiếu úy bảo: Bạn phải chọn nghề khác thôi.
Nước Đức mới không cầncác linh mục. Lúc đó cha đã biết “Nước Đức mới” sắp đến hồi
kết thúc, và sau khi đã bị cơn điên rồ tàn phá nặng nề, đất nước sẽ cần đến các
linh mục hơn bao giờ hết.
Ngày nay tình hình đã hoàn toàn đổi khác. Nhưng, bằng nhiều
cách khác nhau, nhiều người bây giờ cũng vẫn cho rằng linh mục Công giáo không
phải là một “nghề” của tương lai, mà thuộc về quá khứ.
Các bạn chủng sinh thân mến,
Các con đã quyết định vào chủng viện, và như vậy các con đang
tiến đến tác vụ linh mục trong Hội Thánh Công giáo, đi ngượclại mọi phản đối và
các ý kiến này khác. Các con đã làm đúng khi hành động như vậy. Bởi con người
luôn cần Chúa, ngay cảtrong thời đại kỹ thuật và toàn cầu hóa thống trị thế giới:
Thiên Chúa, Đấng trở nên hữu hình trong Chúa Giêsu Kitô và quy tụchúng ta trong
Giáo Hội phổ quát, để với Người và nhờ Người, chúng ta biết được sự sống thật
và làm cho các chuẩn mực mang giá trị nhân văn trở thành hiện thực.
Ở đâu con người không nhận biết Chúa, ở đấy cuộc sống trở nên
trống rỗng, mọi sự đều vô nghĩa. Rồi con người tìm trú ẩn trong nghiện ngập hay
bạo lực vốn luôn là mối nguy cơ, đặc biệt luôn rình rập giới trẻ. Thiên Chúa là
Đấng hằng sống. Ngài dựng nên và biết rõ từng người trong chúng ta. Chúa quá đỗi
lớn lao, đến nỗi Ngài có thời gian dành cho những điều bé nhỏ của chúng ta:
“Tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi”. Thiên Chúa là Đấng hằng sống và Ngài
cần con người sống cho Ngài và đưa Ngài đến với những người khác. Vâng, trở
thành linh mục nghĩa là: thế giới cần những linh mục, các mục tử cho hôm nay,
ngày mai và mãi mãi, bao lâu thế giới này còn tồn tại.
Chủng viện là một cộng đồng đang trên đường tiến đến tác vụ
linh mục. Với ý nghĩa đó, cha đã từng nói đến điều rất quan trọng là: ta không
trở thành linh mục trơ trọi một mình. Phải là “một cộng đoàn môn đệ”, một tập
thể những người muốn phục vụ Giáo Hội. Viết thư này, qua việc nhìn lại thời
gian học ở chủng viện, cha muốn làm nổi bật một vài yếu tố quan trọng cho những
nămchúng con đang theo đuổi con đường của mình.
1. Bất cứ ai muốn trở thành linh mục, trước hết phải là “người
của Chúa”, như Thánh Phaolô đã viết (1 Tm 6, 11). Đối với chúng ta, Thiên Chúa
không phải là một giả định xa vời, không phải là một người xa lạ tự rút lui sau
vụ nổ “big bang”. ThiênChúa mặc khải chính mình trong Chúa Giêsu Kitô. Trên
khuôn mặt của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta nhìn thấy khuôn mặt của Thiên Chúa.
Trong lời Chúa Giêsu nói, chúng ta nghe chính Thiên Chúa nói với chúng ta. Vì vậy,
điều quan trọng nhất trên đường tiến đến chức linh mục và trong suốt cuộc đời
linh mục, là sống mối tương quan cá nhân với Chúa trong Đức Giêsu Kitô.
Linh mục không phải là nhà quản lý hiệp hội, tìm cách duy trì
và phát triển số lượng hội viên. Linh mục là sứ giả của Thiên Chúaở giữa mọi
người. Ngài muốn dẫn con người đến với Thiên Chúa, và như thế, làm cho họ ngày
càng nên một với nhau hơn.
Vì lẽ đó, các bạn chủng sinh thân mến, các con cần học biết sống
trong mối tương giao thường trực với Thiên Chúa. Chúa nói:“Hãy cầu nguyện
luôn”, theo lẽ tự nhiên, Ngài không đòi chúng ta phải đọc kinh liên tục, nhưng
chính là đừng bao giờ đánh mấtmối dây liên lạc nội tâm với Thiên Chúa. Thực thi
mối liên hệ này chính là ý nghĩa việc cầu nguyện của chúng ta. Do đó, cần phải
bắt đầu và kết thúc ngày sống của mình bằng việc cầu nguyện. Chúng ta hãy nghe
Chúa nói qua việc đọc Kinh Thánh. Chúng ta hãy nói với Chúa mọi ước ao và mong
đợi, mọi niềm vui nỗi buồn, những sai lầm và dâng lời tạ ơn vì mọi điều tốt
lành,như thế chúng ta luôn luôn đặt Chúa trước mặt, làm đích quy chiếu cho đời
mình. Vậy chúng ta hãy xét mình về những sai lỗi và học cách làm việc để nên tốt
hơn, đồng thời cũng trở nên nhạy cảm với mọi cái thiện và từng cái đẹp vẫn diễn
ra mỗi ngày và do đó càng thêm lòng biết ơn. Và với lòng biết ơn, niềm vui được
thêm lên vì biết Thiên Chúa ở gần chúng ta và chúng ta có thể phục vụ Ngài.
2. Thiên Chúa không chỉ là Lời nói với chúng ta. Trong các bí
tích, Ngài còn tự hiến mình cho chúng ta, thông qua những sự vật hữu hình.
Trung tâm mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa và làm cho cuộc sống của
chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa chính là Bí tích Thánh Thể. Cử hành
Bí tích Thánh Thể với sự tham dự nội tâm và như thế gặp gỡ chính con người của
Đức Kitô, phải là trung tâm của mọi ngày trong cuôc đời chúng ta. Thánh
Cyprianô đã giải thích lời cầu xin trong Tin Mừng: “Xin cho chúng con hôm nay
lương thực hằng ngày”, cho rằng: lương thực, tức bánh chúng ta nhận được trong
tư cách là Kitô hữu trong Giáo Hội, là chính Chúa Giêsu Thánh Thể. Trong lời cầu
của kinh Lạy Cha, chúng ta xin Chúa ban lương thực hằng ngày cho “chúng ta”; để
Chúa mãi là lương thực cho cuộc đời chúng ta. Xin Chúa Kitô phục sinh, Đấng hiến
mình cho chúng ta trong Thánh Thể, dùng ánh quang tình yêu rạng ngời của Chúa
mà uốn nắn cả cuộc đời chúng ta.
Để cử hành Thánh Thể đúng đắn cũng cần phải học biết, hiểu và
yêu mến phụng vụ với thể thức cụ thể của Giáo Hội. Trong phụng vụ, chúng ta cầu
nguyện cùng với các tín hữu mọi thời đại - quá khứ, hiện tại và tương lai, đang
quy tụ trong một cộng đoàn duy nhất cùng hợp ca cầu nguyện. Từ kinh nghiệm bản
thân, cha có thể khẳng định, thật là thú vị khi được học hỏi và từng bước nhận
ra con đường tiến triển của tất cả những điều ấy, nhận ra biết bao kinh nghiệm
đức tin chứa đựng trong cấu trúc của phụng vụ Thánh lễ, và nhận ra có biết bao
thế hệ đã góp phần hình thành nền phụng vụ bằng cầu nguyện!
3. Bí tích Thống Hối cũng quan trọng. Bí tích này dạy cha
nhìn bản thân từ điểm nhìn của Thiên Chúa và đòi buộc cha phải trung thực với
chính mình. Bí tích này dẫn cha đi đến tính khiêm nhường. Cha sở họ Ars có lần
đã nói: Anh chị em cho rằng, lãnh ơn xá giải cũng chẳng có ý nghĩa gì, vì hôm
nay được tha, ngày mai lại tái phạm. Nhưng –thánh nhân nói– ngay vào lúc này,
chính Thiên Chúa đã quên các tội của anh chị em ngày mai, để ban ơn thánh cho
anh chị em ngay từ hôm nay. Mặc dù chúng ta phải chiến đấu liên lỉ chống lại
cũng những lỗi lầm ấy, điều quan trọng là khắc phục tình trạng u mê của linh hồn,
thói thờ ơ mặc kệ muốn ra sao thì ra. Cần phải tiếp tục bước đi, không bối rối,
với ý thức biết ơn Chúa vẫn cứ mãi tha thứ cho mình. Và cũng không được có thái
độ dửng dưng khiến cho ta không còn phấn đấu để nên thánh và nên tốt hơn. Và
khi đặt mình xin được tha thứ, nhận ra mình còn phải tha thứ cho tha nhân nữa.
Nhận ra tình cảnh khốn cùng của bản thân, chúng ta sẽ khoan dung và cảm thông
hơn đối với những yếu đuối của tha nhân.
4. Các con hãy giữ cho mình luôn nhạy cảm đối với lòng đạo đức
bình dân vốn đa dạng, tùy mỗi nền văn hóa, nhưng vẫn luôn rất tương đồng, vì cuối
cùng, trái tim con người luôn luôn giống nhau.
Dĩ nhiên, lòng đạo đức bình dân dễ thiên về cảm tính phi
lôgích, kể cả đôi khi cũng vụ hình thức bề ngoài.
Nhưng sẽ rất sai lầm nếu lại loại bỏ lòng đạo đức bình dân.
Qua lòng đạo đức ấy, đức tin đi vào tâm hồn con người, trở thành một phần của
những xúc cảm, thói quen, cách cảm nhận và phong cách sống của họ. Vì thế, lòng
đạo đức bình dân là một di sản lớn của Giáo Hội. Đức tin trở thành máu thịt. Chắc
chắn lòng đạo đức bình dân phải luôn được thanh tẩy, đưa vào trọng tâm, nhưng vẫn
đáng được chúng ta yêu mến, và lòng đạo đức ấy làm cho chúng ta trở thành “Dân
Chúa” một cách rất thực tế.
5. Thời gian ở chủng viện cũng là và trên hết là thời gian học
hỏi.
Đức Tin Kitô giáo có chiều kích lý trí và trí tuệ, vốn là chiều
kích cốt yếu của đức Tin. Nếu không có chiều kích này, đức Tin chẳng còn là đức
Tin nữa. Thánh Phaolô nói đến “một hình thức giáo dục” mà chúng ta được ủy thác
trong phép Rửa tội (Rm 6,17). Tất cả các con đều biết câu nói của Thánh Phêrô,
được các nhà thần học thời Trung Cổ coi là lời minh chứng cho một nền thần học
được xây dựng hợp lý và khoa học: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai
hỏi các anh em về ‘nguyên lý’ (logos) của niềm hy vọng nơi anh em” (1P 3,15).
Học tập để có thể đưa ra những câu trả lời như thế chính là một
trong những mục tiêu chủ yếu của những năm ở chủng viện. Cha thiết tha xin các
con: hãy nghiêm chỉnh học hành! Hãy tận dụng những năm được học hỏi, các con sẽ
không phải ân hận!
Có lẽ nhiều khi các môn học có vẻ xa rời thực tế cuộc sống
Kitô hữu và công tác mục vụ. Nhưng sẽ hoàn toàn sai lầm khi cứ đặt vấn đề theo
kiểu thực dụng: điều này giúp được gì cho tôi sau này? Điều này có lợi ích thực
tế và hữu dụng cho việc mục vụ hay không? Học không chỉ nhắm đến lợi ích hiển
nhiên mà còn để biết và hiểu được cơ cấu nội tại của đức Tin trong toàn cục, để
đức Tin trở thành lời giải đáp cho những khắc khoải của con người, nếu nhìn bề
ngoài thì thấy những khắc khoải ấy thay đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác,
nhưng về cơ bản chúng vẫn giống nhau. Vì thế, quan trọng là vượt qua những câu
hỏi nhất thời để nắm được các vấn đề thực sự cơ bản, rồi hiều và đưa ra những
câu trả lời đích thực.
Điều quan trọng là phải hiểu biết kỹ lưỡng toàn bộ Kinh
Thánh, trong sự thống nhất giữa Cựu và Tân Ước: sự hình thành các văn bản, đặc
tính văn thể, quá trình từ lúc viết ra cho đến khi hình thành quy điển Kinh
Thánh, tính thống nhất linh hoạt trong cấu trúc nội tại chứ không ở trên bề mặt.
Chỉ có sự thống nhất như thế mới mang lại cho toàn bộ và cho từng văn bản ý
nghĩa trọn vẹn của Kinh Thánh.
Một điều quan trọng nữa là, học về các Giáo phụ và các Đại
Công đồng, và qua các công đồng này, bằng những suy tư và xác tín, Giáo Hội đã
hấp thụ những khẳng định nòng cốt của Kinh Thánh. Cha có thể nói thêm: điều mà
chúng ta gọi là tín lý, đó là cách thức hiểu nội dung đức tin trong tính thống
nhất và trong cả sự đơn giản cực độ của những nội dung ấy: từng chi tiết đơn nhất
cuối cùng cũng là sự triển khai niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã và
đang tỏ mình ra cho chúng ta.
Cha không cần phải nói rõ về tầm quan trọng của việc hiểu biết
những vấn đề chủ yếu của thần học luân lý và học thuyết xã hội của Giáo Hội
Công giáo. Ngày nay thần học đại kết quan trọng biết bao; rõ ràng cần phải có sự
hiểu biết về các cộng đoàn Kitô hữu khác nhau; cũng vậy cần phải có một định hướng
căn bản về những tôn giáo lớn, và cũng đừng quên triết học: hiểu biết về sự tìm
kiếm của con người và những vấn đề được con người đặt ra, mà đức tin có thể
mang lại một câu trả lời cho những vấn đề ấy.
Các con cũng hãy học hỏi, và có thể nói, hãy yêu mến giáo luật
vốn cần thiết và thiết thực: một xã hội không có luật sẽ là một xã hội thiếu
các quyền. Luật là điều kiện của tình yêu. Bây giờ cha không muốn tiếp tục liệt
kê nữa, nhưng chỉ muốn nhắc lại rằng: các con hãy yêu mến việc học thần học và
chuyên chăm theo đuổi môn học này, để môn thần học ăn rễ sâu trong cộng đồng sống
động của Giáo Hội. Huấn quyền Giáo Hội không phải là một đối cực của khoa thần
học, nhưng là tiền đề của thần học. Nếu không có Giáo Hội đang sống niềm tin,
thì thần học không còn là chính mình nữa và trở thành một tập hợp những môn học
khác nhau mà không có sự thống nhất bên trong.
6. Những năm tháng ở chủng viện cũng còn phải là thời kỳ trưởng
thành về nhân bản. Đối với linh mục, người đồng hành với tha nhân suốt đời cho
đến chết, điều quan trọng là phải giữ quân bình giữa trái tim và trí hiểu, giữa
lý trí và tình cảm, giữa thể xác và linh hồn, và linh mục phải “toàn vẹn” là
con người.
Chính vì thế truyền thống Kitô giáo vẫn luôn liên kết các
“nhân đức đối thần” với “các nhân đức trụ cột” phát xuất từ kinh nghiệm nhân
sinh và từ triết học, và nói chung là truyền thống đạo đức lành mạnh của nhân
loại. Thánh Phaolô đã nói rất rõ điều đó với các tín hữu Philiphê: “Sau cùng,
thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, chính trực, tinh tuyền, những gì
là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen,
thì xin anh em hãy để ý” (4,8). Việc gắn tính dục với toàn bộ nhân cách cũng nằm
trong bối cảnh này. Tính dục là một món quà của Đấng Tạo Hóa, nhưng cũng là một
nhiệm vụ hướng đến sự phát triển con người. Nếu không gắn vào nhân vị con người,
thì tính dục sẽ trở nên tầm thường và mang tính phá hoại. Trong xã hội chúng ta
ngày nay nhiều ví dụ đã cho chúng ta thấy rõ như thế.
Gần đây chúng ta rất đau lòng thừa nhận có những linh mục đã
làm méo mó hình ảnh sứ vụ của mình vì lạm dụng tính dục đối với trẻ con và người
trẻ. Thay vì hướng dẫn những người trẻ ấy được trưởng thành nhân bản và nêu
gương cho họ, thì các linh mục đó, qua sự lạm dụng, đã gây ra những phá hoại
khiến chúng ta cảm thấy rất tiếc và đau lòng. Bởi, tất cả những điều ấy khiến
cho nhiều người, và có lẽ cả các con nữa, có thể đặt vấn đề trở thành linh mục
liệu còn tốt đẹp nữa hay không, và liệu con đường sống độc thân có hợp lý như
cuộc sống của con người hay không. Tuy nhiên, việc phải dứt khoát lên án sự lạm
dụng tình dục không thể làm mất thế giá của sứ vụ linh mục. Sứ vụ này vẫn cao cả
và tinh tuyền.
Tạ ơn Chúa, chúng ta đều biết tất cả các linh mục vẫn rất xác
tín, đầy đức tin, đang làm chứng rằng trong tình thế này và nhất là trong đời sống
độc thân, vẫn có thể đạt tới tính nhân bản đích thực, tinh tuyền và trưởng
thành. Những gì đã xảy ra khiến chúng ta phải tỉnh thức và lưu tâm hơn, nhất là
phải xét mình thật kỹ lưỡng trước mặt Chúa, trên đường tiến đến chức linh mục,
để biết đó có phải là ý Chúa muốn đối với mình hay không. Các cha giải tội và bề
trên của các con có nhiệm vụ đồng hành và giúp đỡ các con cân nhắc và quyết định.
Thực hành các đức tính nhân bản nền tảng là một yếu tố chủ yếu trên đường các
con đang đi, bằng cách giữ vững tầm nhìn hướng về Chúa, Đấng đã tỏ mình ra
trong Chúa Kitô, và bằng cách luôn để cho Chúa thanh tẩy mình thêm nữa.
7. Ngày nay, những bước khởi đầu ơn gọi linh mục đa dạng và
phong phú hơn xưa. Quyết định trở thành linh mục ngày nay thường nảy sinh khi
đã có kinh nghiệm làm việc ở ngoài đời. Quyết định ấy chín dần trong sự gắn bó
với cộng đoàn, đặc biệt với các hoạt động, dẫn đến sự gặp gỡ mang tính chất cộng
đoàn với Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, đem lại kinh nghiệm thiêng liêng và niềm
vui được phục vụ đức tin. Quyết định cũng chín dần qua những cuộc gặp gỡ mang
tính chất cá nhân đối với vẻ cao cả và cảnh khốn khó của con người. Như thế,
các ứng sinh linh mục thường sống trên những lục địa thiêng liêng rất đa dạng.
Khó có thể nhận ra những yếu tố chung giữa những người sẽ được sai đi và hành
trình tinh thần của họ. Chính vì vậy chủng viện quan trọng như một cộng đoàn lữ
hành vượt lên trên những hình thức linh đạo khác nhau.
Các phong trào cũng thật tuyệt vời. Các con biết cha đánh giá
cao và quý mến các phong trào như ơn của Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội. Tuy
nhiên các phong trào hoạt động cần phải được phát triển theo hướng mở ra cho hiện
thực phổ biến của người Công giáo, cho đời sống của Giáo Hội duy nhất và phổ
quát của Chúa Kitô, tuy có nhiều khác biệt nhưng vẫn là một.
Chủng viện là thời kỳ các con học hỏi với người khác, và học
hỏi lẫn nhau. Trong đời sống chung, đôi khi có những khó khăn, nhưng các con phải
học thái độ quảng đại và bao dung, không những bằng cách chịu đựng lẫn nhau,
nhưng còn làm cho nhau được thêm phong phú, để mỗi người có thể có đóng góp
riêng cho tập thể, trong khi đó, tất cả đều phục vụ cùng một Giáo Hội, cùng một
Chúa. Hơn nữa, ngôi trường này dạy biết sống bao dung, đón nhận và cảm thông lẫn
nhau trong sự hiệp nhất của Thân Mình Chúa Kitô, là những yếu tố quan trọng
trong những năm tháng các con học ở chủng viện.
Các chủng sinh thân mến!
Qua những dòng này cha đã muốn tỏ cho các con biết cha đang
nghĩ đến các con, nhất là trong thời kỳ khó khăn này, và trong kinh nguyện, cha
ở gần các con biết bao. Các con cũng hãy cầu nguyện để cha có thể chu toàn sứ vụ
của mình như ý Chúa muốn. Cha phó thác cuộc hành trình của các con chuẩn bị tiến
đến chức linh mục nơi sự phù trợ của Đức Trinh Nữ Maria. Ngôi nhà của Mẹ đã từng
là một trường học dạy điều thiện hảo và ân sủng của Chúa.
Xin Thiên Chúa toàn năng là Cha, và Con và Thánh Thần, chúc
lành cho tất cả các con.
Vatican, 18-10-2010
Bênêđictô XVI, Giáo hoàng
Đức Thành chuyển ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nhận xét!