TÔNG HUẤN
NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG
EVANGELII GAUDIUM
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
Bản dịch của Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng
trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
LỜI MỞ
Kính thưa quý vị,
Tại Hội Thảo “Renewed Biblical Apostolate for New
Evangelization” do Văn phòng Loan Báo Tin Mừng của Liên Hiệp Hội Đồng
Giám Mục Châu Á (FABC-OE) tổ chức tại Thái Lan 05 - 07/12/2013, chúng tôi được
trao văn bản Anh ngữ tông huấn Evangelii Gaudium. Vị chủ tọa khuyến khích chúng
tôi phổ biến giáo huấn này của Đức Giáo Hoàng. Chúng tôi chuyển dịch sang Việt
ngữ để chia sẻ với cộng đồng dân Chúa Việt Nam. Sau phần chú thích, chúng
tôi giới thiệu vài dòng phụ chú về các “đường link” để quý vị tham khảo.
Hy vọng đây là một lực đẩy mới cho nổ lực Loan Báo Tin
Mừng của sứ vụ mà Đức Kitô mới gọi chúng ta dấn thân thực hiện.
Xin Chúa chúc lành cho việc Tông đồ của chúng ta.
Linh Mục Đaminh Ngô Quang Tuyên
Thư ký, thay mặt UB LBTM/HĐGM.VN
TÔNG HUẤN
NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG
EVANGELII GAUDIUM
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
GỬI CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ,
CÁC NGƯỜI THÁNH HIẾN VÀ GIÁO DÂN
VỀ VIỆC RAO GIẢNG TIN MỪNG
TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY
1. NIỀM
VUI CỦA TIN MỪNG đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa
Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người đều được giải thoát khỏi tội
lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm vui luôn luôn
được tái sinh. Trong Tông Huấn này, tôi muốn khích lệ các tín hữu đi vào một
chương mới của công cuộc loan báo Tin Mừng ngập tràn niềm vui này, đồng thời
vạch ra những lối đi mới cho hành trình của Hội Thánh trong những năm sắp tới.
I. MỘT NIỀM VUI LUÔN LUÔN MỚI MẺ, NIỀM VUI ĐƯỢC CHIA SẺ
2. Mối
nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu
thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng
tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ. Khi
mà đời sống nội tâm của chúng ta bị trói chặt trong những lợi ích và những mối
quan tâm riêng của nó, thì không còn chỗ cho người khác, không còn chỗ cho
người nghèo. Tiếng nói của Thiên Chúa không còn được nghe thấy, niềm vui an
bình của tình yêu của Người không còn được cảm thấy, và ước muốn làm điều thiện
bị phai mờ. Đây chính là một mối nguy cho cả người tín hữu. Nhiều người rơi vào
mối nguy này, và kết cục là cảm giác bực bội, tức giận và chán nản. Đó không
phải là cách để chúng ta sống một đời sống xứng đáng và sung mãn; đó không phải
là ý muốn của Thiên Chúa đối với chúng ta, cũng không phải là đời sống trong
Thần Khí bắt nguồn từ trái tim của Đức Kitô phục sinh.
3. Tôi
kêu mời mọi Kitô hữu ở khắp nơi, ngay lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ mới mẻ với
Đức Giêsu Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình; tôi xin tất
cả anh chị em không ngừng làm điều này mỗi ngày. Không ai được nghĩ rằng lời
mời gọi này không phải dành cho mình, vì không một ai bị loại trừ khỏi niềm vui
mà Chúa Giêsu đem đến”.[1] Chúa không làm thất vọng những ai chấp nhận sự liều
lĩnh này; mỗi khi chúng ta bước một bước đến gần Chúa Giêsu, chúng ta hiểu ra
rằng Người đã đang ở đó, đang mở rộng vòng tay chờ đón chúng ta. Bây giờ là lúc
để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị lừa; con đã trốn tránh tình
yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa con lại đến đây, để canh
tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu con một lần nữa, Lạy Chúa,
xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần nữa”. Vui biết chừng nào
khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối! Xin cho tôi lặp lại điều
này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha thứ cho chúng ta; chỉ có
chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của Ngài. Là người dạy chúng ta phải
tha thứ cho nhau, Đức Kitô đã làm gương: Ngài đã tha cho chúng ta bảy mươi lần
bảy. Ngài không ngừng vác chúng ta lên vai trở lại. Không ai có thể lấy mất của
chúng ta cái nhân phẩm Ngài đã ban cho chúng ta do lòng thương vô biên của
Ngài. Với một sự dịu dàng không bao giờ gây thất vọng nhưng luôn luôn có sức
phục hồi niềm vui của chúng ta, Ngài làm cho chúng ta có thể ngẩng đầu lên và
bắt đầu lại. Chúng ta đừng chạy trốn sự phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta đừng
bao giờ ngã lòng, bất luận điều gì xảy ra. Chúng ta đừng để điều gì thúc đẩy
chúng ta hơn là sự sống của Ngài, sự sống thôi thúc chúng ta tiến bước!
4. Các
sách Cựu Ước báo trước niềm vui cứu độ sẽ ngập tràn vào thời thiên sai. Ngôn sứ
Isaia hoan hỉ chào đón Đấng Mêsia từng được trông đợi: “Chúa đã làm cho dân nên
đông số, đã cho dân chan chứa niềm vui” (9:3 [9:2]). Ông khuyến khích những ai
đang ở Xion hãy ra nghênh đón Ngài với lời ca tiếng hát: “Hãy reo hò mừng rỡ!”
(12:6). Ông bảo những ai đã thấy Ngài từ đàng xa hãy đem tin vui này đến cho người
khác: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin
mừng cho Giê-ru-sa-lem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh” (40:9). Mọi tạo vật
được chia sẻ niềm vui cứu độ: “Trời hãy hò reo, đất hãy nhảy múa, núi non hãy
bật tiếng hò reo, vì Ðức Chúa ủi an dân Người đã chọn và chạnh lòng thương
những kẻ nghèo khổ của Người” (49:13).
Hướng
về Ngày của Đức Chúa, ngôn sứ Dacaria kêu mời dân chúng tung hô Đức Vua ngự đến
“khiêm tốn ngồi trên lưng một con lừa”: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan
hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Ðức Vua của ngươi
đang đến với ngươi: Người là Ðấng Chính Trực, Ðấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi
trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” (9:9).
Có lẽ
phấn khởi nhất là lời mời gọi của ngôn sứ Xôphônia, khi ông mô tả cảnh Thiên
Chúa ở với dân Người đang tưng bừng mừng lễ với đầy tràn niềm vui cứu độ. Tôi
thấy vô cùng xúc động khi đọc lại bản văn này: “Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi
đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Ðấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ
vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa
sẽ nhảy múa tưng bừng, như trong ngày lễ hội” (3:17).
Đây là
niềm vui chúng ta cảm nghiệm hằng ngày, giữa những chuyện nhỏ nhặt trong đời
sống, để đáp lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa Cha chúng ta: “Con ơi,
hãy vui hưởng những gì con có... Đừng từ khước những niềm vui trong ngày” (Hc
14:11, 14). Dịu dàng biết bao tình phụ tử vang vọng trong những lời này!
5.
Choáng ngợp vinh quang của thập giá Đức Kitô, sách Tin Mừng không ngừng mời gọi
chúng ta vui mừng. Chỉ cần nêu ra đây một vài ví dụ. “Mừng vui lên!” là lời
thiên thần chào Đức Maria (Lc 1:28). Đức Maria đến thăm bà Êlisabét làm cho
Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ (xem Lc 1:41). Trong bài ca tán tụng của Mẹ, Đức
Maria thốt lên: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, Ðấng cứu độ tôi” (Lc
1:47). Khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài, ông Gioan kêu lên: “Vì thế niềm
vui của tôi đã được trọn vẹn” (Ga 3:29). Chính Đức Giêsu “vui mừng trong Thần
Khí” (Lc 10:21). Sứ điệp của Ngài đem niềm vui đến cho chúng ta: “Thầy đã nói
những điều này cho anh em, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của
anh em được trọn vẹn” (Ga 15:11). Niềm vui của người Kitô hữu chúng ta tuôn
chảy từ trái tim dạt dào của Ngài. Ngài hứa với các môn đệ: “Anh em sẽ lo buồn,
nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16:20). Rồi ngài tiếp:
“Nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em,
không ai lấy mất được” (Ga 16:22). Các môn đệ “vui mừng” (Ga 20:20) khi nhìn
thấy Chúa Kitô phục sinh. Trong sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy các Kitô
hữu tiên khởi “dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ” (2:46). Bất kể các môn đệ đi
đến đâu, “ở đó, người ta rất vui mừng” (8:8); ngay cả giữa cơn bách hại, họ vẫn
“ngập tràn niềm vui” (13:52). Viên quan thái giám vừa mới được rửa tội “tiếp
tục lên đường, lòng đầy hoan hỉ” (8:39), trong khi người cai ngục của Phaolô
“và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên Chúa” (16:34). Thế thì tại sao chúng ta lại
không đi vào cùng dòng suối niềm vui ấy?
6. Có
những Kitô hữu sống đời mình giống như chỉ có mùa Chay mà không có mùa Phục
Sinh. Đương nhiên tôi hiểu rằng niềm vui ấy không phải lúc nào trong cuộc đời
cũng được biểu lộ giống nhau, nhất là trong những lúc hết sức khó khăn. Niềm
vui tự thích ứng và thay đổi, nhưng nó luôn luôn tồn tại, dù chỉ như một ngọn
đèn leo lét phát sinh từ niềm tin chắc của chúng ta rằng, bất luận thế nào,
chúng ta được thương yêu vô bờ. Tôi hiểu được nỗi ưu phiền của những người phải
chịu đau khổ nặng nề, nhưng tuy chậm mà chắc chắn, tất cả chúng ta phải để cho
niềm vui của đức tin từ từ làm sống lại một lòng trông cậy âm thầm nhưng kiên
vững, ngay cả giữa những thử thách nặng nề nhất: “Hồn tôi hết được bình an thư
thái, tôi đã quên mùi hạnh phúc rồi... Ðây là điều con suy đi gẫm lại, nhờ thế
mà con vững dạ cậy trông: Lượng từ bi Ðức Chúa đâu đã cạn, lòng thương xót của
Người mãi không vơi. Sáng nào Người cũng ban ân huệ mới. Lòng trung tín của
Người cao cả biết bao! ... Biết thinh lặng đợi chờ, đợi chờ ơn cứu độ của Ðức
Chúa, đó là một điều hay” (Ac 3:17, 21-23, 26).
7. Đôi
khi chúng ta bị cám dỗ kiếm cớ để than thở và hành động như thể chúng ta chỉ có
thể hạnh phúc nếu có hàng ngàn các điều kiện. Phần nào đó là vì “xã hội kỹ
thuật của chúng ta đã tạo ra vô số điều kiện để hưởng thụ, nhưng lại rất khó
tạo ra niềm vui”.[2] Tôi có thể nói rằng trong đời mình, tôi đã thấy những
biểu hiện đẹp nhất và tự nhiên nhất của niềm vui nơi những người nghèo hầu như
không có gì để bám víu vào. Tôi cũng nghĩ đến niềm vui đích thực được biểu lộ
bởi những người khác, những người mà giữa những bó buộc đầy áp lực của nghề
nghiệp, họ vẫn có thể giữ vững được niềm tin trong sự thanh thoát và đơn sơ của
họ. Với mỗi người tuỳ theo cách của mình, tất cả các niềm vui này đều bắt nguồn
từ tình thương vô biên của Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải cho chúng ta trong Đức
Giêsu Kitô. Tôi không bao giờ thấy chán khi lặp lại lời của Đức Bênêđictô đưa
chúng ta vào chính tâm điểm của Tin Mừng: “Là Kitô hữu không phải là kết quả
của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao siêu, nhưng là gặp gỡ với một biến
cố, một con người, sự gặp gỡ đem đến cho cuộc đời một chân trời mới và một
hướng đi quyết định”.[3]
8. Chỉ
nhờ sự gặp gỡ này—hay sự gặp gỡ mới mẻ này—với tình yêu của Thiên Chúa, được
triển nở thành một tình bạn phong phú, chúng ta được giải phóng khỏi sự chật
hẹp và khép kín của mình. Chúng ta trở thành con người đầy đủ khi chúng ta trở
thành hơn là con người, khi chúng ta để mình được Thiên Chúa đưa vượt qua chính
mình để đạt tới sự thật đầy đủ nhất về hiện hữu của mình. Ở đây chúng ta tìm
thấy nguồn mạch và cảm hứng cho mọi nỗ lực phúc âm hoá của chúng ta. Bởi nếu
chúng ta đã nhận được tình yêu phục hồi ý nghĩa cho cuộc đời mình, làm sao
chúng ta có thể không chia sẻ tình yêu ấy với người khác?
II. NIỀM VUI DỊU NGỌT VÀ PHẤN KHỞI CỦA VIỆC LOAN BÁO TIN
MỪNG
9.
Lòng tốt luôn có khuynh hướng lan toả. Tự bản chất, mọi kinh nghiệm đích thực
về sự thật và lòng tốt đều tìm cách lớn lên trong chúng ta, và bất cứ ai đã
từng trải nghiệm một sự giải thoát sâu xa đều trở nên mẫn cảm hơn với nhu cầu
của người khác. Khi lan toả, lòng tốt bén rễ và phát triển. Nếu chúng ta muốn
có một cuộc sống xứng đáng và sung mãn, chúng ta phải vươn ra tới người khác và
mưu cầu lợi ích cho họ. Hiểu theo nghĩa này, một số câu nói của Thánh Phaolô sẽ
không làm chúng ta ngạc nhiên: “Tình yêu của Đức Kitô thúc bách tôi” (2C 5:14);
“Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1C 9:16).
10.
Tin Mừng cho chúng ta cơ hội để sống ở một bình diện cao hơn nhưng không kém
phần mãnh liệt: “Cuộc sống phát triển bằng cách cho đi, nó suy yếu khi sống cô
lập và dễ dãi. Thực vậy, những người vui hưởng đời sống nhiều nhất là những
người bỏ lại sự an toàn trên bờ và được kích thích bởi sứ mạng thông truyền
cuộc sống cho người khác”.[4] Khi kêu gọi người Kitô hữu đảm nhận nhiệm vụ loan
báo Tin Mừng, Hội Thánh chỉ đơn giản vạch ra cho họ thấy nguồn mạch đích thực
của sự hoàn thành bản thân. Bởi vì “ở đây chúng ta khám phá ra một qui luật sâu
xa của thực tại: đó là chúng ta đạt được sự sống và làm nó phát triển tuỳ theo
mức độ chúng ta từ bỏ nó để trao ban sự sống cho người khác. Đây chắc chắn là ý
nghĩa của truyền giáo”.[5] Do đó người loan báo Tin Mừng không bao giờ được
mang bộ mặt của một người vừa đi đưa đám về! Chúng ta hãy lấy lại và đào sâu sự
phấn khởi của mình, đào sâu “niềm vui dịu ngọt và phấn khởi của việc loan báo
Tin Mừng, cả khi chúng ta phải gieo trong nước mắt... Và chớ gì thế giới của
thời đại chúng ta, một thế giới đang kiếm tìm, khi thì trong lo âu, khi thì
trong hi vọng, có thể nhận được tin mừng không phải từ những người rao giảng
rầu rĩ, chán nản, mất kiên nhẫn hay lo âu, nhưng từ những thừa tác viên Tin
Mừng đang sống một cuộc đời đầy nhiệt huyết, những người trước đó đã nhận được
niềm vui của Đức Kitô”.[6]
Sự mới
mẻ vĩnh hằng
11.
Canh tân việc rao giảng có thể cống hiến cho các tín hữu, cũng như cho những
người nguội lạnh và không sống đạo, một niềm vui mới trong đức tin và hiệu quả
trong hoạt động truyền giáo. Tâm điểm của sứ điệp rao giảng sẽ vẫn luôn luôn là
một: Thiên Chúa, Đấng mặc khải tình thương vô biên của Người nơi Đức Kitô chịu
đóng đinh và phục sinh. Thiên Chúa không ngừng đổi mới những người con trung
thành của Người, bất kể ở lứa tuổi nào: “Họ sẽ trèo lên cao bằng đôi cánh đại
bàng, sẽ chạy mà không mệt, sẽ đi bộ mà không xỉu” (Is 40:31). Đức Kitô là “Tin
Mừng vĩnh cửu” (Kh 14:6); Ngài “vẫn là một, hôm qua, hôm nay và mãi mãi” (Dt
11:33), nhưng sự giàu có và vẻ đẹp của Ngài thì vô biên. Ngài mãi mãi trẻ trung
và là nguồn mạch vĩnh hằng của cái mới. Hội Thánh không ngớt kinh ngạc trước
“chiều sâu của sự giàu có, khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa” (Rm 11:33).
Thánh Gioan Thánh Giá nói rằng “sự khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa giống
như một khu rừng quá sâu và bao la khiến cho linh hồn dù đã biết nó nhiều đến
đâu cũng vẫn có thể tiến sâu mãi vào trong đó”.[7] Hay như Thánh Irênê viết:
“Với việc đến trần gian này, Đức Kitô mang theo với Ngài tất cả sư mới mẻ”.[8]
Với sự tươi mới này, Ngài luôn luôn có thể đổi mới cuộc đời chúng ta và các
cộng đoàn chúng ta, và cho dù sứ điệp Kitô giáo đã từng biết đến những thời kỳ
đen tối và sự yếu đuối của Hội Thánh, sứ điệp ấy sẽ không bao giờ già đi. Đức
Giêsu cũng có thể chọc thủng những phạm trù nhàm chán mà chúng ta dùng để giam
hãm Ngài và Ngài luôn luôn làm chúng ta ngạc nhiên bằng sự sáng tạo thần linh
của Ngài. Mỗi khi chúng ta cố gắng trở về nguồn và khôi phục lại sự tươi mới
của Tin Mừng, những đại lộ mới sẽ xuất hiện, những con đường sáng tạo mới sẽ mở
ra, với những hình thức biểu hiện khác nhau, những dấu chỉ và từ ngữ phong phú
mang theo ý nghĩa mới cho thế giới hôm nay. Mọi hình thức loan báo Tin Mừng
đích thực đều luôn luôn là “mới”.
12.
Tuy đúng là sứ mạng này đòi chúng ta phải can đảm hơn, nhưng sẽ sai nếu chúng
ta coi nó là một công trình anh hùng của một cá nhân, bởi vì trước hết và trên
hết nó là công trình của Chúa, vượt quá mọi sự mà chúng ta có thể thấy và hiểu.
Đức Giêsu là “người loan báo Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất”.[9] Trong mọi
hoạt động loan báo Tin Mừng, vị trí hàng đầu luôn luôn thuộc về Thiên Chúa,
Đấng kêu gọi chúng ta hợp tác với Người và dẫn đưa chúng ta đi tới bằng sức
mạnh Thần Khí của Người. Cái mới thực sự là cái mới mà chính Thiên Chúa đem đến
một cách huyền nhiệm và soi sáng, kích thích, hướng dẫn và đi theo bằng hàng ngàn
cách. Đời sống Hội Thánh phải luôn luôn biểu lộ rõ ràng rằng Thiên Chúa là
người có sáng kiến, rằng “Người đã yêu chúng ta trước” (1Ga 4:19), và chỉ một
mình Người “làm cho lớn lên” (1Cr 3:7). Niềm xác tín này giúp chúng ta luôn giữ
được tinh thần vui tươi giữa một nhiệm vụ quá đòi hỏi và thách thức khiến chúng
ta phải dấn cả cuộc đời chúng ta vào. Người xin chúng ta mọi thứ, nhưng đồng
thời cũng ban tặng chúng ta mọi thứ.
13.
Chúng ta cũng không được coi sự mới mẻ của sứ mạng này như là bao gồm một thứ
chuyển dời hay quên lãng lịch sử sống động đang bao quanh chúng ta và kéo chúng
ta tiến tới. Ký ức là một chiều kích của đức tin mà chúng ta có thể gọi là “đệ
nhị luật”, tương tự như ký ức của dân Israel về chính mình. Chúa
Giêsu để lại cho chúng ta Thánh Thể như là sự tưởng nhớ hằng ngày của Hội Thánh
về biến cố Vượt Qua của Ngài, và như là sự chia sẻ sâu xa hơn biến cố này (Lc
22:19). Niềm vui loan báo Tin Mừng luôn luôn phát sinh từ sự tưởng nhớ với tâm
tình biết ơn: đó là ân sủng mà chúng ta phải liên lỉ nài xin. Các tông đồ không
bao giờ quên giây phút Đức Giêsu đánh động lòng họ: “Lúc ấy là khoảng 4 giờ
chiều” (Ga 1:39). Cùng với Đức Giêsu, sự tưởng nhớ này làm hiện ra trước mắt
chúng ta “cả một đám mây các chứng nhân” (Dt 12:1), trong số đó các tín hữu chúng
ta hết sức vui sướng nhớ đến một số vị: “Anh em hãy nhớ đến các lãnh đạo của
anh em, những người đã giảng lời Thiên Chúa cho anh em” (Dt 13:7). Một số vị là
những con người bình thường sống giữa chúng ta và thông truyền đời sống đức tin
cho chúng ta: “Tôi nhớ lại lòng tin chân thành của anh, một lòng tin đã có
trước tiên nơi cụ Lôis, bà ngoại anh, và rồi nơi bà Eunikê, mẹ anh” (2Tm 1:5).
Cơ bản người tín hữu là “người biết tưởng nhớ”.
III. TÂN PHÚC ÂM HOÁ ĐỂ THÔNG TRUYỀN ĐỨC TIN
14.
Trong khi chú ý lắng nghe những thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Đấng giúp chúng
ta cùng nhau đọc các dấu chỉ thời đại, Hội Nghị Thường Kỳ Lần Thứ XIII của
Thượng Hội Đồng Giám Mục đã nhóm họp từ 7- 28 tháng 10 năm 2010 để thảo luận đề
tài: Tân Phúc Âm hoá để thông truyền Đức Tin. Thượng Hội Đồng đã tái khẳng định
tân phúc âm hoá là một lời kêu gọi được gửi tới mọi người và được thực hiện
trong ba lãnh vực chính.[10]
Thứ
nhất, chúng ta có thể nhắc đến lãnh vực thừa tác mục vụ thông thường, được
“sinh động hoá bởi lửa của Thần Khí, để đốt cháy tâm hồn những tín hữu thường
xuyên tham dự việc phụng tự cộng đoàn và tụ họp vào Ngày của Chúa để được nuôi
dưỡng bằng Lời và Bánh sự sống trường sinh của Ngài”.[11] Trong loại người này
chúng ta cũng có thể kể những tín hữu vẫn duy trì một đức tin sâu xa và chân
thành, biểu lộ đức tin bằng các cách khác nhau, nhưng ít khi tham dự việc thờ
phượng.
Một
lãnh vực thứ hai là thành phần “những người đã rửa tội nhưng không sống những
đòi hỏi của phép Rửa”,[12] những người thiếu một mối quan hệ có ý nghĩa với Hội
Thánh và không còn cảm nghiệm niềm an ủi phát sinh bởi đức tin. Trong mối quan
tâm từ mẫu của mình, Hội Thánh tìm cách giúp họ trải nghiệm một sự hoán cải để
phục hồi niềm vui của đức tin cho tâm hồn họ và khơi dậy nơi họ một sự dấn thân
cho Tin Mừng.
Sau
cùng, chúng ta không thể quên rằng loan báo Tin Mừng trước hết và trên hết là
giảng Tin Mừng cho những người không biết Đức Giêsu Kitô hay luôn luôn chối bỏ
Ngài. Nhiều người trong số họ vẫn đang âm thầm tìm kiếm Thiên Chúa, được dẫn
dắt bởi ước vọng muốn thấy mặt Người, thậm chí tại những nước vốn có truyền
thống Kitô giáo lâu đời. Tất cả họ có quyền đón nhận Tin Mừng. Người Kitô hữu
có bổn phận rao giảng Tin Mừng cho mọi người, không loại trừ bất kỳ ai. Thay vì
tỏ ra muốn áp đặt những bó buộc mới, người Kitô hữu phải tỏ ra như là những
người muốn chia sẻ niềm vui của mình, chỉ ra một chân trời của cái đẹp, và mời
gọi mọi người khác tới dự một bữa tiệc ngon. Hội Thánh phát triển không phải
bằng việc chiêu dụ, nhưng “bằng sức thu hút”.[13]
15.
Đức Gioan Phaolô II xin chúng ta nhận ra rằng “không được giảm bớt nỗ lực rao
giảng Tin Mừng” cho những người ở xa Đức Kitô, “bởi vì đây là nhiệm vụ hàng đầu
của Hội Thánh”.[14] Thật vậy, “hoạt động truyền giáo hôm nay vẫn là thách thức
lớn nhất cho Hội Thánh”,[15] và “nhiệm vụ truyền giáo phải là nhiệm vụ hàng
đầu”.[16] Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta hiểu nghiêm túc những lời này? Chúng
ta sẽ thấy rằng việc vươn ra truyền giáo là một hệ hình cho mọi hoạt động của
Hội Thánh. Theo hướng này, các Giám Mục Châu Mỹ Latinh đã phát biểu rằng chúng
ta “không thể thụ động và thản nhiên ngồi đợi trong các nhà thờ của chúng
ta”;[17] chúng ta cần phải chuyển đổi “từ một nền mục vụ thuần tuý bảo tồn
sang một mục vụ dứt khoát mang tính truyền giáo”.[18] Nhiệm vụ này tiếp tục là
một nguồn vui vô biên cho Hội Thánh: “Quả thật, tôi bảo anh em, trên trời sẽ
vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn hối cải hơn chín mươi chín người công
chính không cần ăn năn hối cải” (Lc 15:7).
Phạm
vi và giới hạn của Tông Huấn này
16.
Tôi rất vui được thực hiện lời yêu cầu của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng để viết
Tông Huấn này.[19] Làm công việc này, tôi đang gặt những thành quả phong
phú từ các lao nhọc của Thượng Hội Đồng. Ngoài ra, tôi đã xin các lời khuyên từ
một số người và tôi muốn bày tỏ các mối quan tâm riêng của tôi đối với chương
đặc biệt này về công cuộc phúc âm hoá của Hội Thánh. Vô số vấn đề về loan báo
Tin Mừng hôm nay có thể được thảo luận ở đây, nhưng tôi quyết định không đi sâu
vào nhiều vấn đề vốn cần được suy tư và nghiên cứu xa hơn. Tôi cũng không nghĩ
rằng huấn quyền của giáo hoàng phải đưa ra một lời nói cuối cùng hay đầy đủ về
mọi vấn đề ảnh hưởng tới Hội Thánh và thế giới. Giáo hoàng không nên thay thế
các giám mục trong việc làm rõ những vấn đề phát sinh trong địa hạt của họ. Về
phương diện này, tôi ý thức được nhu cầu cổ xuý một sự “tản quyền” thích hợp.
17. Ở
đây tôi quyết định trình bày một số đường hướng giúp khuyến khích và hướng dẫn
Hội Thánh trong một giai đoạn mới của cuộc phúc âm hoá, một giai đoạn đặc biệt
phấn khởi và sinh động. trong bối cảnh này, và dựa trên cơ sở giáo huấn của
Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, tôi đã quyết định thảo luận đầy đủ về các vấn đề
sau đây:
a)
cuộc cải tổ của Hội Thánh trong việc mở rộng truyền giáo;
b) các
cám dỗ cho những người hoạt động mục vụ;
c) Hội
Thánh, hiểu như là toàn thể Dân Chúa loan báo Tin Mừng;
d) bài
giảng và việc chuẩn bị;
e) sự
bao gồm người nghèo trong xã hội;
f) hoà
bình và đối thoại trong xã hội;
g) các
động cơ thiêng liêng cho việc truyền giáo.
18.
Tôi đã xem xét một cách sâu rộng và chi tiết các đề tài này, và có người có thể
cho là quá tỉ mỉ. Nhưng tôi đã làm như thế, không phải với mục đích cung cấp
một khảo luận đầy đủ, mà chỉ là một cách để cho thấy các hệ luỵ thực tiễn quan
trọng của các vấn đề này đối với sứ mạng của Hội Thánh hôm nay. Tất cả sẽ giúp
chúng ta định hình rõ nét một phong cách phúc âm hoá mà tôi xin anh em thể hiện
trong mọi hoạt động của anh em. Bằng cách này, chúng ta có thể thực hành trong
các cố gắng hằng ngày của mình lời khích lệ của Kinh Thánh: “Anh em hãy vui
luôn trong Chúa; tôi nhắc lại: Hãy vui lên” (Pl 4:4).
CHƯƠNG MỘT
SỰ
BIẾN ĐỔI TRUYỀN GIÁO CỦA HỘI THÁNH
19.
Loan báo Tin Mừng là để đáp lại mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu: “Vậy anh
em hãy đi thu nạp môn đồ khắp muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt
28:19-20). Qua những lời này, ta thấy Đức Kitô phục sinh đã sai các môn đệ đi
rao giảng Tin Mừng mọi thời và mọi nơi như thế nào, để lòng tin vào Ngài được
lan rộng đến tận cùng trái đất.
I. MỘT HỘI THÁNH “ĐI RA”
20.
Lời Thiên Chúa không ngừng chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa thách thức những
người tin Chúa phải “đi ra” như thế nào. Abraham nghe tiếng gọi ra đi đến một
miền đất mới (x. St 12:1-3). Môsê nghe tiếng Chúa gọi: “Đi đi, Ta sai ngươi”
(Xh 3:10) và ông đã đưa dân tới đất hứa (x. Xh 3:17). Với Giêrêmia, Thiên Chúa
nói: “Ngươi hãy đi đến với tất cả những người mà Ta sai ngươi đến” (Gr 1:7).
Vào thời chúng ta, lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hăy đi thu thập môn đệ”
đang vang dội trong những khung cảnh đổi thay và đầy thách thức mới cho sứ mạng
loan báo Tin Mừng của Hội Thánh, và tất cả chúng ta được kêu gọi tham gia vào
cuộc “đi ra” truyền giáo mới này. Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn phải nhận ra
con đường mà Chúa chỉ cho, nhưng tất cả chúng ta phải vâng theo tiếng gọi của
Ngài là ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng “ngoại vi”
đang cần ánh sáng Tin Mừng.
21.
Niềm vui Tin Mừng làm sinh động cộng đoàn các môn đệ là một niềm vui truyền
giáo. Bảy mươi hai môn đệ đã cảm nhận niềm vui này khi họ từ nơi truyền giáo
trở về (xem Lc 10:17). Đức Giêsu đã cảm nhận niềm vui này khi ngài vui mừng
hoan lạc trong Thánh Thần và ca tụng Cha vì đã mặc khải mình cho những người
nghèo và những người bé mọn (Lc 10:21). Niềm vui này cũng đã được cảm nhận bởi
những người trở lại đầu tiên khi họ kinh ngạc nghe các tông đồ giảng “bằng
tiếng mẹ đẻ của họ” (Cv 2:6) vào ngày lễ Ngũ Tuần. Niềm vui này là một dấu chỉ
rằng Tin Mừng đã được công bố và đang sinh hoa kết quả. Nhưng động lực để đi ra
và trao ban, ra khỏi chính mình, không ngừng dấn bước đi gieo hạt giống tốt,
vẫn luôn luôn hiện diện hôm nay. Chúa nói: “Ta hãy đi sang các làng lân cận để
Thầy cũng giảng ở đó, vì đó chính là lý do mà Thầy đến” (Mc 1:38). Mỗi khi hạt
giống đã được gieo tại một nơi nào, Ngài không ở lại đó để cắt nghĩa hay làm
thêm các dấu lạ; Thần Khí thúc đẩy Ngài ra đi tới các thành khác.
22.
Lời Chúa mang sức mạnh không thể đoán trước được. Tin Mừng nói về hạt giống,
sau khi gieo xuống đất, tự nó mọc lên, cả khi người gieo hạt đang ngủ (Mc
4:26-29). Hội Thánh phải chấp nhận sự tự do tuyệt đối này của lời, nó hoàn
thành điều nó muốn vượt quá những cách tính toán hay suy nghĩ của chúng ta.
23. Sự
gần gũi của Hội Thánh với Chúa Giêsu là một phần của một hành trình chung;
“hiệp thông và truyền giáo liên kết mật thiết với nhau”.[20] Trung thành noi
gương Thầy mình, Hội Thánh hôm nay thấy tuyệt đối phải ra đi rao giảng Tin Mừng
cho mọi người, mọi nơi, mọi dịp, không do dự, không miễn cưỡng hay sợ hãi. Niềm
vui của Tin Mừng được dành cho mọi người: không thể loại trừ ai. Đó là điều
thiên sứ đã công bố cho các mục đồng tại Bêlem: “Anh em đừng sợ; vì này, tôi
đem đến cho anh em một tin vui trọng đại cho toàn dân” (Lc 2:10). Sách Khải Huyền
nói về một Tin Mừng muôn thuở được công bố cho những người cư ngụ trên trái
đất, cho mọi quốc gia, mọi ngôn ngữ, mọi bộ tộc và mọi dân tộc (Kh 14:6).
Đi
bước trước, dấn thân và đồng hành, sinh hoa trái và vui mừng
24.
Hội Thánh “đi ra” là một cộng đoàn các môn đệ truyền giáo đi bước trước, dấn
thân và nâng đỡ, sinh hoa trái và vui mừng. Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng
biết rằng Chúa đã có sáng kiến, Ngài đã yêu chúng ta trước (xem Ga 4:19), và vì
thế chúng ta có thể dấn bước, mạnh dạn có sáng kiến, đến với người khác, tìm
kiếm những người sa ngã, đứng ở các ngả đường để đón mời những người bị gạt ra
bên lề. Một cộng đoàn như thế có một ước muốn khôn nguôi là tỏ lòng thương xót,
kết quả của kinh nghiệm bản thân của cộng đoàn về sức mạnh lòng thương vô biên
của Thiên Chúa. Chúng ta hãy thử cố gắng hơn một chút để đi bước trước và dấn
thân. Đức Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ. Chúa dấn thân và mời gọi các môn đệ
dấn thân, khi Ngài cúi xuống rửa chân họ. Ngài bảo các môn đệ: “Nếu anh em thực
hành, thì phúc cho anh em!” (Ga 13:17). Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng dấn
mình vào đời sống hằng ngày của dân chúng bằng lời nói và hành động; công đoàn
ấy vượt qua các khoảng cách, sẵn sàng hạ mình khi cần, và ôm ấp đời sống con
người, chạm vào thân thể đau khổ của Đức Kitô nơi người khác. Như vậy, các
người loan báo Tin Mừng mang lấy “mùi của đàn chiên” và đàn chiên sẵn sàng nghe
tiếng của họ. Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng cũng nâng đỡ, đồng hành với dân
chúng ở mỗi bước đi trên đường, bất kể con đường này có thể dài hay khó đi bao
nhiêu. Cộng đoàn này cũng quen với việc kiên nhẫn chờ đợi và sự chịu đựng tông
đồ. Loan báo Tin Mừng phần lớn hệ tại sự kiên nhẫn và không quan tâm tới áp lực
của thời gian. Trung thành với ơn Chúa, nó cũng sinh hoa kết quả. Một cộng đoàn
loan báo Tin Mừng luôn luôn để tâm tới kết quả, vì Chúa muốn nó sinh hoa kết
quả. Nó chăm sóc hạt giống và không mất kiên nhẫn với cỏ dại. Người gieo giống
khi thấy cỏ dại mọc lên giữa hạt giống thì không càu nhàu hay phản ứng thái
quá. Họ tìm cách để cho Lời được nhập thể trong một hoàn cảnh nhất định và phát
sinh những hoa quả của đời sống mới, dù những kết quả này có vẻ chưa hoàn hảo
hay đầy đủ. Người môn đệ sẵn sàng mạo hiểm đời mình, thậm chí chấp nhận tử đạo,
để làm chứng cho Đức Giêsu, nhưng mục tiêu không phải là muốn có kẻ thù, mà là
để thấy Lời của Thiên Chúa được chấp nhận và sức mạnh giải thoát và đổi mới của
Lời được tỏ lộ. Sau cùng, một cộng đoàn loan báo Tin Mừng thì chan chứa niềm
vui; nó biết cách để luôn luôn vui mừng. Nó ăn mừng trước mỗi chiến thắng nho
nhỏ, mỗi bước tiến trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Hân hoan loan báo Tin
Mừng trở thành cái đẹp của phụng vụ, như một phần mối quan tâm hằng ngày của
chúng ta trong việc làm lan toả lòng nhân hậu. Hội Thánh vừa giảng Tin Mừng vừa
được nghe giảng Tin Mừng qua vẻ đẹp của phụng vụ, vì phụng vụ vừa là cử hành
công việc rao giảng Tin Mừng, vừa là nguồn mạch canh tân hành vi trao hiến của
Hội Thánh.
II. HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ VÀ SỰ HOÁN CẢI
25.
Tôi biết ngày nay các văn kiện không còn khơi dậy sự quan tâm giống như trong
quá khứ và chúng mau bị rơi vào quên lãng. Tuy nhiên tôi muốn nhấn mạnh rằng
những gì tôi đang cố gắng trình bày ở đây mang ý nghĩa của một kế hoạch và có
những hậu quả quan trọng. Tôi hi vọng tất cả các cộng đoàn sẽ dành những cố gắng
cần thiết để tiến tới theo con đường của một sự hoán cải mục vụ và truyền giáo
không để tình hình tiếp tục như hiện tại. Việc “quản trị thuần tuý” đã trở nên
bất cập.[21] Trên khắp thế giới, chúng ta phải “thường xuyên trong trạng thái
truyền giáo”.[22]
26.
Đức Phaolô VI mời gọi chúng ta đào sâu ơn gọi canh tân và làm sáng tỏ rằng canh
tân không chỉ liên quan đến các cá nhân nhưng tới toàn thể Hội Thánh. Chúng ta
hãy trở về với một bản văn đáng nhớ mà nay vẫn còn thách thức chúng ta. “Hội
Thánh phải nhìn sâu vào chính mình, suy gẫm mầu nhiệm hiện hữu của mình... Nhận
thức sâu sắc và sinh động này về chính mình tất yếu dẫn tới một sự đối chiếu
giữa hình ảnh lý tưởng về Hội Thánh như Đức Kitô mong muốn và yêu thương như là
hôn thê thánh thiện và vô tì tích của Ngài (xem Ep 5:27), với hình ảnh thực tế
mà Hội Thánh trình bày cho thế giới hôm nay... Đây là nguồn của cuộc chiến đấu
anh dũng và không chần chừ của Hội Thánh: chiến đấu để sửa sai những khuyết
điểm phạm phải bởi các thành viên của mình; những khuyết điểm ấy được nhận ra
và bị lên án khi Hội Thánh tự xét mình bằng cách soi vào mẫu gương của mình là
Đức Kitô”.[23] Công Đồng Vaticanô II trình bày sự hoán cải của Hội Thánh như là
một sự canh tân liên tục phát sinh từ lòng trung thành với Đức Giêsu Kitô: “Mọi
việc canh tân Hội Thánh cốt yếu nhằm sống trung thành với ơn gọi của Hội Thánh
hơn... Trên đường lữ hành, Hội Thánh được Chúa Kitô mời gọi canh tân luôn mãi,
một sự canh tân mà Hội Thánh, vì là một định chế nhân trần, bao giờ cũng cần
đến”.[24]
Có
những cơ cấu Hội Thánh có thể cản trở hoạt động loan báo Tin Mừng, nhưng ngay
cả những cơ cấu tốt cũng chỉ hữu ích khi có một sức sống luôn thúc đẩy, nâng đỡ
và đánh giá chúng. Không có sức sống mới và một tinh thần Tin Mừng đích thực,
không có sự “trung thành với ơn gọi” của Hội Thánh, thì mọi cơ cấu đều trở nên
vô hiệu.
Một
cuộc canh tân không thể trì hoãn của Hội Thánh
27.
Tôi ước mơ một “chọn lựa truyền giáo”, nghĩa là một nỗ lực truyền giáo có khả
năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, các cách hành động, các giờ giấc và
chương trình, ngôn ngữ và các cơ cấu của Hội Thánh có thể được khai thông thích
hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là cho sự bảo tồn của
Hội Thánh. Việc đổi mới các cơ cấu theo đòi hỏi của sự hoán cải mục vụ chỉ có
thể được hiểu trong ánh sáng này: như một phần của cố gắng làm cho chúng có
định hướng truyền giáo hơn, làm cho hoạt động mục vụ thông thường ở mọi cấp
mang tính bao gồm và mở rộng hơn, khơi dậy nơi những người làm mục vụ một ước
muốn không ngừng đi ra và nhờ đó kích thích một đáp ứng tích cực từ tất cả
những người được Đức Kitô mời gọi đi vào tình bạn với Ngài. Như Đức Gioan
Phaolô II có lần nói với các Giám Mục vùng Châu Đại Dương: “Mọi sự canh tân của
Hội Thánh phải lấy truyền giáo làm mục tiêu để tránh rơi vào nguy cơ của một
Hội Thánh qui vào chính mình”.[25]
28.
Giáo xứ không phải là một cơ chế lỗi thời; lý do chính là nó có tính linh động
cao, nó có thể tiếp thu những tình huống khá khác biệt tuỳ theo sự cởi mở và óc
sáng tạo truyền giáo của người mục tử và của cộng đoàn. Chắc chắn giáo xứ không
phải là cơ chế duy nhất loan báo Tin Mừng, nhưng nếu nó tỏ ra có khả năng tự
canh tân và thích nghi không ngừng, nó vẫn tiếp tục là “Hội Thánh sống giữa các
gia đình của các con trai con gái mình”.[26] Điều này có nghĩa là giáo xứ thực
sự tiếp xúc với các gia đình và các cuộc đời của những con người, và không trở
thành một cơ chế cách ly với con người hay một nhóm khép kín gồm một ít người
được tuyển chọn. Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh tại một địa phương nhất
định, một môi trường để nghe Lời Chúa, để tăng trưởng trong đời sống Kitô hữu,
để đối thoại, rao giảng, làm việc bác ái, thờ phượng và mừng lễ.[27] Trong mọi
hoạt động của mình, giáo xứ cổ vũ và huấn luyện các thành viên của mình để trở
thành những người loan báo Tin Mừng.[28] Giáo xứ là một cộng đoàn của các cộng
đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường, và một trung
tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng lời kêu
gọi duyệt lại và canh tân các giáo xứ của chúng ta vẫn chưa đủ sức đưa các giáo
xứ đến gần người dân hơn, biến các giáo xứ trở thảnh những môi trường sống hiệp
thông và tham dự, và làm cho giáo xứ trở nên hoàn toàn hướng về truyền giáo.
29.
Các cơ chế khác của Hội Thánh, các cộng đoàn cơ bản và các cộng đoàn nhỏ, các
phong trào và các dạng hiệp hội là một nguồn làm phong phú Hội Thánh, được khơi
dậy bởi Thần Khí để phúc âm hoá các vùng và các lãnh vực khác nhau. Các tổ chức
này thường mang một nhiệt huyết phúc âm hoá mới và một khả năng mới để đối
thoại với thế giới nhờ đó Hội Thánh được canh tân. Nhưng sẽ rất hữu ích cho các
cơ chế này nếu chúng không mất tiếp xúc với thực tế phong phú của giáo xứ tại
địa phương và sẵn sàng tham gia vào hoạt động mục vụ toàn thể của Hội Thánh địa
phương.[29] Hình thức hoà nhập này sẽ giúp các cơ chế này tránh được tình trạng
chỉ tập trung vào một phần của Tin Mừng hay của Hội Thánh, hay trở thành những
nhóm du mục không có cội nguồn.
30.
Mỗi Giáo Hội địa phương, trong tư cách là một phần của Hội Thánh Công Giáo được
cai quản bởi một giám mụ, cũng được kêu gọi có sự hoán cải truyền giáo. Giáo
Hội địa phương là chủ thể hàng đầu của việc phúc âm hoá,[30] vì nó là sự biểu
hiện cụ thể của một Hội Thánh duy nhất tại một nơi xác định, và ở đó “Hội Thánh
duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền thực sự hiện diện và hoạt
động”.[31] Đó chính là Hội Thánh nhập thể tại một địa phương, được trang bị mọi
phương tiện cứu rỗi do Đức Kitô thông ban, nhưng với những nét đặc trưng địa
phương. Niềm vui của giáo hội địa phương trong việc thông truyền Đức Kitô được
biểu lộ vừa bởi mối quan tâm rao giảng về Người cho những vùng cần hơn, vừa bởi
việc không ngừng đi ra những khu vực ngoại vi của lãnh thổ mình hay đến với
những khung cảnh văn hoá xã hội mới.[32] Bất cứ ở đâu cần ánh sáng và sự sống
của Đức Kitô Phục Sinh nhiều nhất, giáo hội địa phương đều muốn có mặt ở
đó.[33] Để làm cho động lực truyền giáo này ngày càng tập trung, quảng đại và
hiệu quả hơn, tôi khuyến khích mỗi giáo hội địa phương thực hiện một tiến trình
phân định, thanh tẩy và cải tổ.
31.
Giám mục phải luôn luôn nuôi dưỡng sự hiệp thông truyền giáo này trong Giáo Hội
địa phương của mình, theo lý tưởng của các cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi, ở đó
các tín hữu đều một lòng một trí với nhau (xem Cv 4:32). Để làm điều này, có
khi ngài sẽ đứng trước dân, chỉ đường cho họ và giữ cho niềm hi vọng của họ
luôn sống động. Khi khác, ngài chỉ cần ở giữa họ bằng một sự hiện diện khiêm
tốn và nhân từ. Khi khác nữa, ngài sẽ phải đi theo họ, giúp đỡ những ai bị bỏ
lại đàng sau, và—trên hết—để cho đoàn chiên tự mình mở ra những lối đi mới.
Trong sứ mạng nuôi dưỡng một sự hiệp thông năng động, cởi mở và truyền giáo này
của ngài, ngài sẽ phải khuyến khích và phát triển các phương thế tham gia được
đề nghị trong Bộ Giáo Luật,[34] và các hình thức đối thoại mục vụ khác, với ước
muốn lắng nghe hết mọi người chứ không chỉ những ai nói ra những gì ngài thích
nghe. Nhưng mục tiêu chính của các tiến trình tham gia này không sự tổ chức
giáo hội mà tốt hơn phải là khát vọng truyền giáo muốn đến được với mọi người.
32. Vì
tôi được kêu gọi thực hành điều tôi yêu cầu người khác, nên bản thân tôi cũng
phải nghĩ về một sự hoán cải của sứ vụ giáo hoàng. Là Giám Mục của Roma, tôi có
bổn phận lắng nghe các đề nghị có thể giúp việc thực thi thừa tác vụ giáo hoàng
của tôi trung thành hơn với ý nghĩa mà Đức Giêsu Kitô muốn gán cho sứ vụ này và
cho các nhu cầu hiện nay của việc loan báo Tin Mừng. Đức Gioan Phaolô II từng
xin giúp ngài tìm ra “một cách thực thi quyền tối thượng sao cho nó hoàn toàn
không từ bỏ những gì thiết yếu cho sứ mạng, nhưng vẫn cởi mở trước các tình
hình mới”.[35] Chúng ta đã không có mấy tiến bộ về phương diện này. Giáo hoàng
và các cơ cấu trung ương của Hội Thánh hoàn vũ cũng cần nghe tiếng gọi hoán cải
mục vụ. Công Đồng Vaticanô II tuyên bố rằng, giống như các Giáo Hội trưởng lão
thời xưa, các hội đồng giám mục ngày nay đang ở trong vị thế “cống hiến bằng
nhiều cách thức hiệu quả cho việc hiện thực hoá tinh thần tập đoàn”.[36] Nhưng
ước muốn này chưa được thể hiện đầy đủ, vì chúng ta vẫn chưa triển khai đủ một
tư cách pháp lý của các hội đồng giám mục như là những chủ thể có những thuộc
tính chuyên biệt.[37] Hình thức quản trị quá tập trung gây phức tạp cho đời
sống và hoạt động truyền giáo của Hội Thánh thay vì giúp ích cho nó.
33.
Thực hành mục vụ trong nhãn quan truyền giáo cố gắng từ bỏ thái độ tự mãn:
“Chúng tôi vẫn luôn luôn làm như thế”. Tôi kêu mời mọi người mạnh dạn và sáng
tạo trong việc suy xét lại các mục tiêu, cơ cấu, phong cách và phương pháp
truyền giáo tại các cộng đoàn của mình. Một sự đề xuất các mục tiêu mà không có
sự tìm kiếm chung thoả đáng của cộng đoàn về các phương tiện để đạt các mục
tiêu ấy thì tất yếu chỉ là ảo tưởng. Tôi khuyến khích mọi người áp dụng các
hướng dẫn trong văn kiện này một cách quảng đại và dũng cảm, không bị ức chế
hay sợ hãi. Điều quan trọng là không đi một mình, nhưng cậy dựa lẫn nhau như
anh chị em, và đặc biệt dưới sự lãnh đạo của các giám mục, trong một nhận thức
mục vụ khôn ngoan và thực tế.
III. TỪ TÂM ĐIỂM CỦA TIN MỪNG
34.
Nếu chúng ta cố gắng đặt tất cả vào trong một nhãn quan truyền giáo, việc này
cũng sẽ ảnh hưởng tới cách chúng ta thông truyền sứ điệp. Trong thế giới hôm
nay với tốc độ truyền thông tức thời và ảnh hưởng nhiều khi thiên lệch của các
phương tiện truyền thông, sứ điệp chúng ta rao giảng có nhiều nguy cơ bị xuyên
tạc hay bị giản lược vào những nội dung thứ yếu. Bằng cách này, một số vấn đề
cơ bản của giáo huấn luân lý của Hội Thánh bị lấy ra khỏi bối cảnh tạo ý nghĩa
cho chúng. Vấn đề lớn nhất là khi sứ điệp chúng ta rao giảng bị đồng hoá với
những khía cạnh phụ thuộc, tuy quan trọng, nhưng tự chúng không chuyển đạt được
trọng tâm của sứ điệp. Chúng ta phải thực tế và đừng giả thiết rằng người nghe
chúng ta hiểu đầy đủ được bối cảnh của điều chúng ta đang nói, hay có khả năng
liên kết điều chúng ta giảng với chính tâm điểm của Tin Mừng, cái tạo cho nó ý
nghĩa, vẻ đẹp và sự hấp dẫn.
35.
Thực hành mục vụ theo phong cách truyền giáo không quá bận tâm với việc thông
truyền rời rạc thật nhiều giáo thuyết buộc phải theo. Khi chọn một mục tiêu mục
vụ và một phong cách truyền giáo có khả năng thực sự đến được với mọi người mà
không có biệt lệ hay loại trừ, sứ điệp phải tập trung vào những gì cốt yếu,
những gì đẹp nhất, lớn nhất, lôi cuốn nhất và đồng thời cần thiết nhất. Chúng
ta làm cho sứ điệp trở thành đơn giản, nhưng đồng thời không làm mất sự thâm
sâu và chân lý của nó, nhờ đó nó càng trở nên mạnh mẽ và có sức thuyết phục.
36.
Tất cả các chân lý mặc khải đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải tin tất cả với
cùng một lòng tin, nhưng có một số quan trọng hơn số khác vì trực tiếp diễn tả
tâm điểm của Tin Mừng. Trong cái cốt lõi cơ bản này, cái toả sáng chính là vẻ
đẹp của tình thương cứu độ của Thiên Chúa được mặc khải nơi Đức Kitô đã chết và
sống lại từ cõi chết. Theo nghĩa này, Công Đồng Vaticanô II giải thích, “trong
giáo thuyết công giáo, có một thứ tự hay một ‘phẩm trật’ các chân lý, vì chúng
khác biệt nhau tuỳ theo tương quan của mỗi chân lý với nền tảng của đức tin
Kitô giáo”.[38] Điều này được áp dụng cả cho các tín điều cũng như cho toàn bộ
giáo huấn của Hội Thánh, gồm cả các giáo huấn luân lý.
37.
Thánh Tôma Aquinô dạy rằng giáo huấn luân lý của Hội Thánh có “phẩm trật” riêng
của nó, trong các nhân đức và các hành vi phát xuất từ nhân đức.[39] Điều quan
trọng trên hết là “đức tin hoạt động qua đức ái” (Gl 5:6). Các việc bác ái làm
cho tha nhân là biểu hiện bên ngoài hoàn hảo nhất của ơn Chúa Thánh Thần bên
trong: “Nền tảng của Luật Mới hệ tại ân sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng được tỏ
lộ trong đức tin hoạt động qua đức ái”.[40] Thánh Tôma cắt nghĩa rằng, trong
phạm vi các việc làm bên ngoài, lòng thương xót là nhân đức lớn nhất trong mọi
nhân đức: “Lòng thương xót tự bản chất là lớn nhất trong mọi nhân đức, vì tất
cả các nhân đức khác đều xoay quanh nó, hơn nữa, nó còn bù đắp những khiếm
khuyết của các nhân đức khác. Đây là cái đặc thù của nhân đức siêu vời, vì vậy
bản tính của Thiên Chúa là có lòng thương xót, nhờ đó quyền năng vô biên của
Người được biểu hiện tới mức cao nhất”.[41]
38.
Điều quan trọng là rút ra những hệ quả mục vụ của giáo huấn Công Đồng, vốn là
một xác tín xa xưa của Hội Thánh. Trước hết, cần nói rằng khi giảng Tin Mừng,
phải giữ một mức cân đối thích hợp. Sự cân đối này có thể thấy được qua tần
suất các chủ đề được nêu lên và sự nhấn mạnh chúng ta dành cho chúng khi giảng.
Ví dụ, nếu trong năm phụng vụ, một cha xứ giảng về đức tiết độ mười lần nhưng
chỉ nói về bác ái hay công bình hai hay ba lần, như thế là mất cân đối, nhất là
vì nó cho thấy có sự sao lãng các nhân đức lẽ ra phải được nhắc đến nhiều nhất
trong bài giảng và giáo lý. Cũng có sự mất cân đối như thế khi ta nói về lề
luật nhiều hơn là về ân sủng, về Hội Thánh nhiều hơn là về Đức Kitô, về Giáo
Hoàng nhiều hơn là về Lời Chúa.
39.
Cũng như sự thống nhất hữu cơ giữa các nhân đức có nghĩa là không một nhân đức
nào có thể bị loại trừ khỏi lý tưởng Kitô giáo, thì cũng không được phép chối
bỏ một chân lý nào. Không thể làm biến dạng tính toàn vẹn của sứ điệp Tin Mừng.
Hơn nữa, mỗi chân lý có thể được hiểu rõ hơn khi ta liên kết nó với cái toàn
thể hài hoà của sứ điệp Kitô giáo; theo nghĩa này, mọi chân lý đều quan trọng
và làm sáng tỏ lẫn nhau. Khi lời giảng trung thành theo Tin Mừng, tâm điểm của
một số chân lý trở nên hiển nhiên và ta sẽ thấy rằng luân lý Kitô giáo không
phải là một dạng của chủ nghĩa khắc kỷ, hay thái độ từ bỏ mình, cũng không phải
một thứ triết học thực hành, hay một danh mục các tội lỗi. Trên hết, Tin Mừng
mời gọi chúng ta đáp lại vị Thiên Chúa của tình thương, Đấng cứu độ chúng ta,
nhìn thấy Chúa nơi tha nhân và ra khỏi bản thân mình để tìm lợi ích cho tha
nhân. Trong mọi hoàn cảnh, ta không được phép làm lu mờ lời mời gọi này! Tất cả
các nhân đức là để giúp cho sự đáp lại tình thương này. Nếu lời mời gọi này
không chiếu toả một cách sinh động và hấp dẫn, toà nhà giáo huấn luân lý của
Hội Thánh có nguy cơ trở thành một căn nhà bằng giấy, và đây là mối nguy lớn
nhất của chúng ta. Trong trường hợp này, điều chúng ta giảng không phải là Tin
Mừng, mà là một số điểm về giáo điều hay luân lý dựa trên một số chọn lựa ý
thức hệ đặc thù. Sứ điệp sẽ có nguy cơ mất đi sự tươi mát và sẽ không còn là
“hương thơm của Tin Mừng”.
IV. TRUYỀN GIÁO HOÀ NHẬP TRONG NHỮNG GIỚI HẠN CỦA CON
NGƯỜI
40.
Bản thân Hội Thánh là một người môn đệ truyền giáo, cần phải học phát triển
việc giải thích lời mặc khải và sự hiểu biết của mình về chân lý. Các nhà chú
giải và các nhà thần học có nhiệm vụ giúp “hoàn thiện phán đoán của Hội
Thánh”.[42] Các khoa học khác cũng giúp thực thi nhiệm vụ này, mỗi khoa học
theo cách riêng của mình. Chẳng hạn khi đề cập đến các khoa học xã hội, Đức
Gioan Phaolô II nói Hội Thánh trân trọng các nghiên cứu của các khoa học này,
vì chúng giúp Hội Thánh “rút ra những chỉ dẫn cụ thể có ích cho sứ mạng giảng
dạy của Hội Thánh”.[43] Bên trong Hội Thánh, vô số vấn đề đang được nghiên cứu
và suy tư với rất nhiều sự tự do. Các triền tư tưởng khác nhau trong triết học,
thần học và thực hành mục vụ, nếu chấp nhận để Chúa Thánh Thần làm cho hoà hợp
trong sự tôn trọng và bác ái, có thể giúp Hội Thánh tăng trưởng, vì tất cả
chúng đều giúp diễn tả rõ hơn sự phong phú vô biên của lời Thiên Chúa. Đối với
những ai ước ao có một tổng thể học thuyết đồng nhất buộc mọi người phải theo
và không có chỗ cho những khác biệt, ước muốn này xem ra không nên và có thể
dẫn tới tình trạng hỗn độn. Nhưng trên thực tế, sự khác biệt có thể giúp làm
sáng tỏ và phát triển các góc cạnh khác nhau trong sự phong phú vô tận của Tin
Mừng.[44]
41.
Đồng thời, những thay đổi văn hoá sâu rộng và nhanh chóng hôm nay đòi chúng ta
không ngừng tìm kiếm những cách thức diễn tả các chân lý bất biến bằng một ngôn
ngữ làm nổi bật sự mới mẻ vững bền của chúng. “Kho ký thác đức tin là một
chuyện... cách diễn tả nó lại là chuyện khác”.[45] Có khi người Kitô hữu nghe
một ngôn ngữ hoàn toàn chính thống, nhưng lại hiểu về một cái gì xa lạ với Tin
Mừng đích thực của Đức Giêsu, bởi vì ngôn ngữ kia khác với cách họ dùng để nói
với nhau và hiểu nhau. Với ý hướng thánh thiện muốn thông truyền chân lý về
Thiên Chúa và loài người, chúng ta đôi khi [vô tình] cống hiến cho họ một vị
thần giả tạo hay một lý tưởng nhân loại không thực sự là Kitô giáo. Cứ thế,
chúng ta cố bám vào một công thức trong khi không chuyển đạt được nội dung cơ
bản của nó. Đây là mối nguy lớn nhất. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng “chân lý
có thể được diễn tả bằng những hình thức khác nhau. Việc đổi mới các cách diễn
tả này trở thành cần thiết để thông truyền cho con người ngày nay sứ điệp Tin
Mừng trong ý nghĩa không thay đổi của nó”.[46]
42.
Tất cả những điều này có tầm quan trọng lớn đối với việc rao giảng Tin Mừng,
nếu chúng ta thực sự quan tâm làm cho vẻ đẹp của Tin Mừng được mọi người nhận
ra rõ hơn và đón nhận. Đương nhiên chúng ta sẽ không bao giờ có thể làm cho
giáo huấn của Hội Thánh được mọi người hiểu một cách dễ dàng và sẵn sàng chấp
nhận. Đức tin mãi mãi vẫn là một thứ thập giá; nó luôn luôn hàm chứa một mảng
mờ tối bất chấp sự ưng thuận vững vàng. Một số điều chỉ có thể được hiểu và
chấp nhận từ cơ sở của sự ưng thuận này, người chị em với đức ái, vượt lên trên
các lý do hay lập luận rõ ràng. Chúng ta cần nhớ rằng mọi lời giảng dạy tôn giáo
rốt cuộc đều phải được phản chiếu nơi cách sống của người giảng dạy, chính cách
sống này đánh thức sự ưng thuận của quả tim bằng sự gần gũi, yêu thương và
chứng tá của nó.
43.
Trong công cuộc phân định đang diễn ra hôm nay, Hội Thánh cũng có thể nhận ra
rằng một số thói quen không trực tiếp liên quan tới cốt lõi của Tin Mừng, kể cả
một số có gốc rễ sâu trong lịch sử, nay không còn được hiểu và được chấp nhận
đúng như trước. Một số thói quen này có thể đẹp, nhưng không còn là phương tiện
hiệu quả để thông truyền Tin Mừng. Chúng ta đừng sợ xét lại chúng. Đồng thời,
Hội Thánh có các qui tắc hay giới luật có thể đã từng khá hiệu quả vào thời của
chúng, nhưng không còn hữu ích để hướng dẫn và định hình cho đời sống của con
người hôm nay. Thánh Tôma Aquinô chỉ ra rằng các giới luật mà Đức Kitô và các
tông đồ truyền cho dân thì “rất ít”.[47] Dẫn lời Thánh Augustinô, ngài nhận xét
rằng các giới luật mà Hội Thánh thời sau truyền dạy nên được nhấn mạnh một cách
vừa phải thôi “để không đè nặng lên đời sống các tín hữu” và biến đạo chúng ta
thành một dạng nô lệ, trong khi “lòng thương xót của Thiên Chúa muốn chúng ta
phải được tự do”.[48] Lời khuyến cáo này đã được đưa ra từ nhiều thế kỷ, nay
vẫn còn hết sức hợp thời. Nó phải là một trong các tiêu chuẩn chúng ta phải lưu
ý khi suy nghĩ về một cuộc cải tổ Hội Thánh và việc giảng dạy của Hội Thánh,
giúp cho việc giảng dạy này đến được với mọi người.
44.
Hơn nữa, các mục tử và giáo dân đang đồng hành với các anh chị em mình trong
đức tin hay trong hành trình mở lòng đón nhận Thiên Chúa phải nhớ rằng sách
Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo dạy rất rõ: “Việc quy lỗi và trách nhiệm về một
hành động có thể được giảm bớt hay xóa bỏ do thiếu hiểu biết, sơ suất, do áp
lực, sợ hãi, do thói quen, do tâm lý bất ổn, do các nhân tố tâm lý hay xã
hội”.[49] Do đó, trong khi vẫn không xa rời lý tưởng Tin Mừng, họ cần phải có
lòng thương xót và kiên nhẫn để dõi theo và nâng đỡ các giai đoạn tăng trưởng
khi chúng tuần tự diễn ra.[50] Tôi muốn nhắc nhớ các linh mục rằng toà
giải tội không phải là một buồng tra tấn nhưng là một nơi gặp gỡ lòng từ bi của
Chúa, thúc đẩy chúng ta làm hết sức mình. Một bước đi nhỏ giữa những hạn chế to
lớn của con người, có thể làm vui lòng Thiên Chúa hơn là một cuộc sống bề ngoài
xem ra đúng mực nhưng ngày ngày không phải đối diện với những khó khăn to lớn
nào. Mọi người cần được đánh động bởi sự an ủi và hấp dẫn của tình thương cứu
độ của Thiên Chúa, đang hoạt động một cách nhiệm mầu trong mỗi người, vượt lên
trên các sa ngã và lỗi lầm của họ.
45. Vì
vậy ta thấy công việc loan báo Tin Mừng hoạt động trong các giới hạn của ngôn
ngữ và hoàn cảnh. Nó không ngừng tìm cách thông truyền sự thật của Tin Mừng một
cách hiệu quả hơn trong một bối cảnh nhất định, không từ bỏ sự thật, sự thiện
và ánh sáng mà nó có thể đem đến bất cứ nơi nào không thể có sự hoàn thiện. Một
con tim truyền giáo ý thức về những giới hạn này và làm cho mình trở nên “yếu
với người yếu... mọi sự cho mọi người” (1Cr 9:22). Nó không bao giờ đóng kín
mình, không bao giờ lui về nơi an toàn của mình, không bao giờ chọn thái độ cố
chấp hay tự vệ. Nó hiểu rằng nó phải gia tăng sự hiểu biết của mình về Tin Mừng
và nhận ra các đường lối của Thần Khí, vì vậy nó luôn luôn làm bất cứ điều tốt
lành nào có thể, dù trên đường đi, chân nó có thể bị lấm bùn.
V. NGƯỜI MẸ VỚI TRÁI TIM RỘNG MỞ
46.
Một Hội Thánh “đi ra” là một Hội Thánh mở cửa. Đến với người khác để tới được
các biên giới của loài người không có nghĩa là vội vã lao vào thế giới mà không
có mục tiêu. Thường thì tốt hơn là nên đi từ từ, hãm bớt sự phấn khích của mình
để nhìn và nghe người khác, không nhảy vội từ chuyện này sang chuyện khác, và
nên ở lại bên người đã ngã dọc đường. Thỉnh thoảng chúng ta phải giống như
người cha của đứa con hoang đàng, luôn luôn để cửa mở hầu khi đứa con trở về,
nó có thể vào ngay trong nhà.
47.
Hội Thánh được kêu gọi trở thành Nhà Cha, luôn luôn mở rộng cửa. Một dấu hiệu
của sự mở ra này là các nhà thờ của chúng ta phải luôn luôn mở cửa, để nếu có
ai được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đến đây tìm Thiên Chúa, họ sẽ không thấy cửa
nhà thờ đang đóng. Cũng có những cửa khác không được đóng. Mọi người có thể
tham dự một cách nào đó vào đời sống của Hội Thánh; mọi người có thể là thành
phần của cộng đoàn, và các cửa của bí tích cũng không được đóng vì bất cứ lý do
gì. Điều này đặc biệt đúng đối với bí tích được gọi là “cửa”: bí tích Rửa Tội.
Bí tích Thánh Thể, tuy là sự sung mãn của đời sống bí tích, nhưng không phải là
một phần thưởng cho người hoàn thiện, mà là một phương thuốc và lương thực cho
người yếu đuối.[51] Các xác tín này có những hệ quả mục vụ mà chúng ta cần phải
xem xét một cách thận trọng và mạnh dạn. Chúng ta nhiều khi hành động như là
người ban phát ân sủng thay vì là người tạo điều kiện cho ân sủng. Nhưng Hội
Thánh không phải là một trạm thu phí; Hội Thánh là Nhà Cha, có chỗ cho mọi
người, với tất cả các vấn đề của họ.
48.
Nếu toàn thể Hội Thánh chấp nhận động lực truyền giáo mới này, Hội Thánh phải
đến với mọi người, không loại trừ một ai. Nhưng phải đến với ai trước? Khi đọc
Tin Mừng, chúng ta thấy một dấu hiệu rõ ràng: không phải những bạn bè và láng
giềng giàu có của chúng ta, nhưng trên hết là những người nghèo khổ bệnh tật,
những người thường bị khinh dể và ruồng rẫy, những người “không có gì để trả
lại ngươi” (Lc 14:14). Không có chỗ cho sự hoài nghi hay những lời giải thích
vốn chỉ làm yếu đi một sứ điệp rõ ràng như thế. Hôm nay và mãi mãi, “người
nghèo là những người ưu tiên được đón nhận Tin Mừng”,[52] và việc Tin Mừng được
tự do rao giảng cho họ là dấu chỉ về vương quốc mà Chúa Giêsu đến để thiết lập.
Chúng ta phải nói thẳng ra rằng “có một dây liên kết không thể phân ly giữa đức
tin của chúng ta và người nghèo”. Chúng ta đừng bao giờ bỏ họ.
49. Vì
vậy chúng ta hãy đi ra, đi ra để cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Giêsu
Kitô. Ở đây tôi lặp lại cho toàn thể Hội Thánh điều tôi từng nói cho các linh
mục và giáo dân ở Buenos Aires: Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang
thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì
bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình. Tôi không muốn một Hội Thánh
chỉ lo đặt mình vào trung tâm để rốt cuộc bị mắc kẹt trong một mạng lưới các
nỗi ám ảnh và các thủ tục. Nếu có cái gì đáng phải khiến chúng ta trăn trở và
áy náy lương tâm, thì đó chính là sự kiện nhiều anh chị em chúng ta đang sống
mà không có sức mạnh, ánh sáng và niềm an ủi phát sinh từ tình bạn với Đức
Giêsu Kitô, không có một cộng đoàn đức tin nâng đỡ họ, không tìm thấy ý nghĩa
và mục tiêu trong đời. Tôi mong rằng, thay vì sợ đi lạc, chúng ta nên sợ bị
giam hãm trong những cấu trúc làm cho chúng ta có một cảm giác an toàn giả tạo,
những qui tắc biến chúng ta thành những quan toà tàn nhẫn, với những thói quen
làm chúng ta cảm thấy an thân, trong khi ở ngoài cửa người ta đang chết đói và
Đức Giêsu không ngừng nói với chúng ta: “Anh em hãy cho họ ăn đi!” (Mc 6:37).
CHƯƠNG HAI
GIỮA
CƠN KHỦNG HOẢNG VỀ DẤN THÂN CỘNG ĐỒNG
50.
Trước khi bàn về một số vấn đề liên quan tới công cuộc loan báo Tin Mừng, tôi
nghĩ nên vắn tắt nhắc đến bối cảnh trong đó tất cả chúng ta đang phải sống và
làm việc. Ngày nay chúng ta thường xuyên nghe nói đến một hiện tượng “quá tải
chẩn đoán” mà không luôn luôn kèm theo những phương pháp điều trị tương ứng
trong thực tế. Một phân tích thuần tuý xã hội học muốn gói trọn toàn thể thực
tại bằng phương pháp gọi là “trung bình lâm sàng” cũng chẳng giúp gì được cho
chúng ta. Cái mà tôi muốn đề nghị là một phương pháp phù hợp hơn với nhận thức
Tin Mừng. Đó là phương pháp của người môn đệ truyền giáo, một phương pháp “được
nuôi dưỡng bởi ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần”.[53]
51.
Nhiệm vụ của Giáo Hoàng không phải là cung cấp một phân tích chi tiết và đầy đủ
về thực tại ngày nay, nhưng tôi khuyến khích mọi cộng đoàn “luôn tỉnh táo dò
xét các dấu chỉ của thời đại”.[54] Đây thực sự là một trách nhiệm nặng nề, vì
một số thực tại ngày nay, nếu không được xử lý hiệu quả, sẽ có thể mở đường cho
các tiến trình phi nhân hoá mà sau này sẽ khó có khả năng đảo ngược. Chúng ta
cần phân biệt rõ cái gì có thể là kết quả của Nước Thiên Chúa với cái gì đi
ngược lại kế hoạch của Thiên Chúa. Điều này không những bao gồm việc nhận ra và
phân biệt các loại thần trí, nhưng cũng bao gồm việc chọn lấy các tác động của
thần lành và từ chối các tác động của thần dữ. Tôi mặc nhiên nhìn nhận các phân
tích khác nhau mà các văn kiện khác của huấn quyền Hội Thánh đã cống hiến, cũng
như các văn kiện mà các hội đồng giám mục cấp vùng và cấp quốc gia đã đề nghị.
Trong Tông Huấn này, tôi chỉ muốn trình bày một cách vắn tắt và từ quan điểm
mục vụ, một số nhân tố có thể cản trở hay làm suy yếu động lực canh tân truyền
giáo trong Hội Thánh, hoặc là vì chúng đe doạ sự sống và phẩm giá của Dân Thiên
Chúa, hay vì chúng tác động tới những người trực tiếp tham gia vào các tổ chức
của Hội Thánh và vào công cuộc truyền giáo của Hội Thánh.
I. CÁC THÁCH THỨC CỦA THẾ GIỚI HÔM NAY
52. Ở
thời đại chúng ta, nhân loại đang trải qua một bước ngoặt trong lịch sử của
mình, như chúng ta có thể thấy từ các tiến bộ đang được thực hiện trong rất
nhiều lãnh vực. Chúng ta không thể không ca ngợi các bước đi đang được thực
hiện để cải thiện phúc lợi của dân chúng trong các lãnh vực như chăm sóc sức
khoẻ, giáo dục và truyền thông. Nhưng đồng thời chúng ta phải nhớ rằng đa số
dân chúng bây giờ sống ngày nào biết ngày ấy, với những viễn tượng đáng sợ. Một
số dịch bệnh đang lan rộng. Tâm hồn nhiều người bị xâm chiếm bởi nỗi sợ hãi và
thất vọng, ngay cả ở những nước được cho là giàu có. Niềm vui sống thường xuyên
phai nhạt, thiếu tôn trọng người khác, và nạn bạo lực ngày càng nhiều, tình
trạng bất bình đẳng cũng gia tăng. Người ta đấu tranh để sống, và thường là
sống với phẩm giá tối thiểu. Thay đổi của thời đại đã được khởi động bởi những
tiến bộ khổng lồ, mau chóng và tích luỹ về phẩm và lượng trong các khoa học và
kỹ thuật và được đem áp dụng ngay vào các lãnh vực khác nhau của tự nhiên và
đời sống. Chúng ta đang ở một thời đại tri thức và thông tin, dẫn tới các hình
thức quyền lực mới và thường là không được gọi tên.
Nói
không với một nền kinh tế loại trừ
53.
Cũng như giới răn “Chớ giết người” đặt ra một giới hạn rõ ràng để bảo vệ giá
trị của sự sống con người, ngày nay chúng ta cũng phải nói “Không” với một nền
kinh tế loại trừ và bất bình đẳng. Một nền kinh tế như thế cũng giết chết. Sao
có thể khi một người vô gia cư chết vì không được che chở thì không được kể là
một tin tức, trong khi thị trường chứng khoán mất hai điểm thì lại là tin tức?
Đây là một trường hợp loại trừ. Chúng ta có thể điềm nhiên đứng nhìn khi lương
thực bị đổ đi trong khi có những người đang đói? Đây là một trường hợp bất bình
đẳng. Ngày nay mọi thứ đều theo luật cạnh tranh và luật sinh tồn của kẻ thích
hợp nhất, ở đó những kẻ có quyền lực chèn ép những người yếu thế? Hậu quả là vô
số người bị loại trừ và bị gạt ra bên lề: không việc làm, không phương tiện,
không có bất kỳ lối thoát nào.
Chính
con người bị coi là món hàng tiêu thụ sử dụng rồi vứt bỏ. Chúng ta đã tạo ra
một văn hoá “dùng một lần” hiện đang lan rộng. Không còn đơn thuần là vấn đề
bóc lột và áp bức, mà là một vấn đề mới. Rốt cuộc thái độ loại trừ làm thay đổi
ý nghĩa của tư cách là thành phần của xã hội chúng ta đang sống; những người bị
loại trừ không còn là phần phụ thuộc hay bên lề hay bị tước quyền trong xã
hội—họ thậm chí không còn là thành phần của xã hội nữa! Những người bị loại trừ
không phải là những người “bị bóc lột” mà là những người bị gạt ra ngoài, những
“đồ thừa”.
54.
Trong bối cảnh này, một số người vẫn còn tiếp tục bênh vực các lý thuyết kiểu
“lọt sàng xuống nia”, [†] cho rằng sự tăng trưởng kinh tế, được khuyến khích bởi
thị trường tự do, tự nó sẽ thành công trong việc tạo ra công bằng và sự bao gồm
(inclusion) nhiều hơn trong xã hội. Ý kiến này chưa bao giờ được thực tế
xác nhận, nó diễn tả một niềm tin thô thiển và ngây thơ vào lòng tốt của những
người nắm giữ quyền lực kinh tế và các thao tác được thần thánh hoá của hệ
thống kinh tế chủ đạo. Trong khi đó những người bị loại trừ vẫn đang chờ đợi.
Để duy trì một lối sống loại trừ người khác, hay duy trì sự phấn khích với lý
tưởng ích kỷ ấy, một hiện tượng toàn cầu hoá của sự dửng dưng đã phát triển.
Hầu như vô tình, rốt cuộc chúng ta trở nên vô cảm trước tiếng kêu của người
nghèo, không còn có thể khóc trước nỗi đau của người khác hay cảm thấy cần cứu
giúp họ, coi như tất cả đều là trách nhiệm của một ai khác chứ không phải của
chính chúng ta. Văn hoá của sự thịnh vượng làm chúng ta mất đi sự mẫn cảm;
chúng ta phấn khích nếu thị trường cung cấp cho chúng ta một món hàng mới;
trong khi tất cả những mảnh đời cằn cỗi vì thiếu cơ hội có vẻ chỉ là một cảnh
tượng bình thường, không hềlàm chúng ta mủi lòng.
Nói
không với ngẫu thần mới là tiền bạc
55.
Một nguyên nhân của tình huống này được thấy trong mối quan hệ của chúng ta với
tiền bạc, vì chúng ta thản nhiên chấp nhận sự thống trị của nó trên chúng ta và
các xã hội của chúng ta. Cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay có thể làm chúng
ta không để ý tới sự kiện nó phát sinh trong một khủng hoảng sâu xa về con
người: sự chối bỏ địa vị tối thượng của con người! Chúng ta đã tạo ra các ngẫu
thần mới. Việc thờ con bò vàng thời xưa (xem Xh 32:1-35) nay đã trở lại dýới
một dạng mới và sống sýợng là việc sùng bái ngẫu thần tiền bạc và sự chuyên chế
của một nền kinh tế phi nhân không có một mục ðích nhân bản ðích thực. Cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chánh toàn cầu bộc lộ rõ sự mất thăng bằng và trên hết
là sự thiếu quan tâm đối với con người; con người bị giản lược vào một nhu cầu
duy nhất của họ mà thôi: tiêu thụ.
56.
Trong khi thu nhập của một thiểu số tăng theo cấp số nhân, thì hố ngăn cách
giữa đa số với một thiểu số được hưởng sự thịnh vượng cũng tăng theo cấp số
nhân. Tình trạng chênh lệch này là kết quả của các hệ tư tưởng muốn bảo vệ độc
lập tuyệt đối của thị trường và đầu cơ tài chánh. Hậu quả là chúng phủ nhận mọi
quyền kiểm soát của các nhà nước vốn có trách nhiệm lo cho công ích. Thế là
sinh ra một thứ chuyên chế mới, vô hình và thường là hư hư ảo ảo, nó đơn phương
và tàn nhẫn áp đặt những luật pháp và qui tắc riêng của nó. Các món nợ và lãi
tích luỹ cũng làm cho các quốc gia khó thể hiện tiềm năng nền kinh tế riêng của
họ để giúp các công dân nước họ được hưởng sức mua thực sự của họ. Cũng còn
phải kể thêm tình trạng tham nhũng và trốn thuế tràn lan vì ích kỷ, nay đã ở
cấp độ toàn cầu. Khát vọng quyền lực và của cải là vô giới hạn. Trong hệ thống
này, với khuynh hướng xâu xé bất cứ cái gì cản đường cho sự gia tăng lợi nhuận,
những thực tại mong manh, như môi trường chẳng hạn, hoàn toàn không có khả năng
tự vệ trước những lợi ích của một thị trường được thần thánh hoá và trở thành
qui luật duy nhất.
Nói
không với một hệ thống tài chánh thống trị thay vì phục vụ
57.
Đằng sau thái độ này ẩn chứa một sự chối bỏ đạo đức và chối bỏ Thiên Chúa. Đạo
đức được nhìn với con mắt khinh bỉ chế nhạo. Người ta coi đạo đức là phi sản
xuất, quá nhân đạo, vì nó coi tiền bạc và quyền lực là cái gì tương đối. Người
ta cảm thấy nó là một mối đe doạ, vì nó kết án những hành vi thao túng và hạ
thấp phẩm giá con người. Trên thực tế, đạo đức dẫn con người tới Thiên Chúa,
Đấng kêu gọi một lời đáp dấn thân vượt ra ngoài các phạm trù của thị trường.
Khi thị trường được coi là tuyệt đối, thì người ta chỉ có thể coi Thiên Chúa
như là cái gì không kiểm soát được, không quản lý được, thậm chí nguy hiểm, vì
Thiên Chúa kêu gọi con người thể hiện đầy đủ bản thân và tự do khỏi mọi hình
thức nô lệ. Đạo đức—một thứ đạo đức phi ý thức hệ—có thể đem lại sự cân bằng và
một trật tự xã hội nhân đạo hơn. Với những ý tưởng này, tôi khuyến khích các
chuyên gia tài chánh và các chính khách suy gẫm những lời của các bậc hiền nhân
thời xưa: “Không chia sớt của cải với người nghèo là ăn cắp của họ và lấy đi kế
sinh nhai của họ. Của cải chúng ta giữ không phải của riêng chúng ta, mà là của
họ”.[55]
58.
Một sự cải cách tài chánh theo các suy tư đạo đức như thế đòi hỏi các nhà lãnh
đạo chính trị phải thay đổi mạnh mẽ cách tiếp cận. Tôi khuyến khích họ đối diện
với thách thức này bằng sự quyết tâm và một cái nhìn về tương lai, đồng thời
không bỏ qua những yếu tố cụ thể của từng trường hợp. Tiền phải phục vụ, không
phải cai trị! Giáo hoàng yêu thương mọi người, người giàu cũng như người nghèo,
nhưng ngài buộc phải nhân danh Đức Kitô nhắc nhở mọi người rằng những người
giàu phải giúp đỡ, tôn trọng và thăng tiến người nghèo. Tôi khuyên anh chị em
có tình liên đới quảng đại và đưa kinh tế và tài chánh trở về với một phương
thức đạo đức phục vụ lợi ích con người.
Nói
không với tình trạng bất bình đẳng, nguồn gốc của bạo lực
59.
Ngày nay tại nhiều nơi chúng ta nghe thấy tiếng kêu gọi phải có an ninh hơn.
Nhưng bao lâu tình trạng loại trừ và bất bình đẳng trong xã hội còn chưa được
đảo ngược, thì không thể nào xoá bỏ bạo lực. Người nghèo và các dân tộc nghèo
bị tố cáo sử dụng bạo lực, nhưng nếu không có các cơ hội bình đẳng thì các hình
thức gây hấn và xung đột khác nhau sẽ tìm được mảnh đất mầu mỡ để phát triển và
bùng nổ. Khi một xã hội—địa phương, quốc gia, hay thế giới—muốn gạt ra bên lề
một thành phần của mình, thì không một chương trình hay nguồn lực chính trị nào
dành cho việc thực thi pháp luật hay các hệ thống giám sát có thể bảo đảm vĩnh
viễn sự an bình. Không chỉ đơn giản vì sự bất bình đẳng khơi dậy một phản ứng
bạo lực từ những người bị loại trừ khỏi hệ thống, nhưng là vì hệ thống kinh
tế-xã hội là bất công tận gốc. Cũng như sự tốt lành có xu hướng lan toả, việc
dung túng sự ác, nghĩa là bất công, có khuynh hướng mở rộng ảnh hưởng độc hại
của nó và âm thầm huỷ hoại mọi hệ thống chính trị và xã hội, bất kể hệ thống ấy
có vẻ vững chắc đến đâu. Nếu mọi hành động đều có những hậu quả của chúng, thì
một sự ác nằm trong các cơ cấu của một xã hội cũng có một tiềm năng phá hoại và
huỷ diệt lâu dài. Nó chính là sự xấu được kết tinh trong những cơ cấu xã hội
bất công, và không thể là cơ sở để hi vọng một tương lai tốt đẹp hơn. Chúng ta
còn ở xa cái gọi là “tận cùng của lịch sử”, vì các điều kiện cho một sự phát
triển bền vững và hoà bình vẫn chưa được thấy rõ và thể hiện đầy đủ.
60.
Ngày nay các cơ chế vận hành kinh tế cổ xuý việc tiêu thụ quá mức, nhưng rõ
ràng chủ nghĩa tiêu thụ xả láng kết hợp với tình trạng bất bình đẳng làm cho cơ
cấu xã hội bị huỷ hoại gấp hai lần. Bất bình đẳng sẽ sinh ra bạo lực sử dụng vũ
khí và sẽ không bao giờ có thể giải quyết được. Nó chỉ có thể tạo ra hi vọng
giả tạo cho những người kêu gọi gia tăng an ninh, mặc dù ngày nay chúng ta biết
rằng các vũ khí và bạo lực không hề giúp tìm ra giải pháp, mà chỉ tạo ra những
xung đột mới và nghiêm trọng hơn. Một số người bằng lòng với việc chỉ trích
những người nghèo và các quốc gia nghèo vì là nguồn gốc của các rắc rối; bằng
những sự khái quát hoá vô căn cứ, họ cho rằng giải pháp phải là “giáo dục” để
xoa dịu những người nghèo, thuần hoá họ và làm họ trở thành vô hại. Tất cả quan
điểm này càng làm cho những người bị loại trừ cảm thấy tức giận khi chứng kiến
tình trạng tham nhũng tràn lan và ăn rễ sâu tại nhiều quốc gia—trong các chính
phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức—bất kể xu hướng chính trị của các nhà lãnh
đạo của họ là gì.
Các
thách thức văn hoá
61.
Chúng ta cũng loan báo Tin Mừng khi cố gắng đối mặt với các thách thức có thể
xuất hiện.[56] Có khi những thách thức này có thể đến dưới dạng những cuộc tấn
công thực sự vào tự do tôn giáo hay những cuộc bách đạo mới nhắm vào người Kitô
hữu; tại một số nước, tình trạng này đã tới mức báo động của sự căm thù và bạo
lực. Tại nhiều nơi, thách thức nổi trội hơn là sự lan rộng của chủ nghĩa dửng
dưng và chủ nghĩa tương đối, gắn liền với sự thất vọng và khủng hoảng ý thức hệ
bắt nguồn từ một phản ứng chống lại bất cứ cái gì có vẻ là độc tài. Tình trạng
này không chỉ làm hại Hội Thánh mà cũng làm hại toàn thể xã hội. Chúng ta phải
nhận ra rằng, trong một nền văn hoá mà mỗi người chỉ muốn chấp nhận sự thật chủ
quan của mình, thì sẽ khó biết bao để các công dân tìm ra được một kế hoạch
chung vượt lên trên các lợi ích riêng tư và các tham vọng cá nhân.
62.
Trong nền văn hoá đang thịnh hành, thế thượng phong được dành cho cái bề ngoài,
cái trực tiếp, cái có thể thấy được, cái nhanh, cái phù phiếm và cái tạm bợ.
Cái thật nhường chỗ cho cái ảo. Tại nhiều nước, toàn cầu hoá có nghĩa là một sự
đẩy nhanh tiến trình suy yếu các gốc rễ văn hoá truyền thống và sự xâm nhập các
lối suy nghĩ và hành động của các nền văn hoá khác tiến bộ hơn về mặt kinh tế
nhưng yếu kém hơn về đạo đức. Sự kiện này đã được nêu lên bởi các giám mục từ
nhiều châu lục tại các Thượng Hội Đồng khác nhau. Các giám mục Châu Phi, chẳng
hạn, khi đọc Thông Điệp Sollicitudo Rei Socialis, đã vạch ra từ nhiều năm trước
rằng người ta đã thường xuyên tìm cách biến các nước Châu Phi thành “những bộ
phận của một cái máy, những vòng răng trên một cái bánh răng khổng lồ. Điều này
cũng đúng trong lãnh vực truyền thông xã hội, chủ yếu được điều hành bởi các
trung tâm tại bắc bán cầu, nó không quan tâm đầy đủ đến các ưu tiên và các vấn
đề của các nước như thế, hay không tôn trọng bản chất của các nền văn hoá
ấy”.[57] Tương tự, các giám mục Châu Á cũng “nêu lên những ảnh hưởng bên ngoài
đang tác động đến các nền văn hoá Á Châu. Các mẫu hành vi mới đang xuất hiện
như là kết quả của việc chịu ảnh hưởng quá nhiều vào các phương tiện truyền
thông xã hội... Hậu quả là các khía cạnh tiêu cực của các công nghệ truyền
thông và giải trí đang đe doạ các giá trị truyền thống, đặc biệt đe doạ sự
thánh thiêng của hôn nhân và sự bền vững của gia đình”.[58]
63.
Đức tin Công Giáo của nhiều người ngày nay đang bị thách thức bởi sự nở rộ các
phong trào tôn giáo, một số có khuynh hướng cực đoan trong khi một số khác đề
nghị một linh đạo không có Thiên Chúa. Một mặt, đây là một phản ứng của con
người trước một xã hội duy vật, tiêu thụ và cá nhân chủ nghĩa, nhưng mặt khác,
đây cũng là một sự khai thác sự yếu đuối của những người sống trong nghèo khổ
và bên lề xã hội, những người đang tranh đấu để sinh tồn trong tình trạng đau
khổ nặng nề của con người và đang tìm những giải pháp trước mắt cho các nhu cầu
của họ. Không thiếu sự sắc sảo, các phong trào tôn giáo này xuất hiện, trong
một bối cảnh văn hoá đậm nét cá nhân chủ nghĩa, để lấp đầy khoảng trống do chủ
nghĩa duy lý thế tục để lại. Chúng ta phải nhìn nhận rằng, sở dĩ một phần các
tín hữu đã rửa tội của chúng ta thiếu ý thức thuộc về Hội Thánh, đó cũng là do
một số cơ cấu và một số bầu khí thiếu thân thiện cởi mở tại một số giáo xứ và
cộng đồng của chúng ta, hoặc cũng do tính quan liêu trong cách xử lý các vấn đề
đơn sơ hay phức tạp trong đời sống các tín hữu của chúng ta. Tại nhiều nơi,
phương thức quản trị lấn lướt phương thức mục vụ, cũng như sự tập trung vào
việc ban các bí tích tách rời với các hình thức truyền giáo khác.
64.
Tiến trình tục hoá có khuynh hướng giản lược đức tin và Hội Thánh vào lãnh vực
cá nhân và riêng tư. Hơn nữa, bằng việc phủ nhận cái siêu việt, nó làm cho đạo
đức ngày càng xuống cấp, ý thức của cá nhân và tập thể về tội lỗi suy yếu dần,
và chủ nghĩa tương đối ngày càng gia tăng. Tình trạng này dẫn đến một sự mất
phương hướng chung, đặc biệt ở lứa tuổi thiếu niên và thanh niên vốn là tuổi
rất dễ bị tổn thương do sự thay đổi. Như các giám mục Hoa Kỳ đã vạch ra một
cách chí lý, trong khi Hội Thánh nhấn mạnh sự tồn tại của các qui tắc đạo đức
khách quan có giá trị cho mọi người, thì lại “có những người trong nền văn hoá
của chúng ta mô tả giáo huấn này là không đúng, nghĩa là chống lại các quyền cơ
bản của con người. Những tuyên bố loại này thường đi theo một dạng chủ nghĩa
tương đối về đạo đức, và một cách bất nhất, kèm theo một niềm tin vào các quyền
tuyệt đối của các cá nhân. Quan niệm này coi Hội Thánh như là nơi cổ vũ một
thành kiến riêng và can thiệp vào tự do của cá nhân”.[59] Chúng ta đang sống
trong một xã hội lệ thuộc thông tin không ngừng dội xuống chúng ta đủ loại dữ
liệu—tất cả đều được coi là quan trọng như nhau—và dẫn tới tình trạng hời hợt
trong lãnh vực nhận thức đạo đức. Đáp lại, chúng ta cần cung cấp một nền giáo
dục dạy lối suy nghĩ có phê bình và khuyến khích phát triển các giá trị đạo đức
trưởng thành.
65.
Bất chấp làn sóng tục hoá đã quét qua các xã hội chúng ta, tại nhiều nước—ngay
cả những nước mà người Kitô hữu chỉ là thiểu số—Hội Thánh Công Giáo được công
luận coi là một tổ chức khả tín, và được tin cậy vì sự liên đới và quan tâm tới
những người cùng khổ. Hội Thánh không ngừng hành động như một người trung gian
trong việc tìm kiếm các giải pháp cho các vấn đề liên quan tới hoà bình, hoà
hợp xã hội, đất đai, bảo vệ sự sống, nhân quyền và dân quyền, v.v…. Và các
trường học và đại học công giáo trên khắp thế giới đã đem lại biết bao lợi ích!
Đây là điều rất tốt. Thế nhưng chúng ta còn gặp khó khăn trong việc làm cho dân
chúng thấy rằng khi chúng ta nêu lên những vấn đề khác không hợp sở thích của
công luận, chúng ta làm việc này chính là vì trung thành với cùng những xác tín
về phẩm giá con người và lợi ích chung.
66.
Gia đình đang trải nghiệm một khủng hoảng văn hoá sâu xa, và mọi cộng đồng và
quan hệ xã hội cũng thế. Trong trường hợp gia đình, sự suy yếu các mối quan hệ
này đặc biệt nghiêm trọng vì gia đình là tế bào cơ bản của xã hội, ở đó chúng
ta học cách sống với người khác bất chấp các khác biệt giữa chúng ta, và học
cách thuộc về lẫn nhau; gia đình cũng là nơi cha mẹ truyền thụ đức tin cho con
cái. Hôn nhân bây giờ có khuynh hướng được coi như một hình thức thoả mãn tình
cảm đơn thuần và có thể được xây dựng bằng mọi hình thức hoặc thay đổi tuỳ ý.
Nhưng sự đóng góp thiết yếu của hôn nhân cho xã hội vượt lên trên các tình cảm
và các nhu cầu của đôi vợ chồng. Như các giám mục Pháp đã dạy, hôn nhân không
phát sinh “từ cảm xúc yêu đương, theo định nghĩa có tính phù du, nhưng từ nghĩa
vụ sâu xa được chấp nhận bởi đôi vợ chồng ưng thuận đi vào một sự hiệp thông
đời sống trọn vẹn”.[60]
67.
Chủ nghĩa cá nhân của thời hậu hiện đại và toàn cầu hoá của chúng ta tạo điều
kiện cho một nếp sống làm suy yếu sự phát triển và vững bền của các mối tương
quan nhân vị và làm biến dạng các mối dây ràng buộc gia đình. Hoạt động mục vụ
cần làm sáng tỏ hơn sự thật rằng mối quan hệ của chúng ta với Cha đòi hỏi và
khuyến khích một sự hiệp thông giúp chữa lành, cổ vũ và tăng cường các mối quan
hệ giữa người với người. Trong thế giới chúng ta, đặc biệt trong một số nước,
các hình thức chiến tranh và xung đột đang xuất hiện trở lại, nhưng người Kitô
hữu chúng ta vẫn kiên trì trong ý muốn tôn trọng người khác, chữa lành các vết
thương, bắc cầu, tăng cường các mối quan hệ và “chịu đựng gánh nặng của nhau”
(Gl 6:2). Ngày nay cũng vậy, nhiều loại hiệp hội khác nhau nhẳm bảo vệ các
quyền và theo đuổi các mục tiêu cao quí đang được lập ra. Đây là dấu hiệu cho
thấy ước muốn của nhiều người muốn đóng góp cho sự tiến bộ văn hoá và xã hội.
Các
thách thức cho việc hội nhập đức tin
68.
Nền tảng Kitô giáo của một số dân tộc—đa phần ở Phương Tây—là một thực tại sống
động. Ở đây chúng ta tìm thấy, đặc biệt giữa những người thiếu thốn nhất, một
nguồn lực đạo đức giúp họ giữ gìn các giá trị của một nền nhân bản Kitô giáo
đích thực. Nhìn thực tại bằng con mắt đức tin, chúng ta không thể không nhìn
nhận những gì mà Chúa Thánh Thần đang gieo. Chúng ta sẽ tỏ ra thiếu tin tưởng
vào hoạt động tự do và hào phóng của Chúa Thánh Thần nếu chúng ta nghĩ rằng các
giá trị Kitô giáo đích thực đang vắng bóng tại những nơi mà rất nhiều người đã
rửa tội đang biểu lộ đức tin và tình liên đới với người khác bằng nhiều cách
khác nhau. Có nghĩa là ta không chỉ nhìn nhận những “hạt giống lời Chúa” rải
rác đó đây, mà hơn thế nữa, đây là một đức tin Kitô giáo đích thực với các cách
biểu hiện riêng và các phương tiện cho thấy mối quan hệ của nó với Hội Thánh.
Không thể coi nhẹ tầm quan trọng của một nền văn hoá thấm nhuần đức tin; trước
sức tấn công của chủ nghĩa thế tục, một nền văn hoá được phúc âm hoá, tuy có
những giới hạn của nó, nhưng nó cũng có rất nhiều nguồn lực chứ không chỉ đơn
thuần là tổng dân số tín hữu. Một nền văn hoá bình dân được phúc âm hoá bao hàm
những giá trị của đức tin và tình liên đới có sức khuyến khích sự phát triển
của một xã hội công bằng và có niềm tin hơn, và chứa đựng một sự khôn ngoan mà
chúng ta phải nhìn nhận với lòng biết ơn.
69.
Chúng ta có bổn phận phúc âm hoá các nền văn hoá để đưa Tin Mừng vào văn hoá.
Tại các nước có truyền thống Công Giáo, chúng ta có bổn phận khuyến khích, nuôi
dưỡng và tăng cường một sự phong phú vốn đã có rồi. Tại các nước có các truyền
thống tôn giáo khác, hay các nước tục hoá sâu đậm, chúng ta có bổn phận mở ra
những tiến trình mới để phúc âm hoá nền văn hoá, mặc dù công việc này đòi hỏi
một kế hoạch dài hạn. Tuy nhiên chúng ta phải lưu ý rằng, chúng ta không ngừng
được mời gọi tăng trưởng. Mỗi nhóm văn hoá và xã hội cần được thanh tẩy và lớn
lên. Trong trường hợp các nền văn hoá bình dân của dân Công Giáo, chúng ta có
thể thấy những khuyết tật cần phải được chữa lành bởi Tin Mừng: thói trọng nam
khinh nữ, tật nghiện rượu, bạo lực gia đình, ít đi lễ, các khái niệm về số phận
hay mê tín dị đoan làm người ta chạy theo ma thuật phù phép, v.v… Chính lòng
đạo bình dân có thể là một điểm xuất phát để chữa lành và thoát khỏi những
khuyết tật này.
70.
Cũng đúng là đôi khi chúng ta nhấn mạnh quá nhiều vào các biểu hiện bên ngoài
và các truyền thống của một số nhóm, hoặc quá đề cao các mặc khải riêng thay
cho mọi thứ khác, hơn là tập trung vào năng động lực của lòng đạo Kitô giáo. Có
một thứ Kitô giáo được cấu tạo bởi những việc sùng mộ phản ánh một đời sống đức
tin mang tính cá nhân chủ nghĩa và tình cảm, mà trên thực tế không tương ứng
với một “lòng đạo bình dân” chân chính. Một số người cổ xuý các cách biểu hiện
này trong khi hoàn toàn không quan tâm tới việc thăng tiến xã hội hay việc đào
luyện giáo dân, và trong một số trường hợp, họ chỉ nhắm tới những lợi lộc kinh
tế hay quyền lực trên những người khác. Chúng ta cũng không thể bỏ qua sự kiện
trong những thập niên gần đây đã có một sự suy thoái trong cách mà người Công
Giáo truyền thụ đức tin cho giới trẻ. Không thể phủ nhận rằng nhiều người cảm
thấy thất vọng và không còn nhận mình thuộc về truyền thống công giáo nữa. Ngày
càng nhiều bậc cha mẹ không cho con chịu phép rửa hoặc dạy con cầu nguyện. Cũng
có hiện tượng nhiều người bỏ sang các đạo khác. Các nguyên nhân của sự suy sụp
này bao gồm: thiếu cơ hội đối thoại trong gia đình, ảnh hưởng của các phương
tiện truyền thông, chủ nghĩa tương đối chủ quan, chủ nghĩa tiêu thụ vô độ chỉ
làm giàu cho thị trường, thiếu chăm sóc mục vụ cho người nghèo, các tổ chức của
chúng ta không thu hút, và chúng ta gặp khó khăn trong việc khôi phục một sự
gắn bó nhiệm mầu với đức tin trong một bối cảnh đa nguyên tôn giáo.
Các
thách thức từ nền văn hoá đô thị
71.
Giêrusalem mới, Thành Thánh (xem Kh 21:2-4), là điểm đến mà toàn thể nhân loại
đang đi tới. Chúng ta ngạc nhiên khi mặc khải của Thiên Chúa dạy rằng sự viên
mãn của nhân loại và của lịch sử ðýợc thể hiện trong một thành trì. Chúng ta
cần phải nhìn vào các thành phố của chúng ta với một cái nhìn chiêm niệm, một
cái nhìn đức tin thấy Thiên Chúa cư ngụ trong các ngôi nhà, các đường phố, các
công viên. Sự hiện diện của Thiên Chúa nâng đỡ các cố gắng của các cá nhân và
tập thể để tìm được sự khích lệ và ý nghĩa trong đời họ. Ngài cư ngụ giữa họ,
nuôi dưỡng tình liên đới, tình huynh đệ, và ước muốn sự thiện, sự thật và công
lý. Sự hiện diện của Ngài không phải được tạo ra, mà phải được tìm kiếm, được
phát hiện. Thiên Chúa không giấu mình với những ai thành tâm kiếm tìm Người, dù
họ tìm kiếm một cách mò mẫm, mơ hồ và cầu may.
72.
Tại các đô thị, khác với tại nông thôn, chiều kích tôn giáo của đời sống được
biểu lộ bằng những cách sống khác nhau, những nhịp độ sống thường nhật khác
nhau tuỳ nơi và tuỳ người. Trong đời sống hằng ngày, người dân thường phải đấu
tranh để sinh tồn và cuộc đấu tranh này chứa đựng một sự hiểu biết sâu xa về
cuộc đời mang đậm một ý thức tôn giáo. Chúng ta phải xem xét vấn đề này kỹ hơn
để có khả năng đi vào một cuộc đối thoại giống như cuộc đối thoại giữa Chúa
Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng, nơi chị tìm nước để giải cơn khát (xem Ga
4:1-15).
73.
Các nền văn hoá mới đang không ngừng xuất hiện trong những không gian mới rộng
lớn này, ở đó người Kitô hữu không còn là những người giải thích hay tạo ra ý
nghĩa giống như trước kia. Ngược lại, chính họ lấy từ các nền văn hoá này những
ngôn ngữ, những biểu tượng, những thông điệp và những hệ hình mới đề xuất những
cách tiếp cận mới với cuộc đời, những cách tiếp cận thường tương phản với Tin
Mừng của Chúa Giêsu. Một nền văn hoá hoàn toàn mới đã sinh ra và tiếp tục lớn
lên trong các đô thị. Thượng Hội Đồng lưu ý rằng hôm nay các thay đổi đang diễn
ra trong các không gian rộng lớn này và các nền văn hoá mà chúng tạo ra là một
nơi ưu tiên để loan báo Tin Mừng.[61] Điều này thách thức chúng ta phải sáng
tạo ra những không gian và điều kiện mới thuận lợi cho việc cầu nguyện và hiệp
thông, sao cho chúng hấp dẫn và có ý nghĩa hơn đối với các cư dân đô thị. Qua
ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông, các vùng nông thôn đang chịu sự tác
động của cùng những thay đổi văn hoá này, khiến cho họ cũng thay đổi một cách
đáng kể cách sống của họ.
74.
Việc phải làm là một cuộc loan báo Tin Mừng có khả năng dọi ánh sáng vào những
cách thức mới trong mối liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân và với thế giới
xung quanh chúng ta, và khơi dậy những giá trị cơ bản. Nó phải đến được những
nơi mà các lối kể truyện và các hệ hình đang hình thành, đem lời Chúa Giêsu đến
tận tầng thâm sâu nhất của tâm hồn các thành phố chúng ta. Các thành phố đều
mang tính đa văn hoá; tại các thành phố lớn, có một mạng nối kết để các nhóm
người chia sẻ với nhau sức tưởng tượng và các ước mơ về cuộc đời, và các mối
tương tác mới giữa người với người cũng phát sinh, các văn hoá mới, các thành
phố vô hình. Các nền văn hoá phụ cũng xuất hiện bên nhau, chúng thường mang
tính chất kỳ thị và bạo lực. Hội Thánh được kêu gọi phục vụ một cuộc đối thoại
khó khăn. Một mặt, có những người có các điều kiện cần thiết để phát triển cuộc
sống cá nhân và gia đình của họ, nhưng mặt khác cũng có nhiều người không được
gọi là công dân, những “công dân hạng hai”, và những “cặn bã đô thị”. Các đô
thị tạo ra một loại mâu thuẫn trường kỳ, vì trong khi chúng cống hiến cho cư
dân của chúng vô vàn khả thể, chúng đồng thời cũng tạo ra rất nhiều cản trở cho
sự phát triển đầy đủ cuộc sống của họ. Tình trạng mâu thuẫn này gây nên sự đau
đớn. Tại nhiều vùng trên thế giới, các thành phố là sân khấu của các cuộc phản
kháng quần chúng, ở đó hàng ngàn người đứng lên kêu gọi tự do, có tiếng nói
trong đời sống công cộng, công lý và đủ loại các đòi hỏi khác mà nếu không được
hiểu đúng, thì vũ lực cũng không thể giải quyết.
75.
Chúng ta không thể làm ngơ trước sự kiện tại các thành phố đang diễn ra nạn
buôn người, buôn bán chất ma tuý, lạm dụng và bóc lột trẻ em, quên lãng người
già và người tàn tật, và nhiều hình thức tham nhũng và hoạt động tội phạm. Đồng
thời, những nơi mà lẽ ra phải là chỗ gặp gỡ và liên kết thì thường lại trở
thành những nơi cách ly và nghi kỵ lẫn nhau. Các nhà cửa và các khu láng giềng
thường được xây dựng để có thể cách ly và bảo vệ hơn là để liên kết và hoà hợp.
Rao giảng Tin Mừng sẽ là một cơ sở để khôi phục phẩm giá con người trong những
bối cảnh này, vì Chúa Giêsu muốn tuôn đổ dồi dào sự sống xuống các thành phố
của chúng ta (xem Ga 10:10). Ý nghĩa thống nhất và đầy đủ của đời sống con
người mà Tin Mừng đề nghị là phương thuốc cho những căn bệnh của các đô thị
chúng ta, mặc dù chúng ta phải nhìn nhận rằng một chương trình đồng nhất và
cứng nhắc về phúc âm hoá thì không phù hợp với thực tại phức tạp này. Nhưng
chúng ta sẽ trở thành những Kitô hữu tốt hơn và mang lại lợi ích cho các đô thị
nếu chúng ta sống trọn vẹn đời sống con người và đối diện với mọi thách thức
như là men để làm chứng cho Tin Mừng trong mọi nền văn hoá và mọi đô thị.
II. THÁCH THỨC CHO NGƯỜI HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ
76.
Tôi vô cùng biết ơn tất cả những người đang dấn thân hoạt động trong Hội Thánh
và cho Hội Thánh. Ở đây tôi không muốn đi vào chi tiết các hoạt động của những
người hoạt động mục vụ khác nhau, từ các giám mục xuống tới những người cung
cấp các việc phục vụ âm thầm và khiêm tốn nhất. Đúng hơn, tôi muốn suy tư về
những thách thức mà tất cả họ phải đối diện trong bối cảnh văn hoá toàn cầu hoá
hiện nay. Nhưng một cách công tâm, tôi phải nói trước tiên rằng sự đóng góp của
Hội Thánh trong thế giới hôm nay là vô cùng to lớn. Nỗi đau và sự xấu hổ chúng
ta cảm thấy vì tội lỗi của một số thành viên của Hội Thánh, và tội lỗi của
chính chúng ta, không bao giờ được làm chúng ta quên rằng có vô số người Kitô
hữu đang hiến dâng cuộc đời mình trong hi vọng. Họ giúp biết bao nhiêu người
được khỏi bệnh hay được chết trong bình an tại các bệnh viện tạm bợ. Họ hiện
diện với những người mắc các tật nghiện ngập khác nhau tại những nơi nghèo khổ
nhất trên thế giới. Họ hiến mình cho việc giáo dục các trẻ em và thanh niên. Họ
chăm sóc những người già không được ai lo cho. Họ tìm cách thông truyền những
giá trị trong các môi trường thù nghịch. Họ dấn thân bằng những cách thức khác
nhau để chứng tỏ một tình thương vô biên đối với nhân loại được khơi dậy bởi vị
Thiên Chúa làm người. Tôi biết ơn vì gương sáng tôi nhận được từ rất nhiều Kitô
hữu khi họ vui vẻ hi sinh cuộc đời và thời giờ của họ. Những chứng tá này an ủi
và nâng đỡ tôi trong cố gắng của chính mình để khắc phục tính ích kỷ và để tôi
hiến mình trọn vẹn hơn.
77.
Tuy nhiên, là những đứa con của thời đại này, tất cả chúng ta một cách nào đó
cũng chịu ảnh hưởng bởi nền văn hoá toàn cầu hoá hôm nay, nó cho chúng ta những
giá trị và khả thể mới, nhưng cũng có thể hạn chế, chi phối và rốt cuộc làm hại
chúng ta. Tôi ý thức rằng chúng ta cần tạo ra những khoảng không gian mới trong
đó những người hoạt động mục vụ có thể tìm được sự giúp đỡ và chữa trị, “những
nơi mà chính đức tin vào Chúa Giêsu chết và phục sinh được canh tân, những nơi
mà các vấn đề sâu xa nhất và các mối quan tâm hằng ngày được chia sẻ, nơi mà
nhận thức sâu xa hơn về các kinh nghiệm của chúng ta và chính đời sống được
thực hiện trong ánh sáng Tin Mừng, vì mục đích định hướng các quyết định của cá
nhân và xã hội tới cái tốt và cái đẹp”.[62] Đồng thời, tôi muốn kêu gọi chú ý
tới một số cám dỗ đặc biệt ảnh hưởng tới những người hoạt động mục vụ.
Nói có
với thách thức của một linh đạo truyền giáo
78.
Chúng ta hôm nay đang thấy nơi nhiều người hoạt động mục vụ, gồm cả những người
thánh hiến nam cũng như nữ, một sự quan tâm quá mức về tự do và sự thoải mái
của bản thân họ, khiến họ coi công việc của họ như chỉ là một cái gì phụ thuộc
chứ không phải một thành phần thuộc căn tính của họ. Đồng thời, đời sống thiêng
liêng trở nên bị đồng hoá với một ít việc thực hành tôn giáo có thể đem lại một
sự an ủi nào đó chứ không khuyến khích việc gặp gỡ người khác, dấn thân vào thế
giới hay một niềm say mê loan báo Tin Mừng. Kết quả là chúng ta thấy nhiều
người hoạt động rao giảng Tin Mừng, tuy họ vẫn cầu nguyện, nhưng có một lối
sống rất cá nhân chủ nghĩa, một sự khủng hoảng căn tính và nhiệt tình trở nên
nguội lạnh. Có ba điều xấu tác động lẫn nhau.
79. Có
những lúc nền văn hoá truyền thông của chúng ta và một số giới trí thức truyền
đi một chủ nghĩa hoài nghi rất mạnh đối với sứ điệp của Hội Thánh, cùng với
những chỉ trích giễu cợt. Hậu quả là nhiều nhà hoạt động mục vụ, mặc dù họ cầu
nguyện, nhưng ngày càng thêm mặc cảm tự ti dẫn họ tới thái độ tương đối hoá căn
tính và các niềm tin Kitô giáo của họ. Điều này tạo ra một cái vòng lẩn quẩn.
Rốt cuộc họ cảm thấy không hài lòng với bản thân họ và với công việc họ làm; họ
không đồng hoá mình với sứ mạng loan báo Tin Mừng của mình và điều này làm suy
yếu sự dấn thân của họ. Tình trạng này cuối cùng bóp nghẹt niềm vui truyền giáo
bằng một thứ ám thị rằng họ giống như mọi người và có tất cả những gì người
khác có. Như thế hoạt động rao giảng Tin Mừng của họ trở thành bị ép buộc, họ
dành rất ít công sức và thời gian cho công việc này.
80.
Các nhà hoạt động mục vụ như thế có thể rơi vào một thứ chủ nghĩa tương đối còn
nguy hiểm hơn chủ nghĩa tương đối lý thuyết, bất kể phong cách linh đạo hay tư
duy riêng của họ là gì. Nó chạm tới các quyết định thâm sâu và riêng tư nhất
định hình lối sống của họ. Chủ nghĩa tương đối thực tế này hệ tại việc hành
động như thể Thiên Chúa không hiện hữu, thực hiện các quyết định như thể người
nghèo không tồn tại, đề ra các mục tiêu như thể người khác không tồn tại, hoạt
động như thể không có sự tồn tại của những người chưa đón nhận Tin Mừng. Đáng
ngạc nhiên là những người rõ ràng từng có những xác tín học thuyết và thiêng
liêng vững chắc cũng thường rơi vào một lối sống bám víu vào sự an toàn về tài
chánh, hay một ước muốn quyền lực và danh vọng bằng bất cứ giá nào, thay vì
hiến mình truyền giáo cho tha nhân. Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm say
mê truyền giáo!
Nói không
với ích kỷ và nguội lạnh thiêng liêng
81.
Khi mà chúng ta đang cần nhiều nhất một năng động truyền giáo để đem muối và
ánh sáng cho đời, thì nhiều giáo dân sợ rằng có thể họ sẽ được yêu cầu đảm nhận
một hoạt động tông đồ nào đó, và họ tìm cách tránh né mọi trách nhiệm có thể
lấy mất thì giờ rảnh rỗi của họ. Ví dụ, ngày nay tại các giáo xứ thật khó tìm
được những giáo lý viên đã được huấn luyện mà sẵn sàng kiên trì trong công việc
này trong một thời gian dài. Điều tương tự cũng xảy ra đối với các linh mục sợ
mất thời giờ rảnh rỗi của mình. Lý do thường là vì người ta cảm thấy nhu cầu
quá mạnh muốn bảo vệ sự tự do riêng của họ, họ coi nhiệm vụ loan báo Tin Mừng
như thể là một chất độc nguy hiểm thay vì là một lời đáp hân hoan trước tình
yêu của Thiên Chúa mời gọi chúng ta truyền giáo, hoàn thiện bản thân và sinh
hoa kết quả. Một số người hoàn toàn từ chối hiến thân cho truyền giáo và rốt
cuộc đi đến một tình trạng tê liệt và nhàm chán thiêng liêng.
82.
Vấn đề không luôn luôn ở chỗ quá nhiều hoạt động, nhưng hoạt động được thực
hiện không tốt, không có động lực thích hợp, không có một linh đạo thấm nhuần
hoạt động ấy và làm cho nó thú vị. Kết quả là hoạt động trở nên mệt nhọc quá
mức, nhiều khi dẫn tới bệnh tật. Thay vì cảm thấy mệt nhưng vui và thoả mãn, người
ta cảm thấy căng thẳng, nặng nề, không thoả mãn và rốt cuộc là không chịu đựng
nổi. Nhàm chán mục vụ có thể đến từ một số nguyên nhân. Một số người rơi vào
tình trạng này vì họ lao mình vào những kế hoạch không thực tế và không thoả
mãn với những gì họ có thể làm hợp với sức của họ. Số khác vì họ thiếu kiên
nhẫn để cho phép các tiến trình chín muồi; họ muốn đạt mọi sự ngay tức khắc. Số
khác vì họ bám chặt vào một số ít dự án hay ước mơ thành công vô bổ. Số khác
nữa vì họ đã mất tiếp xúc thực tế với dân và quá vật chất hoá công việc của họ
khiến họ quan tâm nhiều tới bản đồ lộ trình hơn là tới chính cuộc hành trình.
Cũng có người rơi vào nhàm chán vì họ không thể đợi; họ muốn làm chủ nhịp độ
đời sống. Mối ám ảnh ngày nay với những những kết quả tức thời khiến các nhà
hoạt động mục vụ khó chấp nhận bất cứ điều gì có chút dính dáng tới những ý
kiến bất đồng, thất bại, chỉ trích hay thập giá.
83.
Thế là mối đe doạ lớn nhất từ từ hình thành: “chủ nghĩa thực dụng màu xám của
đời sống hằng ngày của Hội Thánh, trong đó mọi sự có vẻ diễn tiến bình thường,
nhưng trên thực tế đang hao mòn dần và rơi xuống tình trạng thiển cận”.[63]
Bằng cách này một tâm lý nấm mồ phát triển và từ từ biến những người Kitô hữu
thành những xác ướp trong một viện bảo tàng. Vỡ mộng với thực tế, với Hội Thánh
và với bản thân mình, họ trải nghiệm một cám dỗ ở lại trong một thái độ u buồn
vô vọng, níu kéo con tim như “liều thuốc quí nhất của quỉ”.[64] Vốn được kêu
gọi toả ánh sáng và truyền sự sống, rốt cuộc họ bị giữ chặt trong những cái chỉ
sinh ra bóng tối và mệt mỏi nội tâm và dần dần làm tan đi mọi nhiệt tình tông
đồ. Về tất cả chuyện này, tôi lặp lại: Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm
vui loan báo Tin Mừng!
Nói
không với thái độ bi quan vô bổ
84.
Niềm vui của Tin Mừng là cái không ai hay điều gì có thể lấy mất được của chúng
ta (xem Ga 16:22). Những điều xấu của thế giới—và của Hội Thánh—không thể là
cái cớ để chúng ta giảm bớt sự dấn thân và nhiệt tình. Chúng ta hãy coi chúng
như là những thách thức có thể giúp chúng ta lớn lên. Với con mắt đức tin,
chúng ta có thể thấy ánh sáng mà Chúa Thánh Thần luôn luôn chiếu dọi giữa bóng
tối, đồng thời không bao giờ quên rằng “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng
càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20). Đức tin của chúng ta được thách thức để biết
rằng nước có thể biến thành rượu như thế nào và lúa mì có thể mọc giữa cỏ dại
ra sao. Năm mươi năm sau Công Đồng Vaticanô II, trong khi chúng ta đau buồn vì
những rắc rối của thời đại, thay vì một sự lạc quan ngây thơ, thái độ thực tế
lớn lao hơn của chúng ta không được có nghĩa là chúng ta ít tin cậy hơn vào
Thần Khí hay ít quảng đại hơn. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nghe lại một lần
nữa những lời của Chân Phước Gioan XXIII vào ngày đáng nhớ 11 tháng 10 năm
1962: “Đôi khi chúng ta ân hận khi phải nghe những tiếng nói của những người
thiếu thận trọng và thiếu chừng mực, mặc dù họ cháy bỏng nhiệt tình. Trong thời
đại hôm nay, họ không nhìn thấy gì khác ngoài sự bấp bênh và tàn phá... Chúng
ta thấy không thể đồng tình với những nhà tiên tri của thảm hoạ, những người
luôn luôn tiên báo có thảm hoạ, như thể ngày tận thế đã tới gần. Ở thời đại
chúng ta, Chúa Quan Phòng đang đưa chúng ta tới một trật tự mới của các mối
tương quan giữa con người; nhờ sự cố gắng của con người và thậm chí vượt quá
mọi mong đợi, các mối tương quan này được qui hướng tới sự hoàn thành các ý
định cao cả và khôn dò của Thiên Chúa, trong đó mọi sự, kể cả các thất bại của
con người, đều dẫn tới lợi ích lớn hơn cho Hội Thánh”.[65]
85.
Tại một số nơi đã xuất hiện rõ một sự “sa mạc hoá” thiêng liêng, kết quả của
những cố gắng nơi một số xã hội muốn xây dựng mà không có Thiên Chúa, hay muốn
loại trừ mọi gốc rễ Kitô giáo của chúng. Tại những nơi ấy, “thế giới Kitô giáo
đang trở nên cằn cỗi và đang tự đánh mất mình giống như một mảnh đất bị khai
thác quá mức và biến thành sa mạc”.[66] Tại những nước khác, sự chống đối Kitô
giáo buộc các Kitô hữu phải che giấu đức tin của họ trên chính mảnh đất quê
hương họ. Đây là một loại sa mạc thương đau. Nhưng gia đình và nơi làm việc
cũng có thể là một nơi khô cằn mà dù sao đức tin vẫn phải được bảo tồn và
truyền thụ. Tuy nhiên, “xuất phát từ chính kinh nghiệm về sa mạc này, về sự
trống rỗng này, chúng ta có thể khám phá lại niềm vui đức tin, tầm quan trọng
sinh tử của đức tin đối với chúng ta, nam cũng như nữ. Trong sa mạc, chúng ta
khám phá lại giá trị của những gì thiết yếu cho cuộc sống; chẳng hạn, trong thế
giới hôm nay, có vô số những dấu chỉ, thường được biểu lộ một cách mặc nhiên
hay âm thầm, về sự khao khát Thiên Chúa, về ý nghĩa tối hậu của cuộc đời. Và
trong sa mạc, những người có đức tin là những người cần thiết để, bằng chính
gương sáng đời sống của họ, họ chỉ cho thấy con đường dẫn tới Đất Hứa và giữ
vững niềm hi vọng”.[67] Trong những hoàn cảnh này, chúng ta được kêu gọi làm
những mạch nước sự sống cho người khác có thể đến uống. Lắm khi nhiệm vụ này là
một cây thập giá nặng nề, nhưng chính từ thập giá, từ cạnh sườn bị đâm thâu của
Người, Đức Giêsu đã hiến mình cho chúng ta như một nguồn nước sự sống. Chúng ta
đừng để mình bị cướp mất niềm hi vọng!
Nói có
với các mối tương quan mới do Đức Kitô đem đến
87.
Ngày nay, khi các mạng và các phương tiện truyền thông đã đạt những bước tiến
bộ chưa từng có, chúng ta cảm nhận một thách thức phải tìm ra và chia sẻ một
‘khoa thần bí’ của việc sống chung với nhau, hoà mình và gặp gỡ, đón nhận và
nâng đỡ lẫn nhau, lao mình vào giòng thác này, giòng thác hỗn mang nhưng có thể
trở thành một trải nghiệm đích thực về tình huynh đệ, một giòng người thể hiện
tình liên đới, một cuộc hành hương thánh. Như thế những khả thể của truyền
thông càng lớn thì càng trở thành những khả thể lớn cho sự gặp gỡ và tình liên
đới với mọi người. Ra khỏi mình để hoà vào với người khác là điều tốt cho chúng
ta. Tự đóng kín mình là nếm cảm vị đắng độc hại của tính tự tại, và loài người
sẽ trở nên tổi tệ hơn vì mỗi một chọn lựa ích kỷ của chúng ta.
88. Lý
tưởng Kitô giáo sẽ luôn luôn là một lời kêu gọi khắc phục tính hoài nghi, thói
quen nghi kỵ lẫn nhau, sợ mất cái riêng tư của mình, tất cả những thái độ tự vệ
mà thế giới hôm nay áp đặt trên chúng ta. Nhiều người tìm cách trốn tránh người
khác và tìm ẩn náu nơi cái tiện nghi tư riêng của mình hay nơi một nhóm thân
hữu ít ỏi, từ chối quan điểm hiện thực về khía cạnh xã hội của Tin Mừng. Bởi vì
giống như một số người muốn có một Đức Kitô thuần tuý thiêng liêng, không xác
thể và không thập giá, họ cũng muốn các mối tương quan nhân vị của họ được cung
cấp bởi những thiết bị tinh vi, những màn hình và những hệ thống mà họ có thể
bật và tắt bằng lệnh. Trong khi đó, Tin Mừng không ngừng dạy chúng ta mạo hiểm
vào những cuộc gặp gỡ trực diện với người khác, với sự hiện diện thể chất của
họ vốn thách thức chúng ta, với nỗi đau và các lời kêu xin của họ, với niềm vui
của họ lan toả sang chúng ta trong mối tương tác gần gũi và liên tục. Lòng tin
đích thực vào Con Thiên Chúa nhập thể thì không thể tách rời khỏi sự tự hiến,
tư cách thành viên của cộng đoàn, sự phục vụ, sự hoà giải với người khác. Bằng
việc nhập thể, Con Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tới cuộc cách mạng của sự dịu
dàng.
89. Là
một hình thức của tính tự tại, thái độ cách ly có thể được biểu hiện bằng một
sự tự lập giả tạo, ở đó không có chỗ cho Thiên Chúa. Nhưng trong lãnh vực tôn
giáo, nó cũng có thể khoác bộ áo của một chủ nghĩa tiêu thụ thiêng liêng được
cắt cho vừa với chủ nghĩa cá nhân bệnh hoạn. Xu hướng trở về với cái thánh
thiêng và đi tìm đời sống thiêng liêng của thời đại chúng ta là một hiện tượng
mơ hồ. Ngày hôm nay, thách thức của chúng ta không phải là chủ nghĩa vô thần
cho bằng nhu cầu đáp ứng một cách thích hợp cơn khát Thiên Chúa của nhiều
người, kẻo họ tìm cách thoả mãn cơn khát này bằng các giải pháp sai lạc hay với
một Đức Kitô phi xác thể, một Đức Kitô không đòi hỏi chúng ta bất cứ điều gì
đối với tha nhân. Nếu những người này không tìm thấy trong Hội Thánh một sự
sống thiêng liêng có thể giúp chữa lành và giải thoát, và đổ đầy sự an bình vào
đời sống họ, đồng thời kêu gọi họ tới sự hiệp thông huynh đệ và hiệu năng
truyền giáo, thì rốt cuộc họ sẽ bị lôi kéo bởi những giải pháp không làm cho
đời sống họ thực sự là nhân bản, cũng không làm vinh danh Thiên Chúa.
90.
Các hình thức chân chính của lòng đạo bình dân là nhập thể, vì chúng được sinh
ra từ sự nhập thể của đức tin Kitô giáo trong văn hoá bình dân. Vì lý do này,
lòng đạo ấy bao gồm một mối quan hệ nhân bản, không phải với các thần lực hay
quyền năng thiêng liêng mơ hồ, nhưng với Thiên Chúa, với Đức
Kitô, với Đức Mẹ và các thánh. Các việc sùng đạo này có xác thể, có
một khuôn mặt. Chúng có khả năng nuôi dưỡng các mối quan hệ chứ không chỉ giúp
người ta trốn tránh. Tại các phần khác của xã hội chúng ta, chúng ta thấy ngày
càng tăng sức hấp dẫn của các hình thức khác nhau của một thứ “linh đạo phúc
lợi” cách ly với mọi đời sống cộng đồng, hay một thứ “thần học thịnh vượng”
không bao hàm trách nhiệm đối với các anh chị em chúng ta, hay những kinh
nghiệm phi cá thể mà thực chất chỉ là một hình thức qui về bản thân mình.
91.
Một thách thức quan trọng là cho thấy rằng giải pháp sẽ không bao giờ có trong
việc trốn tránh mối quan hệ cá nhân và gắn bó với Thiên Chúa, cũng là dấn thân
phục vụ tha nhân. Ngày nay thái độ trốn tránh này thường xảy ra khi các tín hữu
tìm cách xa tránh hay cách ly với người khác, hay âm thầm bỏ chỗ này sang chỗ
khác, bỏ công việc này sang một công việc khác, mà không tạo ra được những mối
liên hệ sâu xa và bền chặt ở bất cứ đâu. “Imaginatio locorum et mutatio
multos fefellit” (“Mơ đến những nơi khác nhau, bỏ chỗ này sang chỗ khác, đã
làm nhiều người lạc lối”).[68] Đây là một phương thuốc sai gây nguy hại cho tâm
hồn và đôi khi cho cả thân xác. Chúng ta cần giúp người khác hiểu rằng cách duy
nhất là học biết gặp gỡ người khác với thái độ đúng đắn, nghĩa là biết chấp
nhận họ làm bạn đồng hành mà không miễn cưỡng. Và học chịu đau khổ trong việc
ôm ấp thập giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh mỗi khi chúng ta bị chống đối một cách
bất công hay gặp phải sự vô ơn, không bao giờ mệt mỏi vì lựa chọn sống trong
tình huynh đệ.[69]
92.
Quả vậy, ở đó chúng ta tìm thấy sự chữa lành thực sự, vì cách chúng ta liên kết
với người khác có tác dụng chữa lành chứ không làm chúng ta yếu đi, nó là một
tình huynh đệ mầu nhiệm, một tình huynh đệ chiêm niệm. Nó là một tình thương
huynh đệ có khả năng nhìn thấy sự cao cả thánh thiêng của người khác, của việc
nhìn thấy Thiên Chúa nơi mọi người, của việc chấp nhận những phiền toái của
cuộc sống chung bằng cách gắn bó với tình yêu của Thiên Chúa, của việc mở lòng
ra cho tình thương của Thiên Chúa và tìm kiếm hạnh phúc của tha nhân theo gương
Cha chúng ta ở trên trời. Ở đây và bây giờ, đặc biệt ở những nơi chúng ta là
một “đoàn chiên nhỏ” (Lc 12:32), các môn đệ Chúa Kitô được kêu gọi sống như một
cộng đoàn là muối cho đời và ánh sáng cho trần gian (xem Mt 5:13-16). Chúng ta
được kêu gọi làm chứng cho một cách sống chung luôn luôn mới mẻ trong sự trung
thành với Tin Mừng.[70] Chúng ta đừng để mình bị cướp mất đời sống chung!
Nói
không với tính thế tục trong đời sống thiêng liêng
93.
Núp dưới dáng vẻ của lòng đạo đức và thậm chí lòng yêu đối với Hội Thánh, tính
thế tục thiêng liêng hệ tại việc không tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa mà là tìm
vinh quang loài người và sự thoả mãn của bản thân. Đó là điều Chúa mắng những
người Biệt Phái: “Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát
xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin?” (Ga 5:44). Đây là
một cách tinh vi để tìm “lợi ích cho riêng mình chứ không phải tìm lợi ích cho
Đức Giêsu Kitô” (Pl 2:21). Hành động này có nhiều hình thức tuỳ theo mỗi loại
người hay nhóm người mà nó ngấm vào.Vì nó dựa trên những vẻ bề ngoài được trau
chuốt cẩn thận, bề ngoài nó không có vẻ gì là tội lội; từ ngoài nhìn vào, mọi
sự đều nghiêm túc. Nhưng nếu nó ngấm vào Hội Thánh, “nó sẽ vô vàn tai hại hơn
bất cứ thái độ thế tục nào chỉ mang tính chất đạo đức”[71]
94.
Tính thế tục này có thể gia tăng bằng hai cách có liên hệ mật thiết với nhau.
Một là sự hấp dẫn của thuyết ngộ đạo, một đức tin thuần tuý chủ quan chỉ quan
tâm duy nhất tới một kinh nghiệm nào đó hay một tập hợp các ý niệm và các thông
tin có mục đích an ủi và soi sáng, nhưng rốt cuộc nó giam hãm một cá nhân trong
các tư tưởng và tình cảm của mình. Hai là thuyết tân-Pêlagiô mang tính tự phụ
của những người ỷ vào sức riêng của mình và coi mình hơn những người khác vì
biết được một số qui luật hoặc trung thành một cách cố chấp với một kiểu công
giáo đặc thù của quá khứ. Một sự đúng đắn được họ giả định về học thuyết hay kỷ
luật làm phát sinh một chủ nghĩa tinh tuý tự mãn và chuyên chế, theo đó người
ta phân tích xếp loại những người khác thay vì loan báo Tin Mừng,, và thay vì
mở cửa ân sủng ra, người ta tiêu hao sức lực vào việc tra xét và kiểm chứng.
Trong cả hai trường hợp, người ta không thực sự quan tâm tới Đức Kitô hay người
khác. Đây là những biểu hiện của một thái độ tự tại lấy con người làm trung
tâm. Không thể nghĩ rằng một động lực loan báo Tin Mừng đích thực có thể phát
sinh từ những hình thức biến chất này của Kitô giáo.
95.
Tính thế tục nguy hiểm này được thấy rõ trong một số thái độ có vẻ đối chọi
nhau nhưng tất cả đều mang một thái độ tự phụ muốn “giành quyền kiểm soát của
Hội Thánh”. Nơi một số người, chúng ta thấy một sự quan tâm phô trương đối với
phụng vụ, giáo lý hay uy tín của Hội Thánh, nhưng không hề lo cho Tin Mừng có
một tác động thực sự đối với các tín hữu và các nhu cầu cụ thể của thời đại.
Theo cách này, đời sống của Hội Thánh bị biến thành một cổ vật trong viện bảo
tàng hay một vật thuộc sở hữu của một nhóm ưu tú. Nơi những người khác, tính
thế tục này ẩn nấp bên dưới vẻ hào nhoáng của lợi lộc xã hội và chính trị, hay
dưới sự kiêu căng vì họ có khả năng xử lý các vấn đề thực tế, hay một sự say mê
đối với các chương trình tự lực và tự thể hiện mình. Tính thế tục cũng có thể
được biểu hiện bằng việc muốn được người khác để ý tới, xuất hiện với đủ vẻ
sang trọng trong đời sống xã hội, trong các buổi gặp gỡ, tiệc tùng và tiếp tân.
Nó cũng có thể dẫn tới một não trạng doanh nghiệp, luôn bận bịu với các công
việc quản lý, các vấn đề thống kê, kế hoạch và đánh giá mà lợi ích chính không
phải là dân Chúa mà là Giáo Hội được nhìn như là một tổ chức. Không hề có dấu
ấn của Đức Kitô nhập thể, chịu đóng đinh và phục sinh; các nhóm ưu tú khép kín
được hình thành, và không có cố gắng nào để đi ra bên ngoài tìm kiếm những
người còn xa cách hay đám quần chúng bao la đang khát Đức Kitô. Nhiệt huyết Tin
Mừng bị thay thế bằng sự hưởng thụ trống rỗng tính tự mãn và buông thả.
96.
Lối suy nghĩ này cũng nuôi dưỡng thói háo danh của những người có chút ít quyền
lực và thà làm tướng của một đạo quân thất trận hơn chỉ là người lính quèn vẫn
tiếp tục chiến đấu. Biết bao lần chúng ta mơ mộng những dự án tông đồ to tát,
được lên kế hoạch tỉ mỉ, không khác gì những ông tướng bại trận! Nhưng suy nghĩ
như thế là chối bỏ lịch sử của chúng ta như một Hội Thánh mà vinh quang của nó
chính là vì nó là một lịch sử của hi sinh, của hi vọng và các phấn đấu hằng
ngày, lịch sử của những cuộc đời tiêu hao vì phục vụ và trung thành với công
việc, dù có thể mệt mỏi, bởi vì mọi lao động đều là “mồ hôi nước mắt”. Ngược
lại, chúng ta phí phạm thời giờ để bàn luận về việc “cần phải làm gì”—tiếng Tây
Ban Nha gọi là tội “habria-queísmo”—giống như những thầy dạy linh đạo và
những chuyên gia mục vụ đứng trên bục cao để giảng dạy. Chúng ta để mình bị
cuốn theo những ảo mộng và mất tiếp xúc với những mảnh đời thực và những khó
khăn của dân chúng.
97.
Những người đã từng rơi vào thái độ thế tục này thường nhìn từ trên cao và từ
đàng xa, họ phủ nhận những lời tiên tri của các anh chị em của họ, họ coi nhẹ
tính khả tín của những ai đặt câu hỏi, họ không ngừng vạch lá tìm sâu và bị ám
ảnh bởi những vẻ bề ngoài. Tâm hồn họ chỉ mở ra với chân trời hạn hẹp của tính
tự tại và tư lợi của họ, và hậu quả là họ chẳng học được gì từ những tội lỗi
của họ hay thực sự muốn đón nhận ơn tha thứ. Đây là một sự sa đoạ nguỵ trang
dưới lớp vỏ của một điều thiện. Chúng ta cần tránh nó bằng cách làm cho Hội
Thánh luôn luôn ra khỏi chính mình, qui hướng việc truyền giáo của mình vào Đức
Kitô, và dấn thân cho người nghèo. Xin Chúa cứu chúng ta khỏi một Hội Thánh thế
tục với những cạm bẫy của hoạt động thiêng liêng và mục vụ bề ngoài! Tính thế
tục ngột ngạt này chỉ có thể được chữa lành bằng việc hít thở không khí trong
lành của Chúa Thánh Thần, Đấng giải thoát chúng ta khỏi tính vị kỷ trong bộ áo
đạo đức bề ngoài mà không có Thiên Chúa. Chúng ta đừng để mình bị cướp mất Tin
Mừng!
Nói
không với việc tranh chấp lẫn nhau
98.
Biết bao cuộc chiến diễn ra trong nội bộ Dân Chúa và trong các cộng đồng của
chúng ta! Trong khu vực sinh sống và nơi làm việc của chúng ta, biết bao cuộc
chiến xảy ra do ghen ghét và đố kỵ, ngay cả giữa những người Kitô hữu với nhau!
Tính thế tục thiêng liêng khiến người Kitô hữu gây chiến với những người Kitô
hữu khác cản trở con đường tìm kiếm quyền lực, uy tín, thú vui và an toàn kinh
tế. Một số thậm chí không còn bằng lòng sống như một phần tử của cộng đồng Hội
Thánh rộng lớn hơn nhưng phát triển một tinh thần loại trừ, tạo ra một “phe
nhóm nội bộ”. Thay vì thuộc về một Hội Thánh toàn thể trong tất cả sự đa dạng,
họ thuộc về nhóm này hay nhóm nọ, nghĩ rằng mình thì khác hay đặc biệt.
99.
Thế giới chúng ta đang bị xâu xé bởi chiến tranh và bạo lực, và bị thương tổn
vì một chủ nghĩa cá nhân lan rộng chia rẽ người ta với nhau, khiến họ chống đối
lẫn nhau khi đi tìm lợi ích riêng của mình. Tại nhiều nước, các xung đột và các
mối chia rẽ cũ trong quá khứ nay xuất hiện trở lại. Tôi đặc biệt xin các Kitô
hữu trong các cộng đồng trên khắp thế giới cống hiến một chứng tá rực sáng và
hấp dẫn về tình hiệp thông huynh đệ. Hãy làm cho mọi người thán phục vì anh chị
em chăm lo cho nhau, khích lệ và nâng đỡ lẫn nhau: “Ở điểm này, mọi người sẽ
nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga
13:35). Đây là lời cầu nguyện cảm động của Đức Giêsu: “Xin cho tất cả nên
một... trong chúng ta... để thế gian tin...” (Ga 17:21). Hãy cảnh giác trýớc
cám dỗ của sự ðố kỵ! Tất cả chúng ta cùng trên một con thuyền hýớng về cùng một
bến bờ! Chúng ta hãy xin ơn vui mừng vì các ân điển của mỗi người, chúng thuộc
về mọi người.
100.
Những người bị tổn thương vì các mối chia rẽ trong lịch sử thường cảm thấy khó
chấp nhận lời mời gọi tha thứ và hoà giải của chúng ta, vì họ nghĩ chúng ta làm
ngơ trước đau khổ của họ và muốn họ từ bỏ ký ức và các lý tưởng của họ. Nhưng
nếu họ thấy chứng tá của các cộng đoàn có tình huynh đệ và hoà giải thực sự, họ
sẽ thấy rằng chứng tá ấy sáng ngời và hấp dẫn. Tôi rất đau lòng khi thấy một số
cộng đoàn Kitô hữu, thậm chí cả những người thánh hiến, có thể dung dưỡng những
hình thức thù nghịch, chia rẽ, vu khống, nói xấu, oán thù, đố kỵ và ước muốn áp
đặt một số ý tưởng bằng bất cứ giá nào, thậm chí bằng các hành động bách hại
giống như những cuộc săn lùng phù thuỷ thực sự. Chúng ta sẽ rao giảng Tin Mừng
cho ai nếu chúng ta hành động theo cách này?
101.
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu luật yêu thương. Tốt biết bao khi có
luật này! Ích lợi biết bao vì nó làm chúng ta thương yêu nhau, bất chấp tất cả.
Phải, bất chấp tất cả. Lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô nhắm vào mỗi người chúng
ta: “Ðừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm
12:21). Và một lời nữa: “Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí” (Gl 6:9).
Tất cả chúng ta đều có những cái ưa cái ghét, và có lẽ ngay lúc này chúng ta
đang tức giận với một ai đó. Ít ra chúng ta hãy thưa cùng Chúa: “Chúa ơi, con
đang giận người này, người kia. Con cầu nguyện cùng Chúa cho ông ấy, bà ấy”.
Cầu nguyện cho một người mà ta tức giận là một bước rất đẹp tiến tới tình yêu,
và là một hành vi loan báo Tin Mừng. Chúng ta hãy làm điều đó hôm nay! Chúng ta
đừng để mình bị cướp mát lý tưởng tình yêu huynh đệ!
Các
thách thức khác cho Hội Thánh
102.
Giáo dân rõ ràng là thành phần ðại ða số của Dân Chúa. Thành phần thiểu số—các
thừa tác viên có chức thánh—là ðể phục vụ giáo dân. Ngày càng có một sự ý thức
nhiều hơn về căn tính và sứ mạng của giáo dân trong Hội Thánh. Chúng ta có thể
cậy dựa vào nhiều giáo dân, tuy hầu như vẫn chưa đủ, là những người có một ý
thức cộng đoàn sâu xa và một sự trung thành lớn lao đối với các công việc bác
ái, dạy giáo lý và cổ vũ đức tin. Nhưng đồng thời, không phải ở mọi nơi đều có
một sự ý thức rõ ràng về trách nhiệm này của giáo dân, ăn rễ sâu trong phép rửa
tội và thêm sức của họ như thế. Trong một số trường hợp, lý do là vì người giáo
dân đã không được cung cấp một sự đào luyện cần thiết để đảm đương những trách
nhiệm quan trọng. Trong những trường hợp khác, lý do là vì trong các giáo hội
địa phương của họ, người ta đã không dành chỗ để họ lên tiếng và hành động, do
một chủ trương giáo sĩ trị thái quá khiến họ không được tham gia vào việc làm
các quyết định. Dù rằng nhiều người nay đã tham gia vào các thừa tác vụ giáo
dân, sự tham gia này không phản ánh một sự xâm nhập sâu xa hơn các giá trị Kitô
giáo vào các lãnh vực xã hội, kinh tế và chính trị. Nó thường vẫn chỉ bó gọn
vào các công việc trong nội bộ Hội Thánh, mà không có một sự dấn thân thực sự
để đem Tin Mừng làm biến đổi xã hội. Sự đào luyện của giáo dân và việc phúc âm
hoá đời sống nghề nghiệp và tri thức là một thách thức mục vụ quan trọng.
103.
Hội Thánh nhìn nhận sự đóng góp không thể thiếu của phụ nữ cho xã hội nhờ sự
nhậy cảm, trực giác và các năng khiếu đặc trưng mà họ có, nhiều hơn đàn ông.
Tôi nghĩ, ví dụ như phụ nữ thường có mối quan tâm đặc biệt đối với những người
khác, được biểu hiện cách đặc biệt, tuy không phải là biểu hiện duy nhất, trong
tình mẫu tử. Tôi vui mừng nhìn nhận rằng các phụ nữ đang chia sẻ trách nhiệm
với các linh mục, giúp họ hướng dẫn dân chúng, các gia đình và các nhóm, và có
nhiều đóng góp mới cho suy tư thần học. Nhưng chúng ta cần tạo ra nhiều cơ hội
hơn nữa để có sự tham gia nhiều hơn của phụ nữ trong Hội Thánh. Bởi vì “tài
năng thiên phú của nữ giới là cần thiết trong mọi biểu hiện trong đời sống xã hội,
sự hiện diện của phụ nữ cũng phải được bảo đảm tại nơi làm việc”[72] và trong
các khung cảnh khác nhau trong đó các quyết định được đề ra, cả trong Hội Thánh
và trong các cơ cấu xã hội.
104.
Các đòi hỏi rằng các quyền hợp pháp của phụ nữ phải được tôn trọng, dựa trên sự
xác tín vững vàng rằng người nam và người nữ bình đẳng với nhau về phẩm giá,
đang đặt ra cho Hội Thánh những vấn đề sâu xa và thách thức mà chúng ta không
thể coi nhẹ và lẩn tránh. Việc chức linh mục được dành riêng cho nam giới, như
một dấu chỉ Đức Kitô là Phu Quân hiến mình trong bí tích Thánh Thể, là vấn đề
không thể bàn cãi, nhưng nó có thể tỏ ra gây chia rẽ đặc biệt nếu quyền năng
của bí tích bị đồng hoá với quyền năng nói chung. Phải nhớ rằng khi nói về
quyền năng bí tích “chúng ta đang ở trong lãnh vực chức năng hoạt động, chứ
không phải lãnh vực phẩm giá hay sự thánh thiện”.[73] Chức tư tế thừa tác là
phương tiện Chúa Giêsu dùng để phục vụ dân Ngài, nhưng phẩm giá cao cả của
chúng ta bắt nguồn từ phép rửa tội mà mọi người có thể lãnh nhận. Việc đồng hoá
người linh mục với Đức Kitô là đầu—nghĩa là nguồn mạch chính của ân sủng—không
có nghĩa là đặt người linh mục lên trên những người khác. Trong Hội Thánh, các
chức vụ “không đặt một số người lên địa vị cao hơn những người khác”.[74] Trên
thực tế, Đức Maria là một phụ nữ nhưng quan trọng hơn các giám mục. Thậm chí
khi chức năng của chức linh mục thừa tác được coi là thuộc “phẩm trật”, ta vẫn
phải nhớ rằng “nó hoàn toàn được qui hướng về sự thánh thiện của các chi thể
của Đức Kitô”.[75] Chìa khoá và trục của chức năng này không phải là quyền lực
hiểu như là sự thống trị, nhưng là quyền lực để cử hành bí tích Thánh Thể; đây
là nguồn gốc quyền bính của chức linh mục, đó luôn luôn là một sự phục vụ Dân
Chúa. Hiểu như thế, đây là một thách thức lớn cho các mục tử và các nhà thần
học, những người có điều kiện thích hợp để nhận ra đầy đủ hơn điều này bao gồm
những yếu tố gì liên quan tới vai trò mà người phụ nữ có thể đóng trong việc
làm các quyết định trong các lãnh vực khác nhau của đời sống Hội Thánh.
105.
Thừa tác vụ giới trẻ, như được tổ chức theo truyền thống, cũng đã chịu tác động
bởi các thay đổi xã hội. Giới trẻ thường không thể tìm thấy những giải đáp cho
các mối quan tâm, nhu cầu, vấn đề và các thương tổn của họ trong các cơ cấu
bình thường. Là người lớn, chúng ta cảm thấy khó kiên nhẫn lắng nghe họ, trân
trọng các mối quan tâm và đòi hỏi của họ, và nói với họ bằng một ngôn ngữ họ có
thể hiểu. Cùng một lý do ấy, các cố gắng của chúng ta trong lãnh vực giáo dục
không tạo ra những kết quả mong muốn. Sự xuất hiện và phát triển của các hiệp
hội và các phong trào mà đa phần là giới trẻ có thể được nhìn như là công trình
của Chúa Thánh Thần, Đấng mở ra những lối đi mới để đáp ứng các mong đợi của họ
và cuộc tìm kiếm một đời sống thiêng liêng sâu xa và một ý thức thực tế hơn về
tư cách thuộc về. Tuy nhiên vẫn cần bảo đảm rằng các hiệp hội này tham gia một
cách tích cực vào các cố gắng mục vụ toàn thể của Hội Thánh.[76]
106.
Mặc dù không phải luôn luôn dễ tiếp cận giới trẻ, nhưng chúng ta đã có tiến bộ
trong hai lãnh vực: sự ý thức mà toàn thể cộng đồng được kêu gọi loan báo Tin
Mừng và giáo dục cho giới trẻ, và nhu cầu cấp bách để giới trẻ thực thi vai trò
lãnh đạo nhiều hơn. Chúng ta phải nhìn nhận rằng bất chấp cơn khủng hoảng hiện
nay về dấn thân và các mối quan hệ cộng đồng, nhiều người trẻ đang chia sẻ mối
quan tâm chung về các vấn đề của thế giới chúng ta và đang thực hiện những hình
thức khác nhau trong việc cổ động tích cực và hoạt động tình nguyện.
107.
Nhiều nơi đang trải qua một tình trạng thiếu ơn gọi linh mục và tu sĩ. Đây
thường là do thiếu một nhiệt tình tông đồ có sức lan toả trong các cộng đồng,
dẫn đến sự nguội lạnh của niềm phấn khởi và sức hấp dẫn. Ở đâu có sự sống,
nhiệt tình và ước muốn đem Đức Kitô đến cho người khác, ở đó sẽ xuất hiện các
ơn gọi đích thực. Thậm chí tại những giáo xứ mà các linh mục không đặc biệt dấn
thân và vui vẻ, đời sống huynh đệ và nhiệt tình của cộng đồng có thể đánh thức
nơi giới trẻ một ước muốn hiến mình hoàn toàn cho Thiên Chúa và cho việc rao
giảng Tin Mừng. Điều này đặc biệt đúng nếu một cộng đồng sinh động như thế liên
lỷ cầu nguyện cho các ơn gọi và can đảm đề nghị cho những người trẻ của mình
con đường thánh hiến đặc biệt. Mặt khác, bất chấp tình trạng thiếu ơn gọi, ngày
nay chúng ta ngày càng ý thức hơn về nhu cầu có một qui trình tuyển lựa các ứng
sinh cho chức linh mục. Các chủng viện không thể tiếp nhận các ứng sinh căn cứ
vào bất cứ động cơ nào, đặc biệt nếu các động cơ ấy liên quan tới sự an toàn
tình cảm hay sự theo đuổi quyền lực, danh vọng hay của cải.
108.
Như đã nói trên kia, tôi không có ý cung cấp một bản chẩn đoán đầy đủ, nhưng
tôi mời gọi các cộng đồng bổ sung và làm giàu những quan điểm này trên cơ sở ý
thức của họ về những thách thức đang đặt ra trước mặt họ và những người xung
quanh. Bằng cách này, tôi hi vọng họ sẽ nhận ra rằng mỗi khi đọc những dấu chỉ
của thời đại, chúng ta nên nghe ý kiến của những người trẻ và những người già.
Cả hai hạng người này là một nguồn hi vọng cho mọi người. Người già cống hiến
những ký ức và sự khôn ngoan của kinh nghiệm để cảnh giác chúng ta tránh lặp
lại những lỗi lầm của chúng ta trong quá khứ. Người trẻ kêu gọi chúng ta đổi
mới và mở rộng niềm hi vọng, vì họ biểu thị những hướng đi mới cho loài người
và mời gọi chúng ta hướng tới tương lai, để chúng ta khỏi bám víu vào một sự
tiếc nuối những cơ cấu và những tập quán cũ không còn đem lại sức sống cho thế
giới hôm nay.
109.
Các thách thức xuất hiện là để bị vượt qua! Chúng ta hãy là những con người
thực tế, nhưng không để mất niềm vui, sự táo bạo và sự dấn thân trong hi vọng
tràn trề của chúng ta. Đừng để mình bị cướp mất nhuệ khí truyền giáo.
CHƯƠNG BA
RAO
GIẢNG TIN MỪNG
110.
Sau khi đã xem xét một số thách thức ngày nay, giờ đây tôi muốn nói đến nhiệm
vụ của chúng ta ở mọi thời và mọi nơi, bởi vì “không thể có phúc âm hoá thực sự
nếu không rao giảng một cách minh nhiên Đức Giêsu là Chúa”, và nếu không “đặt
việc rao giảng Đức Giêsu Kitô lên hàng đầu trong mọi hoạt động loan báo
tm”.[77] Khi nhìn nhận các mối quan tâm của các giám mục Châu Á, Đức Gioan
Phaolô II đã nói với họ rằng nếu Hội Thánh “muốn hoàn thành vận mệnh Chúa đã
quan phòng cho mình, loan báo Tin Mừng như là sự rao giảng hân hoan, kiên nhẫn
và tiệm tiến về cái chết và sự phục sinh cứu độ của Đức Giêsu Kitô phải là ưu
tiên tuyệt đối của anh em.”[78] Những lời này có giá trị cho tất cả chúng
ta.
I. TOÀN THỂ DÂN CHÚA RAO GIẢNG TIN MỪNG
111.
Loan báo Tin Mừng là nhiệm vụ của Hội Thánh. Là tác nhân rao giảng Tin Mừng,
Hội Thánh không chỉ là một tổ chức có hệ thống và phẩm trật; Hội Thánh trước
hết và trên hết là một dân tộc đang trên đường lữ hành tiến về Thiên Chúa. Hội
Thánh chắc chắn là một mầu nhiệm ăn rễ sâu trong Ba Ngôi,
nhưng Hội Thánh tồn tại một cách cụ thể trong lịch sử như một dân tộc lữ hành
và như là những người loan báo Tin Mừng, vượt lên trên mọi hình thức tổ chức,
dù điều này cũng cần thiết. Tôi muốn vắn tắt bàn đến cách hiểu này về Hội Thánh
mà nền tảng tối hậu là ở sáng kiến tự do và yêu thương của Thiên Chúa.
Một
dân tộc cho mọi người
112.
Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là công trình của lòng từ bi của
Người. Không một cố gắng nhân loại nào, dù tốt đến đâu, có thể làm chúng ta
xứng đáng được một hồng ân như thế. Bằng ân sủng độc đáo của Người, Thiên Chúa
kéo chúng ta lại với Người và làm chúng ta nên một với Người.[79] Người sai
Thần Khí Người đến với tâm hồn chúng ta để làm chúng ta trở nên con cái Người,
biến đổi chúng ta và giúp chúng ta có thể đáp lại tình thương của Người bằng
đời sống chúng ta. Hội Thánh được Đức Kitô Giêsu sai đến như là bí tích cứu độ
của Thiên Chúa.[80] Qua hoạt động loan báo Tin Mừng, Hội Thánh hợp tác như một
công cụ của ân sủng Thiên Chúa hoạt động không ngừng và không thể dò thấu. Đức
Bênêđictô XVI trước khi khai mạc Thượng Hội Đồng: “Điều luôn luôn quan trọng là
biết rằng lời đầu tiên, sáng kiến thực sự, hoạt động thực sự đến từ Thiên Chúa
và chỉ khi chúng ta đưa mình vào trong sáng kiến của Thiên Chúa, chỉ khi nài
xin sáng kiến này, chúng ta mới có thể, với Người và trong Người, trở thành
những người loan báo Tin Mừng”.[81] Nguyên tắc địa vị tối thượng của ân
sủng này phải là ngọn hải đăng không ngừng soi sáng các suy tư của
chúng ta về việc loan báo Tin Mừng.
113.
Sự cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện và Hội Thánh vui mừng loan báo là ơn được
dành cho hết mọi người.[82] Thiên Chúa đã tìm ra một cách để kết hợp với mọi
con người trong mọi thời đại. Người đã quyết định kêu gọi họ trong tư cách một
dân tộc chứ không phải từng cá nhân riêng lẻ.[83] Không ai được cứu rỗi một
mình hay nhờ cố gắng riêng của mình. Thiên Chúa thu hút chúng ta bằng cách lưu
ý tới các mối quan hệ nhân vị đan xen với nhau và phức tạp trong đời sống của
một cộng đồng con người. Dân tộc được Chúa chọn và gọi này chính là Hội Thánh.
Đức Giêsu không bảo các môn đệ hợp thành một nhóm ưu tú và độc quyền. Ngài nói:
“Không có chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, ... vì tất cả anh em chỉ là một
trong Ðức Kitô” (Gl 3:28). Với những ai cảm thấy xa cách Thiên Chúa và Hội
Thánh, với tất cả những ai sợ hãi hay dửng dưng, tôi muốn nói thế này: với đầy
lòng tôn trọng và yêu thương, Chúa cũng đang kêu gọi anh chị em trở thành dân
của Người!
114.
Là Hội Thánh có nghĩa là dân của Thiên Chúa, theo kế hoạch tình yêu phụ tử vô
biên của Người. Nó có nghĩa là chúng ta phải là men của Thiên Chúa giữa loài
người. Nó có nghĩa là rao giảng và đem ơn cứu độ của Thiên Chúa vào thế giới,
một thế giới thường xuyên đi lạc và cần được khích lệ, cần được trao
ban hi vọng và bổ sức trên đường. Hội Thánh phải là một nơi tự do trao ban lòng
thương xót, nơi mà mọi người thấy mình được hoan nghênh, được yêu thương và
khích lệ để sống đời sống tốt lành của Tin Mừng.
Một
dân với nhiều khuôn mặt
115.
Dân Thiên Chúa được nhập thể giữa các dân tộc trên thế giới, mỗi dân tộc với
nền văn hoá riêng của mình. Khái niệm văn hoá có giá trị cho việc nắm bắt được
những biểu hiện khác nhau của đời sống Kitô giáo hiện nay trong dân Thiên Chúa.
Nó liên quan tới phong cách sống của một xã hội nhất định, cách thức cụ thể mà
các thành viên của xã hội này quan hệ với nhau, với các tạo vật khác và với
Thiên Chúa. Hiểu theo cách này, văn hoá bao hàm toàn bộ đời sống của một dân
tộc.[84] Mỗi dân tộc trong dòng lịch sử của mình đều phát triển văn hoá của
mình với sự độc lập hợp pháp.[85] Sở dĩ như thế là vì con người, “tự bản chất
hoàn toàn cần đến đời sống trong xã hội”[86] và luôn luôn tồn tại trong tương
quan với xã hội, và tìm được ở xã hội một cách thức cụ thể để liên hệ với thực
tại. Con người luôn luôn được đặt trong một nền văn hoá: “bản tính và văn hoá
liên hệ mật thiết với nhau”.[87] Ân sủng đòi hỏi văn hoá, và ân huệ của Thiên Chúa
được nhập thể trong nền văn hoá của những ai đón nhận ân huệ ấy.
116.
Trong hai thiên niên kỷ đầu này của Kitô giáo, vô số dân tộc đã đón nhận ơn đức
tin, phát huy nó trong đời sống hằng ngày của mình và truyền lại cho các thế hệ
sau bằng ngôn ngữ của nền văn hoá riêng của họ. Mỗi khi một cộng đồng đón nhận
sứ điệp cứu độ, Chúa Thánh Thần làm giàu nền văn hoá của cộng đồng ấy bằng
quyền năng biến đổi của Tin Mừng. Lịch sử Hội Thánh cho thấy rằng Kitô giáo
không chỉ có một cách biểu hiện văn hoá duy nhất, nhưng “trong khi hoàn toàn
trung thực với mình, vững vàng trung thành với việc rao giảng Tin Mừng và
truyền thống của Hội Thánh, Kitô giáo cũng phản ánh những bộ mặt khác nhau của
các nền văn hoá và các dân tộc đã tiếp nhận nó và làm cho nó bén rễ”.[88] Trong
sự đa dạng của các dân tộc trải nghiệm ân huệ của Thiên Chúa, mỗi dân theo văn
hoá riêng của mình, Hội Thánh diễn tả tính công giáo đích thực của mình và phô
bày “vẻ đẹp của khuôn mặt đa dạng của mình”.[89] Nơi các tập tục của một dân
tộc đã được phúc âm hoá, Chúa Thánh Thần trang điểm Hội Thánh, chỉ cho Hội
Thánh thấy những khía cạnh mới của mặc khải và ban cho Hội Thánh một bộ mặt
mới. Qua hội nhập văn hoá, Hội Thánh “dẫn đưa các dân tộc, cùng với văn hoá của
họ, vào trong cộng đồng của chính Hội Thánh”,[90] vì “mỗi dẫn tộc cống hiến
những giá trị và những hình thức tích cực để làm phong phú cách thức mà Tin
Mừng được rao giảng, hiểu và sống”.[91] Bằng cách này, Hội Thánh đón nhận những
giá trị của các nền văn hoá khác nhau và trở thành sponsa ornata
monilibus suis, ‘cô dâu được trang điểm lộng lẫy’ (xem Is 61:10)”.[92]
117.
Khi được hiểu đúng, đa dạng văn hoá không phải là mối đe doạ cho sự hiệp nhất
của Hội Thánh. Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Cha và Chúa Con sai đến, biến
đổi lòng trí chúng ta và giúp chúng ta đi vào mối hiệp thông của Chúa Ba Ngôi,
ở đó mọi sự tìm được mối duy nhất của chúng. Ngài xây dựng sự hiệp thông và hoà
hợp của Dân Chúa. Cũng chính Thánh Thần là sự hoà hợp, cũng như Ngài là mối dây
yêu thương giữa Cha và Con.[93] Ngài là Đấng đem đến dồi dào các ân huệ khác
nhau, đồng thời tạo ra một sự hiệp nhất không đơn điệu nhưng muôn màu muôn vẻ
và mời gọi sự hoà hợp. Loan báo Tin Mừng vui sướng nhìn nhận các kho báu đa
dạng này mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ trên Hội Thánh. Chúng ta sẽ không công bằng
với cái lôgích của nhập thể nếu chúng ta nghĩ về Kitô giáo như là đơn văn hoá
và đơn điệu. Tuy đúng là một số nền văn hoá đã được liên kết mật thiết với việc
rao giảng Tin Mừng và sự phát triển tư tưởng Kitô giáo, nhưng sứ điệp mặc khải
không bị đồng hoá với bất cứ nền văn hoá nào; nội dung của sứ điệp mang tính
xuyên văn hoá. Thế nên trong việc loan báo Tin Mừng cho các nền văn hoá mới,
hay các nền văn hoá chưa tiếp nhận sứ điệp Kitô giáo, điều cơ bản không phải là
áp đặt cùng với Tin Mừng một hình thức văn hoá nhất định, dù nó đẹp hay lâu đời
bao nhiêu. Sứ điệp chúng ta rao giảng luôn luôn mang một bộ áo văn hoá nào đó,
nhưng trong Hội Thánh chúng ta đôi khi có thể rơi vào tình trạng sùng bái nền
văn hoá riêng của mình và vì thế tỏ ra có thái độ cuồng tín hơn là nhiệt tình
truyền giáo thực sự.
118.
Các Giám Mục vùng Châu Đại Dương đã xin Hội Thánh “phát triển một sự hiểu biết
và trình bày chân lý của Chúa Kitô đang hoạt động từ các truyền thống và các
nền văn hoá trong vùng” và mời gọi “mọi người truyền giáo hoạt động hoà hợp với
các Kitô hữu bản xứ để bảo đảm rằng đức tin và đời sống của Hội Thánh được diễn
tả bằng những hình thức hợp pháp và phù hợp với mỗi nền văn hoá”.[94] Chúng ta
không thể đòi các dân tộc của mỗi châu lục, khi diễn tả đức tin Kitô giáo của
mình, phải bắt chước các cách diễn tả mà các nước Châu Âu đã phát triển vào một
thời điểm nhất định trong lịch sử của họ, vì chúng ta không được phép bó gọn
đức tin vào trong những giới hạn về sự hiểu biết và cách diễn tả của một nền văn
hoá nào.[95] Điều không thể tranh cãi là không một nền văn hoá duy nhất nào có
thể diễn tả hết mầu nhiệm ơn cứu chuộc trong Đức Kitô.
Chúng
ta tất cả là những môn đệ truyền giáo
119.
Nơi tất cả những người đã rửa tội, từ người đầu tiên cho đến người cuối cùng,
sức mạnh thánh hoá của Chúa Thánh Thần luôn hoạt động và thúc đẩy chúng ta
truyền giáo. Dân Thiên Chúa là dân thánh nhờ sự xức dầu này của Chúa Thánh
Thần, làm cho nó không thể sai lầm in credendo, nghĩa là không thể
sai lầm trong đức tin, dù nó không thể tìm được những từ ngữ để cắt nghĩa đức
tin ấy. Thánh Thần hướng dẫn dân Chúa trong chân lý và dẫn dân Chúa đến ơn cứu
độ.[96] Để chia sẻ tình thương nhiệm mầu của mình, Thiên Chúa ban cho toàn thể
các tín hữu một bản năng đức tin—sensus fidei—là khả năng giúp họ
phân định rõ cái gì thực sự là của Thiên Chúa. Sự hiện diện của Thần Khí ban
cho người Kitô hữu một sự đồng bản tính nào đó với các thực tại của Thiên Chúa,
và một sự khôn ngoan giúp họ nắm bắt các thực tại ấy bằng trực giác, cả khi họ
không có đủ phương tiện cần thiết để diễn tả nó một cách chính xác.
120.
Do phép rửa tội, mọi thành viên của Dân Chúa phải trở nên những môn đệ truyền
giáo (xem Mt 28:19). Tất cả những ai đã được rửa tội, dù ở vị trí nào trong
Giáo Hội hay ở mức độ đào luyện nào về đức tin, cũng đều là những nhà truyền
giáo, và sẽ là bất cập nếu chỉ nghĩ đến một kế hoạch truyền giáo được thực hiện
bởi những nhà truyền giáo chuyên nghiệp trong khi số các tín hữu khác chỉ là
những người thụ hưởng thụ động. Tân phúc âm hoá đòi hỏi sự dấn thân thực sự của
từng cá nhân tín hữu. Mọi Kitô hữu được thách thức, ở đây và lúc này, tích cực
tham gia vào việc truyền giáo; thực vậy, bất cứ ai đã thực sự trải nghiệm tình
thương cứu độ của Thiên Chúa thì không cần nhiều thời gian hay một sự đào tạo
lâu để đi rao giảng tình thương ấy. Mọi Kitô hữu đều là người truyền giáo theo
mức độ họ đã gặp gỡ tình thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô: chúng ta
không còn nói mình là những “người môn đệ” và “người truyền giáo”, nhưng đúng
hơn, chúng ta luôn luôn là những “người môn đệ truyền giáo”. Nếu điều này chưa
thuyết phục, chúng ta hãy nhìn vào những môn đệ đầu tiên, vừa khi bắt gặp cái
nhìn của Đức Giêsu, các ông vui vẻ đi loan báo về Ngài: “Chúng tôi đã gặp Đấng
Mêsia!” (Ga 1:41). Người phụ nữ Samaria đã trở thành người truyền
giáo ngay sau khi nói chuyện với Đức Giêsu và nhiều người Samaria đã
tin Ngài “vì lời chứng của người phụ nữ” (Ga 4:39). Thánh Phaolô cũng vậy, sau
khi gặp Đức Giêsu, “lập tức đi rao giảng về Đức Giêsu” (Cv 9:20; xem 22:6-21). Vậy
chúng ta còn chờ gì nữa?
121.
Đương nhiên chúng ta được kêu gọi trưởng thành trong công việc của người loan
báo Tin Mừng. Chúng ta muốn có một sự đào luyện tốt hơn, một tình yêu sâu hơn
và một chứng tá Tin Mừng rõ hơn. Theo nghĩa này, chúng ta phải không ngừng để
cho người khác loan báo Tin Mừng cho chúng ta. Nhưng điều này không có nghĩa là
chúng ta phải trì hoãn sứ mạng loan báo Tin Mừng; đúng hơn, mỗi người chúng ta
phải tìm ra cách thức để thông truyền Đức Giêsu tại bất cứ nơi nào chúng ta
hiện diện. Tất cả chúng ta được kêu gọi làm chứng một cách minh nhiên về tình
thương cứu độ của Chúa, Đấng bất chấp những khiếm khuyết của chúng ta, vẫn cho
chúng ta đến gần Ngài, cho chúng ta lời và sức mạnh của Ngài, và đem đến ý
nghĩa cho đời sống chúng ta. Trong lòng mình, anh chị em biết rằng sống mà
không có Ngài thì không được như thế; những gì anh chị em đã nhận ra, những gì
đã giúp anh chị em sống và cho anh chị em niềm hi vọng, thì anh chị em cũng
phải thông truyền những điều ấy cho người khác. Sự khiếm khuyết của chúng ta
không thể là cái cớ để tránh né; trái lại, truyền giáo là một kích thích để
chúng ta không ở yên trong tình trạng tầm thường nhưng phải tiếp tục lớn lên.
Chứng tá đức tin mà mỗi người Kitô hữu được kêu gọi cống hiến khiến chúng ta có
thể nói cùng với Thánh Phaolô: “Không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn
thiện đâu; nhưng tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi
đã được đức Kitô Giêsu chiếm đoạt” (Pl 3:12-13).
Sức
mạnh truyền giáo của lòng đạo bình dân
122.
Cũng thế, chúng ta có thể thấy rằng các dân tộc khác nhau mà Tin Mừng đã được
hội nhập vào nền văn hoá của họ cũng là những chủ thể hay tác nhân tập thể tích
cực của việc truyền giáo. Lý do là vì mỗi dân tộc là người sáng tạo nền văn hoá
của mình và là vai chính của lịch sử của họ. Văn hoá là một thực tại năng động
mà một dân tộc không ngừng tái tạo; mỗi thế hệ truyền lại cho thế hệ sau cả một
chuỗi các cách tiếp cận các tình huống hiện sinh khác nhau, để cho thế hệ sau
tiếp tục định hình lại chúng khi đối diện với những thách thức riêng của mình.
Là người có nghĩa là “vừa là con vừa là cha của nền văn hoá của mình”.[97] Một
khi Tin Mừng đã được hội nhập vào văn hoá của một dân tộc, trong tiến trình
thông truyền văn hoá của họ, họ cũng thông truyền đức tin trong những hình thức
luôn luôn mới mẻ; vì vậy hiểu truyền giáo như là hội nhập văn hoá là điều quan
trọng. Bằng việc cụ thể hoá ân huệ Chúa ban trong chính cuộc sống mình và phù
hợp với tài năng riêng của mình, mỗi thành phần của dân Thiên Chúa làm chứng
cho đức tin mình đã lãnh nhận và làm làm giàu cho nó bằng những cách diễn tả
mới và có sức thuyết phục. Ta có thể nói rằng “một dân tộc không ngừng tự phúc
âm hoá chính mình”.[98] Ở đây ta thấy tầm quan trọng của lòng đạo bình dân, một
cách diễn tả đích thực về hoạt động truyền giáo tự phát của Dân Chúa. Đây là
một tiến trình đang phát triển liên tục mà Chúa Thánh Thần là tác nhân
chính.[99]
123.
Lòng đạo bình dân giúp chúng ta thấy rằng đức tin, sau khi được lãnh nhận, sẽ
hội nhập vào một nền văn hoá và không ngừng được truyền lại cho các thế hệ sau
như thế nào. Từng có thời bị coi thường, lòng đạo bình dân đã được đánh giá cao
trở lại trong những thập niên sau Công Đồng. Trong Tông Huấn Evangelii
Nuntiandi, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tạo một động lực quyết định trong
lãnh vực này. Trong Tông Huấn, Đức Giáo Hoàng nói rằng lòng đạo bình dân “biểu
lộ một lòng khao khát Thiên Chúa mà chỉ những kẻ đơn sơ và nghèo khó mới cảm
nhận được”[100] và “nó khiến người ta có thể quảng đại và hy sinh đến mức anh
hùng khi cần chứng tỏ đức tin”.[101] Gần chúng ta hơn, Đức Bênêđictô khi nói về
Châu Mỹ Latinh, đã vạch ra rằng lòng đạo bình dân là “một kho báu của Hội Thánh
Công Giáo”, ở đó “chúng ta thấy được tâm hồn của các dân tộc Mỹ Latinh”.[102]
124. Văn
Kiện Aparecida mô tả những sự phong phú mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào
lòng đạo bình dân qua sáng kiến tự do của Ngài. Tại châu lục thân yêu ấy, nơi
nhiều Kitô hữu bộc lộ đức tin qua lòng đạo bình dân, các giám mục cũng gọi nó
là “linh đạo bình dân” hay “khoa thần bí của dân chúng”.[103] Nó đúng là “một
linh đạo nhập thể trong văn hoá của những người thấp hèn”.[104] Và nó không
thiếu nội dung; đúng hơn, nó khám phá và diễn tả nội dung ấy bằng các biểu
tượng hơn là bằng lý luận của ngôn từ, và trong hành vi đức tin, nó nhấn mạnh vào credere
in Deum (“tin vào Thiên Chúa”) hơn là credere Deum (“tin
Thiên Chúa”).[105] Nó là một cách sống đức tin hợp lệ, một cách cảm nhận mình
là thành phần của Hội Thánh và biểu lộ tư cách người truyền giáo”;[106] nó mang
theo mình ơn gọi làm người truyền giáo, vượt ra khỏi bản thân mình để lên đường
hành hương: “Cùng lên đường tới các đền thánh và tham gia vào các cuộc biểu
dương lòng đạo bình dân, đồng thời đem theo con cái và mời gọi người khác cùng
đi, việc ấy tự nó là một cử chỉ loan báo Tin Mừng”.[107] Chúng ta đừng bóp
nghẹt hay tìm cách kiểm soát sức mạnh truyền giáo này!
125.
Để hiểu thực tại này, chúng ta cần tiếp cận nó bằng cái nhìn của người Mục Tử
Nhân Hậu, không xét đoán nhưng tìm cách yêu thương. Chỉ với bản tính đồng cảm
phát sinh từ tình yêu, chúng ta mới có thể đánh giá cao đời sống hướng thần (theological)
hiện tại trong lòng đạo của các dân tộc Kitô giáo, đặc biệt giữa những người
nghèo. Tôi nghĩ đến lòng tin kiên vững của các bà mẹ chăm sóc những đứa con
bệnh tật của họ, họ là những người rất yêu mến chuỗi mân côi dù có lẽ họ chỉ
biết sơ sài những điểm của Kinh Tin Kính; tôi cũng nghĩ đến niềm hi vọng trọn
vẹn được đổ vào một cây nến đốt lên trong nhà để cầu xin ơn trợ giúp của Đức
Mẹ, hay cái nhìn trìu mến hướng lên tượng Chúa Kitô chịu nạn. Không một ai yêu
mến dân thánh của Thiên Chúa mà có thể coi những hành động này chỉ là biểu hiện
của một cố gắng thuần tuý phàm trần trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Chúng là
biểu hiện của một đời sống hướng thần được nuôi dưỡng bởi tác động của Chúa
Thánh Thần, Đấng đã được đổ vào lòng chúng ta (xem Rm 5:5).
126.
Lòng đạo bình dân như là kết quả của Tin Mừng hội nhập trong văn hoá, là một
sức mạnh phúc âm hoá tích cực mà chúng ta không được coi nhẹ: nếu không, chúng
ta sẽ không thể nhận ra tác động của Chúa Thánh Thần. Trái lại, chúng ta được
kêu gọi cổ vũ và tăng cường lòng đạo bình dân để đi sâu vào tiến trình không
bao giờ kết thúc của hội nhập văn hoá. Các biểu hiện của lòng đạo bình dân dạy
chúng ta nhiều điều; với những ai có khả năng đọc được những biểu hiện này,
chúng là một locus theologicus (“cơ sở thần học”) mà chúng ta
phải chú ý, đặt biệt ở thời điểm chúng ta đang hướng về cuộc tân phúc âm hoá.
Tiếp
xúc người với người
127.
Ngày nay, khi Hội Thánh tìm kiếm các trải nghiệm về một cuộc canh tân truyền
giáo sâu xa, có một loại rao giảng mà mỗi người chúng ta phải coi như một bồn
phạn hằng ngày. Nó liên quan tới việc đem Tin Mừng tới những người chúng ta gặp
gỡ, dù họ là những người lân cận hay hoàn toàn xa lạ với chúng ta. Đây là việc
rao giảng không chính thức diễn ra trong một cuộc trò chuyện, giống như kiểu
các thừa sai thường làm khi thăm viếng các gia đình. Là môn đệ có nghĩa là luôn
luôn sẵn sàng đem tình thương của Đức Giêsu đến với người khác, và điều này có
thể xảy ra một cách bất ngờ và ở bất cứ đâu: trên đường phố, trong một công
viên thành phố, khi làm việc, lúc đi đường.
128.
Trong kiểu rao giảng này, vốn luôn luôn phải kính trọng và dịu dàng, bước đầu
tiên là một cuộc đối thoại cá nhân, khi người kia nói và chia sẻ các niềm vui,
hi vọng và quan tâm của họ đối với những người thân, hay vô số các nhu cầu
thiết thân nhất. Chỉ sau đó chúng ta mới có thể đưa lời Chúa vào, có thể bằng
cách đọc một câu Kinh Thánh hay kể một câu truyện, nhưng luôn luôn để tâm tới
sứ điệp cơ bản: tình thương của Thiên Chúa làm người, Đấng hiến mình cho chúng
ta, Đấng đang sống và ban cho ta ơn cứu độ và tình bằng hữu của Ngài. Sứ điệp
này phải được chia sẻ với thái độ khiêm tốn để cho thấy chúng ta làm chứng
trong tư cách của một người luôn luôn muốn học hỏi, vì biết rằng sứ điệp quá
phong phú và quá sâu khiến nó luôn luôn vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta. Sứ
điệp có thể được trình bày khi thì trực tiếp, khi thì bằng một chứng từ hay
điệu bộ cá nhân, hay bằng bất cứ cách nào mà Chúa Thánh Thần có thể soi sáng
chúng ta trong tình huống cụ thể ấy. Tuỳ sự thận trọng và hoàn cảnh cho phép,
việc gặp gỡ huynh đệ và truyền giáo này có thể kết thúc bằng một kinh nguyện
vắn liên quan tới các mối quan tâm mà người đối thoại có thể đã bày tỏ. Bằng
cách này họ sẽ cảm nghiệm rằng họ đã được lắng nghe và cảm thông; họ sẽ biết
rằng tình huống cụ thể của họ đã được đặt ra trước mặt Thiên Chúa, và tin rằng
lời của Thiên Chúa thực sự nói với cuộc đời họ.
129.
Tuy nhiên chúng ta không được nghĩ rằng sứ điệp Tin Mừng phải luôn luôn được
trình bày bằng những công thức có sẵn mà chúng ta đã học thuộc lòng hay bằng
những lời đặc biệt nào diễn tả một nội dung tuyệt đối không thể thay đổi. Việc
truyền thông này diễn ra bằng rất nhiều cách thức khác nhau khiến chúng ta
không thể mô tả hay liệt kê ra tất cả, và dân Thiên Chúa, với vô số cử chỉ và
dấu hiệu, chính là chủ thể tập thể của việc truyền thông này.
Nếu
Tin Mừng được hội nhập trong một nền văn hoá, sứ điệp không còn chỉ được truyền
đạt từ người sang người. Tại các nước mà Kitô giáo chỉ là một thiểu số, thì
cùng với việc khuyến khích mỗi người đã rửa tội rao giảng Tin Mừng, các Giáo
Hội địa phương cũng phải tích cực cổ xuý ít là các hình thức sơ đẳng của việc
hội nhập văn hoá. Mục tiêu cuối cùng phải là làm sao cho Tin Mừng, như được
giảng bằng các phạm trù phù hợp với mỗi nền văn hoá, có thể tạo ra một tổng hợp
mới với nền văn hoá cụ thể ấy. Đây luôn luôn là một tiến trình chậm chạp khiến
chúng ta có thể rất sợ. Nhưng nếu chúng ta để cho những mối hoài nghi và lo sợ
làm nhụt nhuệ khí của mình, thì thay vì tỏ ra sáng tạo, chúng ta sẽ tiếp tục ở
yên trong an nhàn và không có tiến bộ gì cả. Trong trường hợp này, chúng ta sẽ
không góp phần tích cực vào các tiến trình lịch sử, nhưng trở thành những người
bàng quan trong khi Hội Thánh ngày càng trì trệ hơn.
Các
đặc sủng phục vụ một sự hiệp thông truyền giáo
130.
Chúa Thánh Thần cũng làm phong phú toàn thể Hội Thánh truyền giáo bằng các đặc
sủng khác nhau. Các ân huệ này có mục đích canh tân và xây dựng Hội Thánh.[108]
Các đặc sủng không phải là một di vật được cất giữ an toàn và được uỷ thác cho
một nhóm nhỏ để cất giữ; đúng hơn, chúng là những ân huệ được Chúa Thánh Thần
tháp nhập vào thân thể Hội Thánh, được kéo về trung tâm là Đức Kitô và rồi được
truyền vào đồng lực truyền giáo. Một dấu hiệu chắc chắn về đặc sủng đích thực
là đặc tính giáo hội của nó, khả năng nó kết hợp hài hoà vào đời sống của dân
thánh trung thành của Thiên Chúa vì lợi ích của mọi người. Một cái gì thực sự
mới mẻ do Chúa Thánh Thần ban cho không cần làm lu mờ các ân huệ và các đường
lối thiêng liêng khác để nó được cảm nhận rõ ràng. Một đặc sủng càng được qui
hướng nhiều về tâm điểm của Tin Mừng bao nhiêu thì việc thực thi đặc sủng ấy sẽ
càng có đặc tính Hội Thánh nhiều hơn. Chính trong sự hiệp thông, cả khi là một
sự hiệp thông đau đớn, mà một đặc sủng được coi là chân chính và hiệu quả một
cách nhiệm mầu. Trên cơ sở sự đáp lại của mình trước thách thức này, Hội Thánh
có thể là một mô hình cho hoà bình thế giới.
131.
Những khác biệt giữa các cá nhân và các cộng đồng đôi khi có thể gây ra tình
trạng khó chịu, nhưng Chúa Thánh Thần, Đấng là nguồn của sự đa dạng này, có thể
đem đến một điều gì tốt lành từ tất cả những khác biệt ấy, và biến nó thành một
phương tiện truyền giáo hấp dẫn. Sự khác biệt phải được hoà giải bằng ơn trợ
giúp của Chúa Thánh Thần; chỉ mình Ngài có thể khơi dậy sự đa dạng, đa nguyên
và phong phú, đồng thời đem lại sự duy nhất. Còn chúng ta, khi muốn sự khác
biệt, chúng ta thường trở nên đóng kín, loại trừ và gây chia rẽ; tương tự, khi
chúng ta cố gắng tạo sự duy nhất dựa trên các tính toán nhân loại của mình,
chúng ta lại đi đến chỗ áp đặt một sự đồng nhất đơn điệu. Tình trạng này không
có lợi cho việc truyền giáo của Hội Thánh.
Văn
hoá, tư tưởng và giáo dục
132.
Rao giảng sứ điệp Tin Mừng cho các nền văn hoá khác nhau cũng bao hàm việc rao
giảng Tin Mừng cho các lãnh vực nghề nghiệp, khoa học và học thuật. Đây là một
sự gặp gỡ giữa đức tin, lý trí và các khoa học nhằm phát triển các cách tiếp
cận và lý luận mới về vấn đề gọi là tính khả tín, một khoa hộ giáo sáng
tạo[109] có khả năng khuyến khích mọi người mở lòng ra nhiều hơn với Tin Mừng.
Khi một số phạm trù của lý trí và các khoa học được sử dụng cho việc rao giảng
sứ điệp, các phạm trù này trở thành những công cụ truyền giáo; nước được biến
đổi thành rượu. Bất cứ điều gì được đón nhận thì không chỉ được cứu chuộc, mà
còn trở thành một công cụ của Thần Khí để soi sáng và canh tân thế giới.
133.
Người truyền giáo tìm cách đến được với từng người, hay Tin Mừng được rao giảng
cho các nền văn hoá như một tổng thể, các việc này không đủ. Một khoa thần
học—không chỉ thần học mục vụ—trong đối thoại với các khoa học khác và các kinh
nghiệm của con người, là yếu tố quan trọng nhất để chúng ta thấy rõ cách nào là
tốt nhất để đem sứ điệp Tin Mừng đến với các bối cảnh và các nhóm văn hoá khác
nhau.[110] Trong sự dấn thân truyền giáo của mình, Hội Thánh trân trọng và
khuyến khích đặc sủng của các nhà thần học và các cố gắng học thuật của họ để
thăng tiến cuộc đối thoại với thế giới văn hoá và khoa học. Tôi kêu gọi các nhà
thần học thực thi việc phục vụ này như một thành phần của sứ mạng cứu độ của
Hội Thánh. Tuy nhiên, khi làm công việc này, họ phải luôn nhớ rằng Hội Thánh và
thần học hiện hữu là để loan báo Tin Mừng, và không được bằng lòng với một thứ
thần học bàn giấy.
134.
Các trường đại học là những môi trường nổi bật để diễn tả mạch lạc và phát
triển sự dấn thân truyền giáo này một cách liên ngành và tích hợp. Các trường
công giáo, vốn luôn cố gắng kết hợp công việc giáo dục với việc rao giảng Tin
Mừng một cách minh nhiên, là một nguồn lực quí giá nhất cho việc phúc âm hoá
văn hoá, kể cả trong các quốc gia và các thành phố mà hoàn cảnh thù nghịch ở đó
thách thức chúng ta phải có óc sáng tạo nhiều hơn trong việc tìm ra những
phương pháp thích hợp.[111]
II. BÀI GIẢNG
135.
Bây giờ chúng ta nhìn vào việc giảng trong phụng vụ mà các mục tử cần phải xem
xét nghiêm túc. Tôi sẽ bàn một cách đặc biệt, và thậm chí hơi tỉ mỉ, về bài
giảng và sự chuẩn bị bài giảng, vì có quá nhiều mối quan tâm đã được bày tỏ về
tác vụ quan trọng này và chúng ta không thể làm ngơ. Bài giảng là viên đá thử
để đánh giá sự gần gũi và khả năng truyền thông của người mục tử với dân chúng.
Chúng ta biết các tín hữu rất coi trọng bài giảng, và cả các tín hữu lẫn các
thừa tác viên có chức thánh đều khổ sở vì các bài giảng: giáo dân vì phải nghe
các bài giảng, còn các giáo sĩ vì phải giảng bài! Đây là trường hợp đáng buồn.
Bài giảng thực ra có thể là một trải nghiệm sâu đậm và vui sướng về Thần Khí,
một cuộc gặp gỡ đầy an ủi với lời Thiên Chúa, một nguồn mạch canh tân và tăng
trưởng thường xuyên.
136.
Chúng ta hãy lấy lại niềm tin tưởng nơi bài giảng, dựa trên xác tín rằng chính
Thiên Chúa tìm cách đến với người khác thông qua người giảng thuyết, và Ngài
bày tỏ quyền năng của Ngài qua ngôn ngữ nhân loại. Thánh Phaolô nói rất mạnh về
việc giảng dạy, vì lời Chúa muốn đến được với người khác thông qua lời của
chúng ta (xem Rm 10:14-17). Bằng lời của Ngài, Chúa đã chinh phục trái tim của
dân chúng: từ khắp nơi họ tuốn đến nghe Ngài (xem Mc 1:45); họ kinh ngạc về
những lời Ngài giảng (xem Mc 6:2), và họ cảm thấy Ngài nói với họ như một người
có uy quyền (xem Mc 1:27). Các tông đồ là những người đã được Đức Kitô chọn để
“ở với Ngài và được sai đi rao giảng” (Mc 3:14), các lời giảng của các ngài đã
đem mọi dân tộc vào trong lòng của Hội Thánh (xem Mt 16:15-20).
Bối
cảnh phụng vụ
137.
Nên nhớ rằng “việc rao giảng lời Chúa trong phụng vụ, đặc biệt trong cuộc tụ
họp Thánh Thể, không phải là thời gian suy niệm hay huấn giáo cho bằng một cuộc
đối thoại giữa Thiên Chúa và dân của Người, một cuộc đối thoại trong đó các
hành vi cứu độ vĩ đại được công bố và các đòi hỏi của giao ước được liên tục
nhắc lại”.[112] Bài giảng có tầm quan trọng đặc biệt vì bối cảnh Thánh Thể của
nó: nó vượt quá mọi hình thức huấn giáo vì là thời điểm tột đỉnh trong cuộc đối
thoại giữa Thiên Chúa với dân Người, và dẫn tới việc hiệp thông bí tích. Bài
giảng một lần nữa tiếp nối cuộc đối thoại mà Chúa đã thiết lập với dân Người.
Người giảng thuyết phải biết lòng cộng đoàn của mình, để biết chỗ nào ước muốn
của nó về Thiên Chúa đang sống động và cháy bỏng, cũng như chỗ nào mà cuộc đối
thoại ấy trước kia rất thân thương nay đã bị thui chột và cằn cỗi.
138.
Bài giảng không thể mang một hình thức giải trí giống như những bài giảng trên
các phương tiện đại chúng, nhưng bài giảng phải ban sức sống và ý nghĩa cho
cuộc cử hành. Nó là một thể loại đặc trưng, vì việc giảng dạy được đặt trong
khung cảnh một cuộc cử hành phụng vụ; thế nên bài giảng phải ngắn
và tránh mang dáng dấp của một bài diễn văn hay thuyết trình. Một giảng viên có
thể thu hút sự chú ý của người nghe trong suốt một giờ đồng hồ, nhưng lúc ấy
các lời giảng của họ trở thành quan trọng hơn việc cử hành đức tin. Nếu bài
giảng quá dài, nó sẽ ảnh hưởng tới hai yếu tố đặc trưng của cử hành phụng vụ:
sự cân bằng và nhịp độ. Khi bài giảng diễn ra trong bối cảnh phụng vụ, nó là
một phần của lễ hiến dâng lên Cha và là một trung gian cho ân sủng mà Đức Kitô
đã tuôn đổ trong cuộc cử hành. Bối cảnh này đòi hỏi việc giảng phải hướng dẫn
cộng đoàn và giảng viên tới một sự hiệp thông với Đức Kitô trong bí tích Thánh
Thể, để giúp họ thay đổi cuộc sống. Muốn được thế, các lời giảng của giảng viên
phải điều độ, để cho tâm điểm của sự chú ý Chúa, chứ không phải là thừa tác
viên của Chúa.
Như mẹ
nói chuyện với con
139.
Chúng ta đã nói rằng, nhờ Chúa Thánh Thần liên tục hoạt động trong tâm hồn, dân
Chúa không ngừng tự phúc âm hoá chính mình. Nguyên tắc này có hệ luỵ gì đối với
các giảng viên? Nó nhắc nhớ chúng ta rằng Hội Thánh là một người mẹ, và Hội
Thánh giảng giống như cách một người mẹ nói chuyện với con, bà biết con tin
rằng mẹ dạy gì cũng là vì lợi ích của nó, vì con cái biết rằng chúng được yêu.
Hơn nữa, một người mẹ tốt có thể nhận ra mọi sự mà Thiên Chúa đang làm nơi con
của bà, nên bà lắng nghe các mối quan tâm của chúng và học hỏi từ chúng. Tình
yêu thương ngự trị trong gia đình hướng dẫn mẹ và con trong câu truyện; khi trò
chuyện, mẹ và con cùng dạy và học, trải nghiệm sự sửa sai và tăng trưởng trong
cách đánh giá điều gì là tốt. Một điều tương tự cũng xảy ra trong bài giảng.
Cùng một Thần Khí gợi hứng cho các sách Tin Mừng và hành động trong Hội Thánh
cũng chính là Thần Khí soi sáng cho giảng viên để nghe đức tin của dân Chúa và
tìm cách thích hợp để giảng vào mỗi Thánh Lễ. Bài giảng Kitô giáo vì thế tìm được
nơi con tim của dân chúng và nền văn hoá của họ một nguồn nước sự sống, gúp
giảng viên biét phải nói gì và nói thế nào. Như tất cả chúng ta đều thích được
người khác nói với mình bằng tiếng mẹ đẻ của mình, thì cũng vậy, trong đức tin,
chúng ta thích được người khác nói với mình bằng “văn hoá mẹ” của chúng ta”,
bằng tiếng bản xứ của chúng ta (xem 2 Mcb 7:21, 27), và quả tim chúng ta sẵn
sàng nghe hơn. Ngôn ngữ này là một thứ âm nhạc khêu gợi sự khích lệ, sức mạnh
và niềm phấn khởi.
140.
Khung cảnh này, vừa từ mẫu vừa hội thánh, trong đó diễn ra cuộc đối thoại giữa
Chúa và dân của Người, phải được khuyến khích bởi sự gần gũi của giảng viên, sự
ấm áp của âm giọng, sự đơn sơ không phô trương trong cách nói, và sự vui vẻ
trong các điệu bộ của giảng viên. Cho dù bài giảng đôi khi có thể có phần tẻ
nhạt, nhưng nếu có tinh thần từ mẫu và hội thánh, nó sẽ luôn luôn hiệu quả,
giống như những lời khuyên bảo nhàm chán của một người mẹ, khi đến lúc, cũng
sinh hoa kết quả trong lòng các con của bà.
141.
Chúng ta không thể không thán phục những nguồn lực Chúa Giêsu đã dùng để nói
chuyện với dân của Ngài, để mặc khải mầu nhiệm của Ngài cho mọi người và lôi
cuốn những người dân bình thường bằng các giáo huấn và các đòi hỏi cao siêu của
Người. Tôi tin rằng bí quyết nằm ở cách Đức Giêsu nhìn dân chúng, thấy được bên
kia những yếu đuối lỗi lầm của họ: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh
em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12:32); Đức Giêsu giảng bằng
tinh thần ấy. Đầy hoan lạc trong Thánh Thần, Ngài ngợi khen Cha là Đấng đã lôi
kéo những kẻ bé mọn đến với Người: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi
khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những
điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Lc 10:21). Chúa thực sự vui
thích nói chuyện với dân của Ngài; người giảng thuyết cũng phải cố gắng thông
truyền cùng một niềm vui thích ấy cho các thính giả của mình.
Những
lời nói làm trái tim bừng cháy
142.
Đối thoại không chỉ là thông truyền một sự thật, nó phong phú hơn rất nhiều.
Đối thoại phát xuất từ sự vui thích khi nói và làm phong phú những ai biểu lộ
tình yêu của mình với nhau bằng lời nói. Sự phong phú này không nằm ở những sự
vật nhưng ở những người chia sẻ với nhau trong đối thoại. Một bài giảng mà chỉ
nhắm dạy đạo đức hay lý thuyết, hoặc biến thành một bài giảng về chú giải Kinh
Thánh, là đi lạc khỏi sự thông truyền đích thực từ trái tim đến trái tim diễn
ra trong bài giảng và mang một tính chất gần như bí tích: “Có đức tin là nhờ
nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Ðức Kitô” (Rm 10:17). Trong bài
giảng, chân-thiện-mỹ đi chung với nhau. Thay vì nói về các chân lý trừu tượng
và các kiểu lý luận khô khan, bài giảng truyền đạt vẻ đẹp của các hình ảnh đã
được Chúa dùng để khuyến khích người ta hành thiện. Ký ức của người tín hữu,
như của Đức Maria, phải đầy ắp những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện. Tâm hồn
các tín hữu, đang khi lớn lên trong niềm hi vọng từ việc vui vẻ thực thi tình
yêu mà mình đã nhận được, sẽ cảm nhận ra rằng từng lời của Kinh Thánh là một quà
tặng trước khi là một lời xin.
143.
Giảng với sự hội nhập văn hoá cần phải đối diện với thách thức là công bố một
tổng hợp, chứ không phải các ý tưởng hay các giá trị rời rạc. Tổng hợp của bạn
ở đâu thì lòng trí bạn ở đó. Sự khác biệt giữa những người có một tổng hợp sáng
suốt với những người chỉ có những ý tưởng rời rạc thì giống như sự khác biệt
giữa sự sốt sắng và sự nhàm chán. Người giảng có nhiệm vụ tuyệt vời nhưng khó
khăn là kết nối những trái tim yêu thương, trái tim của Chúa và của dân Người.
Đối thoại giữa Thiên Chúa với dân của Người kiện cường giao ước giữa họ và củng
cố tình bác ái. Trong bài giảng, lòng các tín hữu giữ thinh lặng để nghe Chúa
nói. Chúa và dân Người trực tiếp nói chuyện với nhau bằng vô vàn cách thức mà
không cần đến trung gian. Nhưng trong bài giảng, họ muốn có người làm trung
gian và bày tỏ tình cảm của mình sao cho sau bài giảng, mỗi người có thể quyết
định mình sẽ tiếp nối cuộc đối thoại theo cách nào mình thích. Tự bản chất, lời
là một phương tiện và cần phải có không chỉ là hai người đối thoại mà cũng cần
một người trung gian để trình bày lời đúng theo nghĩa của nó, với sự xác tín
rằng “chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Ðức Kitô Giêsu là
Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Ðức Giêsu” (2 Cr
4:5).
144.
Nói từ trái tim có nghĩa là trái tim chúng ta không chỉ phải bừng cháy, mà còn
phải được soi sáng bởi sự sung mãn của mặc khải và bởi con đường mà lời Chúa đã
đi qua trong trái tim của Hội Thánh và dân tộc trung thành của chúng ta trong
suốt lịch sử. Căn tính Kitô hữu của chúng ta, như là vòng tay Cha ôm ấp chúng
ta trong bí tích rửa tội, làm cho chúng ta, nhý những ðứa con hoang ðàng—và
những ðứa con cýng của Mẹ Maria— ao ýớc nhận ðýợc một vòng tay khác nữa, vòng
tay của Cha nhân từ đang đợi chúng ta trong vinh quang. Giúp dân chúng cảm nhận
rằng họ đang sống giữa hai vòng tay này là một nhiệm vụ khó khăn nhưng đẹp đẽ
của người rao giảng Tin Mừng.
III.
CHUẨN BỊ GIẢNG
145.
Chuẩn bị giảng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đòi chúng ta phải dành một
lượng thời gian dài cho việc học hỏi, cầu nguyện, suy tư và óc sáng tạo mục vụ.
Với tất cả tấm lòng trìu mến, tôi muốn dừng lại chốc lát để cung cấp một phương
pháp chuẩn bị bài giảng. Có thể có người cho những gợi ý này là đương nhiên ai
cũng biết, nhưng tôi nghĩ nói về chúng sẽ có ích để nhấn mạnh nhu cầu phải dành
thời gian chất lượng cho thừa tác vụ quí giá này. Một số mục tử lý luận rằng
một sự chuẩn bị như thế là không khả thi vì khối lượng công việc họ phải làm
quá nhiều; tuy nhiên, tôi muốn xin rằng mỗi tuần phải dành một phần thời gian
cá nhân và cộng đoàn đủ cho công việc này, dù có phải bớt xén thời gian của các
công việc quan trọng khác . Tin Chúa Thánh Thần Đấng hoạt động trong bài giảng
không phải là chỉ thụ động nhưng phải chủ động và sáng tạo. Nó đòi chúng ta
hiến mình và mọi khả năng của mình để làm công cụ (xem Rm 12:1) cho Chúa sử
dụng. Một người giảng thuyết không chuẩn bị thì không “có thần khí”; họ là
người bất lương và vô trách nhiệm đối với các ân huệ họ đã nhận.
Kính cẩn đối với sự thật
146.
Bước đầu tiên sau khi cầu nguyện với Chúa Thánh Thần là dồn tất cả sự chú ý vào
bản văn Kinh Thánh, vì nó phải là cơ sở cho bài giảng của chúng ta. Mỗi khi ta
dừng lại và tìm cách hiểu sứ điệp của một bản văn cụ thể là ta đang thực hành
“lòng kính trọng sự thật”.[113] Đây là sự khiêm tốn của con tim nhìn nhận rằng
lời luôn luôn vượt quá chúng ta, “chúng ta không phải là chủ, người sở hữu,
nhưng là người giữ gìn, người loan báo và người phục vụ lời”.[114] Thái độ
khiêm nhường và cung kính này được biểu lộ qua việc dành thời gian để học lời
một cách hết sức kỹ lưỡng và với một lòng kính sợ thánh thiện để không xuyên
tạc lời. Để cắt nghĩa một bản văn Kinh Thánh, chúng ta cần nhẫn nại, gạt sang
một bên mọi quan tâm khác, và dành cho nó thời giờ, sự quan tâm và cầm lòng cầm
trí. Chúng ta phải gạt sang một bên mọi mối lo cấp bách khác và tạo ra một môi
trường thanh thản để tập trung chú ý. Nếu chúng ta chỉ muốn tìm những kết quả
chóng vánh, dễ dàng và có ngay lập tức thì đọc bản văn Kinh Thánh là chuyện vô
ích. Chuẩn bị giảng đòi hỏi tình yêu. Chúng ta chỉ dành những thời giờ yên tĩnh
cho những sự vật và những người mình yêu; và ở đây chúng ta đang nói chuyện với
Thiên Chúa mà chúng ta yêu, một Thiên Chúa muốn nói chuyện với chúng ta. Vì
tình yêu này, chúng ta có thể dành đủ thời giờ chúng ta cần, như mọi người môn
đệ đích thực: “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe” (1 S 3:9).
147.
Trước hết, chúng ta cần chắc chắn mình hiểu nghĩa của những lời chúng
ta đọc. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh một điều có vẻ hiển nhiên, nhưng không luôn
luôn được chúng ta lưu ý: bản văn Kinh Thánh mà chúng ta học đã có từ hai hay
ba ngàn năm rồi; ngôn ngữ của nó rất khác với ngôn ngữ chúng ta nói ngày nay.
Cả khi chúng ta tưởng mình hiểu những từ được dịch sang tiếng của chúng ta,
điều đó cũng không có nghĩa là chúng ta đã hiểu đúng những gì mà tác giả thánh
muốn nói. Chúng ta thành thạo các công cụ khác nhau do khoa phân tích văn
chương cung cấp: chú ý tới các từ lặp đi lặp lại hay nhấn mạnh, nhận ra cấu
trúc và chuyển động cụ thể của một bản văn, xem xét vai trò của các nhân vật
khác nhau, v.v… Nhưng mục tiêu của chúng ta không phải là hiều từng chi tiết
nhỏ bé của một bản văn; mục đích quan trọng nhất của chúng ta là khám phá ra sứ
điệp chính của nó, sứ điệp tạo nên cấu trúc và sự thống nhất của bản văn. Nếu
người giảng thuyết không cố gắng làm việc này, bài giảng của họ thường sẽ không
có sự thống nhất hay trật tự; những điều họ nói sẽ chỉ là một sự chồng chất các
ý tưởng rời rạc không thể tạo cảm hứng cho người nghe. Sứ điệp trung tâm là
điều mà tác giả chủ yếu muốn thông truyền; nó đòi hỏi phải nhận ra không chỉ
các ý tưởng của tác giả nhưng hiệu quả mà tác giả muốn tạo ra. Nếu một bản văn
được viết ra để an ủi, ta không được sử dụng nó để sửa sai các lỗi lầm; nếu nó
được viết để khuyến dụ, ta không được dùng nó để dạy học thuyết; nếu được viết
để dạy về Thiên Chúa, ta không được dùng nó để trình bày các ý kiến thần học
khác nhau; nếu được viết để kêu gọi lời ngợi khen hay ra đi truyền giáo, ta
đừng dùng nó để bàn về các tin tức mới nhất.
148.
Chắc chắn để hiểu đúng ý nghĩa sứ điệp trọng tâm của một bản văn, chúng ta cần
liên kết nó với giáo huấn của toàn bộ Kinh Thánh như được Hội Thánh truyền lại.
Đây là một nguyên tắc quan trọng của khoa chú giải Kinh Thánh, nó nhìn nhận
rằng Chúa Thánh Thần đã linh hứng không chỉ một phần Kinh Thánh, nhưng toàn bộ
Kinh Thánh, và trong một số lãnh vực người ta đã phát triển sự hiểu biết về ý
muốn của Thiên Chúa dựa trên kinh nghiệm bản thân của họ. Nguyên tắc này cũng
ngăn ngừa những cách giải thích sai lạc hay cục bộ có thể mâu thuẫn với các
giáo huấn khác của cùng bộ Sách Thánh. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng
ta có thể giảm nhẹ sự nhấn mạnh đặc trưng và cụ thể của một bản văn mà chúng ta
phải giảng. Một trong các khuyết điểm của một bài giảng tẻ nhạt và kém hiệu quả
chính là nó không có khả năng thông truyền sức mạnh nội tại của bản văn đã được
công bố.
Cá nhân hoá lời Chúa
149.
Người giảng thuyết “trước hết phải phát triển một sự thân mật sâu xa với Lời
Chúa. Hiểu biết các khía cạnh ngôn ngữ hay chú giải chắc chắn là cần nhưng
không đủ. Họ cần đến với Lời Chúa bằng một con tim ngoan ngoãn và cầu nguyện,
để lời thấm sâu vào các tư tưởng và tình cảm của họ và tạo một cái nhìn mới nơi
họ”.[115] Canh tân lòng sốt sắng của chúng ta mỗi ngày và mỗi Chúa Nhật khi
chúng ta chuẩn bị bài giảng, xét mình để xem chúng ta có lớn lên trong tình yêu
đối với lời chúng ta giảng hay không, đó là những điều có ích cho chúng ta.
Chúng ta cũng không được quên rằng “sự thánh thiện của thừa tác viên cao hay
thấp có một ảnh hưởng thực sự đối với việc rao giảng lời”.[116] Như Thánh
Phaolô nói, “chúng tôi rao giảng, không phải để làm vừa lòng người phàm, mà để
làm đẹp lòng Thiên Chúa, Ðấng thử luyện tâm hồn chúng tôi” (1 Tx 2:4). Nếu
chúng ta có một ước muốn sống động được là người đầu tiên nghe lời mà mình phải
giảng, chắc chắn lời này sẽ được thông truyền cho những người dân trung thành
của Chúa, vì “lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Mt 12:34). Các bài đọc ngày Chúa
Nhật sẽ vang dội với tất cả sự rạng rỡ của chúng trong tim các tín hữu nếu
trước tiên chúng đã vang dội trong tim người mục tử của họ.
150.
Đức Giêsu tức giận với những hạng thầy dạy đòi hòi nhiều ở người khác, dạy lời
Thiên Chúa mà không để cho lời Thiên Chúa soi sáng mình: “Họ bó những gánh nặng
mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào”
(Mt 23:4). Thánh Giacôbê tông đồ khuyên: “Thưa anh em, đừng có nhiều người
trong anh em ham làm thầy thiên hạ, vì anh em biết rằng chúng ta sẽ bị xét xử
nghiêm khắc hơn” (Gc 3:1). Ai muốn giảng thì trước tiên phải để cho lời Thiên
Chúa lay động mình một cách sâu xa và thấm nhập vào trong đời sống hằng ngày
của mình. Như vậy, giảng chủ yếu là ở hoạt động quá sâu xa và hiệu quả ấy, đó
là “thông truyền cho người khác điều mình đã chiêm ngắm”.[117] Vì tất cả các lý
do trên, trước khi sửa soạn những ǵ ḿnh sẽ thực sự nói ra khi giảng, chúng ta
cần để cho lời thâm nhập chúng ta, cũng là lời sẽ thâm nhập người khác, vì đó
là một lời sinh động và sắc bén, như thanh gươm “xuyên thấu chỗ phân cách tâm
linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng ngườii”
(Dt 4:12). Đây là điều rất quan trọng trong hoạt động mục vụ. Ngày nay cũng
vậy, người ta thích nghe những chứng nhân hơn: họ “khát sự chân thực” và “đòi có
những người rao giảng Tin Mừng nói cho họ về một vị Thiên Chúa mà mình biết và
thân quen, như thể đang nhìn thấy Người”.[118]
151.
Không ai đòi chúng ta phải vô tì tích, nhưng chúng ta buộc phải không ngừng lớn
lên và muốn lớn lên khi tiến bước trên con đường của Tin Mừng; chúng ta không
bao giờ được chùn chân. Điều cơ bản là người giảng thuyết phải tin chắc rằng
Thiên Chúa yêu thương họ, rằng Đức Kitô Giêsu đã cứu họ và tình yêu của Ngài
luôn luôn có tiếng nói cuối cùng. Gặp gỡ một mối tình đẹp như thế, người giảng
thuyết sẽ thường xuyên cảm nhận rằng đời sống họ không tôn vinh Thiên Chúa cho
đủ, và họ sẽ thành tâm muốn đáp lại tình yêu khôn lường ấy một cách trọn vẹn
hơn. Nhưng nếu họ không dành thời giờ để nghe lời Thiên Chúa với con tim rộng
mở, nếu họ không để cho lời đánh động cuộc đời họ, thách thức họ, thúc đẩy họ,
và nếu họ không dành thời giờ cầu nguyện bằng lời ấy, thì quả thực họ sẽ là một
tiên tri giả, một kẻ lừa đảo, một kẻ huênh hoang trống rỗng. Nhưng bằng cách
nhìn nhận sự nghèo hèn của mình và muốn lớn lên trong sự dấn thân của mình, họ
sẽ luôn luôn có thẻ phó thác mình cho Đức Kitô và nói lên những lời của Thánh
Phêrô: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây” (1 P
3:6). Chúa muốn sử dụng chúng ta như những con người sống động, tự do và sáng
tạo, những con người để cho lời Người thâm nhập lòng mình trước tiên rồi truyền
sang cho người khác. Sứ điệp của Đức Kitô phải thực sự thâm nhập và chiếm hữu
người giảng thuyết, không chỉ phần trí óc nhưng toàn thể hiện hữ của họ. Chúa
Thánh Thần, Đấng linh hứng lời, “hôm nay, giống như lúc khởi đầu của Hội Thánh,
Người vẫn hoạt động trong mỗi người giảng thuyết biết để mình được Người chiếm
hữu và dẫn dắt. Chúa Thánh Thần đặt trên môi người giảng thuyết những lời mà họ
không thể tự mình tìm ra”.[119]
Đọc
sách thiêng
152.
Có một cách đặc biệt để nghe những điều Chúa muốn nói với chúng ta trong lời
của Ngài và để mình được biến đổi bởi Thần Khí. Chúng ta gọi đó là lectio
divina. Nghĩa là đọc lời Chúa trong một lúc cầu nguyện và để cho lời soi
sáng và đổi mới chúng ta. Việc đọc Kinh Thánh trong cầu nguyện này không phải
là một cái gì tách biệt với việc học hỏi mà người giảng thuyết thực hiện để nắm
bắt được sứ điệp trọng tâm của bản văn; trái lại, nó phải bắt đầu với việc học
hỏi ấy rồi tiếp tục phân định xem sứ điệp ấy nói thế nào với đời sống của người
ấy. Việc đọc sách thiêng liêng phải bắt đầu với nghĩa chữ của bản văn. Nếu
không, chúng ta có thể dễ dàng bắt bản văn nói điều mà chúng ta nghĩ là thuận
tiện, ích lợi để xác nhận các quyết định trước đó của chúng ta, hợp với lối suy
nghĩ của chúng ta. Rốt cuộc sẽ chẳng khác gì sử dụng một điều thánh thiêng vì
lợi ích riêng của chúng ta rồi truyền lại sự lẫn lộn này sang cho dân Chúa.
Chúng ta không bao giờ được quên rằng đôi khi “ngay cả Satan cũng tự hoá trang
thành một thiên thần ánh sáng” (2 Cr 11:14).
153.
Trong sự hiện diện của Thiên Chúa, đang khi hồi tâm đọc bản văn, chúng ta nên
hỏi, chẳng hạn: “Chúa ơi, đoạn sách này nói gì với con? Qua bản văn
này, Chúa muốn thay đổi điều gì trong đời con? Bản văn có điều gì làm con bối
rối? Tại sao con không quan tâm tới điều này? Hoặc có thể hỏi: “Tôi thấy điều
gì thú vị trong bản văn này? Cái gì trong thế giới này đánh động tôi? Cái gì
lôi cuốn tôi? Tại sao nó lôi cuốn tôi?, các dám dỗ thường xuất hiện khi tôi cố
gắng nghe Chúa. Một cám dỗ thường chỉ là tôi cảm thấy bối rối hay khó chịu
khiến tôi bỏ đi. Một cám dỗ khác là nghĩ về ý nghĩa của bản văn đối với những
người khác, và vì thế tôi tránh áp dụng nó cho đời sống của chính mình. Cũng có
thể có cám dỗ khiến tôi tìm cớ để coi nhẹ ý nghĩa hiển nhiên của bản văn. Hoặc
chúng ta cũng có thể thắc mắc không biết Chúa có đang đòi hỏi quá nhiều ở chúng
ta, đòi hỏi một quyết định mà chúng ta chưa sẵn sàng để thực hiện. Những cám dỗ
này khiến nhiều người không còn hứng thú gặp gỡ lời Chúa nữa; nhưng như thế là
quên rằng không một ai kiên nhẫn bằng Thiên Chúa Cha chúng ta, không một ai cảm
thông và sẵn sàng chờ đợi như Người. Người luôn luôn mời gọi chúng ta tiến tới,
nhưng không đòi chúng ta một câu trả lời hoàn chỉnh nếu chúng ta chưa sẵn sàng.
Ngài chỉ xin chúng ta thành thật nhìn vào đời sống mình và giãi bày đời mình
một cách chân thật với Người, và xin chúng ta sẵn sàng tiếp tục lớn lên, cầu
xin Người ban cho điều mà bản thân chúng ta chưa đạt được.
Lắng
nghe dân chúng
154.
Người giảng thuyết cũng cần để tai nghe dân và tìm xem các tín hữu cần nghe
những gì. Người giảng thuyết phải nhìn xem thế giới, nhưng cũng phải nhìn xem
người dân. Bằng cách này họ học biết được về “những ước vọng, những nguồn lực
và những giới hạn, những cách cầu nguyện, yêu thương, quan niệm về cuộc đời và
thế giới, là những cái tạo sự khác biệt giữa một cuộc gặp gỡ này với một cuộc
gặp gỡ khác,” trong khi chú ý “tới những con người cụ thể, sử dụng ngôn ngữ của
họ, các ký hiệu và biểu tượng của họ, trả lời các câu hỏi họ đặt ra”.[120] Họ
phải có khả năng liên kết sứ điệp của bản văn Kinh Thánh với một tình huống
nhân loại, với một kinh nghiệm kêu gào ánh sáng của lời Chúa. Sự quan tâm này
không có chút gì là mánh lới hay tính toán; nó mang tính chất tôn giáo và mục
vụ sâu xa. Cơ bản nó là một “sự nhậy cảm thiêng liên đối với việc đọc sứ điệp
của Thiên Chúa qua các biến cố”,[121] và đây là điều có giá trị hơn là chỉ tìm
xem có cái gì hay để nói. Cái chúng ta tìm là “Chúa muốn nói gì trong hoàn cảnh
cụ thể này hay hoàn cảnh cụ thể kia”.[122] Thế nên chuẩn bị giảng trở thành một
việc luyện tập phán đoán theo Tin Mừng, ở đó chúng ta nhận ra—trong ánh sáng
của Thần Khí—“một tiếng gọi mà Thiên Chúa cho dội lên trong chính hoàn cảnh
lịch sử. Trong hoàn cảnh này, và cũng qua hoàn cảnh này, Thiên Chúa kêu gọi
người có lòng tin.”[123]
155.
Trong cố gắng này, chúng ta có thể chỉ cần nghĩ đến một kinh nghiệm thông
thường nào đó của con người như một cuộc tụ họp vui vẻ, một lúc chán nản, nỗi
sợ cô đơn, niềm cảm thông những đau khổ của người khác, sự hoang mang về tương
lai, sự lo lắng cho một người thân, v.v…. Nhưng chúng ta cần phát triển một sự
nhậy cảm sâu rộng đối với những gì tác động đến đời sống của những người khác.
Chúng ta cũng lưu ý không bao giờ nên trả lời những câu hỏi mà không ai hỏi.
Cũng không nên nói về những tin tức mới nhất để lôi kéo sự quan tâm của dân
chúng; chúng ta đã có các chương trình truyền hình để làm chuyện này rồi. Tuy
nhiên, có thể mở đầu bằng một sự kiện hay một câu truyện để lời Chúa có thể
vang dội mạnh mẽ trong tiếng gọi hoán cải, thờ phượng, dấn thân cho tình huynh
đệ và phục vụ, v.v… Thế nhưng vẫn sẽ luôn luôn có những người thích nghe người
giảng thuyết bình luận về các chuyện thời sự trong khi bản thân họ không để
mình bị thách thức.
Các
nguồn hỗ trợ giảng thuyết
156.
Một số người nghĩ mình có thể là người giảng giỏi vì họ biết phải nói cái gì,
nhưng họ không chú ý tới việc phải nói thế nào, nghĩa là cụ thể
phải cấu tạo một bài giảng như thế nào. Họ phàn nàn khi người ta không nghe hay
trân trọng họ, nhưng có lẽ họ không bao giờ chịu khó tìm cách thích hợp để
trình bày sứ điệp. Chúng ta nên nhớ rằng “nội dung loan báo Tin Mừng có tầm
quan trọng hiển nhiên nhưng không được làm che mờ tầm quan trọng của cách thức
và phương tiện loan báo Tin Mừng”.[124] Cũng vậy, quan tâm tới cách chúng ta
giảng là một sự quan tâm thiêng liêng sâu xa. Nó bao gồm việc đáp lại tình yêu
của Thiên Chúa bằng cách đặt tất cả các năng khiếu và óc sáng tạo của mình vào
việc phục vụ sứ mạng Ngài đã trao cho chúng ta; đồng thời, nó chứng tỏ một tình
yêu tinh tế và tích cực bằng cách từ chối không cống hiến một sản phẩm có chất
lượng tồi. Trong Kinh Thánh, chẳng hạn, chúng ta có thể tìm thấy những lời
khuyên về cách chuẩn bị một bài giảng thế nào để có thể đến được với dân một
cách hiệu quả nhất: “Hãy nói cho gọn, ít lời, nhiều ý” (Hc 32:8).
157.
Chỉ dùng một vài ví dụ, chúng ta hãy nhớ lại một số nguồn trợ giúp thực hành có
thể làm bài giảng của chúng ta phong phú và hấp dẫn hơn. Một trong những điều
quan trọng nhất là học cách sử dụng hình ảnh khi giảng, cách khêu gợi hình ảnh.
Đôi khi các ví dụ được dùng để làm sáng tỏ một điểm nào đó, nhưng các ví dụ này
thường chỉ khêu gợi trí khôn; trái lại, các hình ảnh giúp người nghe nhiều hơn
trong việc quí chuộng và chấp nhận sứ điệp chúng ta muốn truyền đạt. Một hình
ảnh hấp dẫn có thể làm cho người nghe cảm nếm được sứ điệp, đánh thức ước muốn
và đánh động ý chí hướng tới Tin Mừng. Một thầy giáo cũ từng nói với tôi, một
bài giảng tốt phải có “một ý tưởng, một tình cảm, một hình ảnh.”
158.
Đức Phaolô VI nói rằng “các tín hữu... mong đợi nhiều từ bài giảng, và sẽ được
rất nhiều lợi ích từ bài giảng, miễn là nó đơn sơ, rõ ràng, trực tiếp và thích
hợp”.[125] Đơn sơ là về ngôn ngữ chúng ta sử dụng. Phải là ngôn ngữ người dân
có thể hiểu được, bằng không chúng ta như nói vào chỗ không người. Những người
giảng thuyết thường sử dụng các từ ngữ họ đã học trong thời kỳ học tập và trong
các môi trường chuyên môn không nằm trong ngôn ngữ thông thường của người nghe.
Các từ ngữ này thích hợp trong thần học và huấn giáo, nhưng ý nghĩa của nó thì
đa số các Kitô hữu không hiểu được. Nguy cơ lớn nhất đối với một người giảng
thuyết là họ quá quen với ngôn ngữ riêng của mình khiến họ nghĩ mọi người khác
tất nhiên cũng hiểu và sử dụng được nó. Nếu chúng ta muốn thích nghi với ngôn
ngữ của dân chúng và đem lời Chúa đến được với họ, chúng ta cần chia sẻ đời
sống của họ và có sự quan tâm trìu mến đối với họ. Đơn sơ và rõ ràng là hai
chuyện khác nhau. Có thể chúng ta dùng ngôn ngữ đơn sơ nhưng cách giảng của
chúng ta không rõ. Rốt cuộc là bài giảng khó hiểu vì nó vô tổ chức, thiếu trình
tự lôgích hay cố nói đến quá nhiều điều một lúc. Vì vậy chúng ta cần bảo đảm
bài giảng của chúng ta có một chủ đề thống nhất, có trật tự rõ ràng và có sự
mạch lạc giữa các câu, để dân có thể dễ dàng theo một cách dễ dàng và nắm được
triền lý luận của bài giảng.
159.
Tích cực là một đặc trưng nữa của một bài giảng tốt. Bài giảng tốt không quan
tâm nhiều tới việc nói ra điều gì không được làm, nhưng gợi ý chúng ta có thể
làm gì tốt hơn. Bất luận thế nào, nếu kêu gọi chú ý tới một điều gì tiêu cực,
nó cũng phải cố gắng vạch ra một giá trị tích cực và hấp dẫn, nếu không nó sẽ
bị mắc kẹt giữa những lời phàn nàn, than vãn, phê bình và trách móc. Giảng tích
cực luôn luôn cống hiến hi vọng, vạch ra tương lai, không để chúng ta mắc kẹt
trong tiêu cực. Tốt biết bao khi các linh mục, phó tế và giáo dân định kỳ tụ
họp lại với nhau để khám phá ra các nguồn hỗ trợ có thể giúp cho việc giảng
thuyết hấp dẫn hơn!
II. LOAN BÁO TIN MỪNG VÀ HIỂU SÂU SỨ ĐIỆP CƠ BẢN
160.
Mệnh lệnh truyền giáo của Chúa bao hàm một lời kêu gọi lớn lên trong đức tin:
“Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:20). Vì vậy, rõ
ràng việc rao giảng đầu tiên cũng đòi hỏi sự đào luyện thường xuyên và sự
trưởng thành. Loan báo Tin Mừng nhắm tới một tiến trình tăng trưởng bao gồm
việc coi trọng từng con người và kế hoạch của Thiên Chúa cho cuộc đời của họ.
Tất cả chúng ta phải lớn lên trong Đức Kitô. Loan báo Tin Mừng phải kích thích
ước muốn tăng trưởng này, để mỗi người chúng ta có thể nói thật lòng: “Không
còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20).
161.
Sẽ không đúng nếu hiểu tiếng gọi tăng trưởng này theo nghĩa thuần tuý hay chủ
yếu là đào luyện về giáo lý. Lời kêu gọi này liên quan đến việc “tuân giữ” tất
cả những gì Chúa đã chỉ cho chúng ta như phương thế để đáp lại tình yêu của
Ngài. Liên quan tới các nhân đức, điều này có nghĩa trước hết là giới răn mới,
giới răn cao trọng nhất trong các giới răn, và là giới răn xác định rõ nhất
chúng ta là môn đệ Đức Kitô: “Ðây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12). Rõ ràng, mỗi khi các tác giả
Tân Ước muốn trình bày tâm điểm của sứ điệp luân lý của Tin Mừng, họ trình bày
đòi hỏi cơ bản về tình yêu đối với tha nhân: “ai yêu người, thì đã chu toàn Lề
Luật… yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:8, 10). Đây là những lời dạy
của Thánh Phaolô, theo ngài thì giới răn yêu thương không chỉ thu tóm lề luật
mà còn là tâm điểm và mục đích của lề luật: “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn
trong điều răn duy nhất này là: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Gl
5:14). Với các cộng đoàn của ngài, Thánh Phaolô mô tả cuộc đời của người Kitô
hữu như một hành trình tăng trưởng trong đức ái: “Xin Chúa cho tình thương của
anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết” (1Tx
3:12). Thánh Giacôbê cũng khuyên nhủ các tín hữu chu toàn “luật vàng của Kinh
Thánh: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2:8), để không lỗi bất
cứ giới luật nào.
162.
Mặt khác, tiến trình đáp lời và tăng trưởng này luôn luôn được ơn Thiên Chúa
dẫn trước, vì trước tiên Chúa nói: “Anh em hãy làm phép rửa cho họ nhân
danh...” (Mt 28:19). Ơn ban nhưng không của Thiên Chúa biến chúng ta thành con
cái Người, và tính ưu việt của ân sủng Người (xem Ep 2:8-9; 1 Cr 4:7), giúp
chúng ta khả năng không ngừng thánh hoá bản thân, là điều đẹp lòng Chúa và tôn
vinh Người. Bằng cách này, chúng ta để mình được biến đổi trong Đức Kitô nhờ
sống một đời sống “theo Thần Khí” (Rm 8:5).
Huấn
giáo cơ bản và khai tâm mầu nhiệm
168.
Giáo dục và huấn giáo là để phục vụ sự tăng trưởng này. Chúng ta đã có một số
văn kiện của Huấn Quyền và những trợ liệu huấn giáo được phát hành bởi Toà
Thánh và các Hội Đồng Giám Mục khác nhau. Tôi đặc biệt nghĩ tới Tông Huấn Catechesi
Tradendae (1979), Hướng Dẫn Chung về Huấn Giáo (1997)
và các văn kiện khác mà tôi nghĩ không cần lặp lại nội dung ở đây. Tôi muốn
cung cấp một vài suy tư mà tôi tin là có tầm quan trọng đặc biệt.
164.
Về huấn giáo cũng vậy, chúng ta đã tái khám phá vai trò cơ bản của việc loan
báo tiên khởi hay kerygma, nó phải là trọng tâm của mọi hoạt động
loan báo Tin Mừng và mọi cố gắng canh tân của Hội Thánh. Lời loan báo tiên khởi
mang tính Ba Ngôi. Lửa của Chúa Thánh Thần được ban cho dưới dạng các cái lưỡi
và giúp chúng ta tin vào Đức Kitô, Đấng nhờ sự chết và sống lại của Ngài, mặc
khải và thông truyền cho chúng ta lòng thương xót vô biên của Cha. Trên môi
miệng người dạy giáo lý, lời rao giảng tiên khởi phải không ngừng vang to: “Đức
Giêsu Kitô yêu bạn; Ngài hiến mạng sống mình để cứu bạn; và bây giờ Ngài đang
sống bên cạnh bạn mỗi ngày để soi sáng, ban sức mạnh và giải thoát bạn.” Lời
rao giảng đầu tiên này được gọi là “đầu tiên” không phải vì nó xuất hiện lúc
ban đầu và rồi có thể bị lãng quên hay thay thế bằng một cái gì quan trọng hơn.
Nó là đầu tiên theo nghĩa phẩm tính vì nó là lời rao giảng chính,
lời rao giảng mà chúng ta phải nghe đi nghe lại bằng nhiều cách khác nhau, phải
loan báo bằng cách này hay cách khác trong suốt tiến trình huấn giáo, ở mọi cấp
độ và mọi thời điểm.[126] Cũng vì lý do này, “linh mục—như mọi thành viên khác
của Hội Thánh—phải lớn lên trong sự ý thức rằng bản thân họ luôn luôn cần được
loan báo Tin Mừng”.[127]
165.
Chúng ta không được nghĩ rằng trong huấn giáo, lời rao giảng đầu tiên (kerygma)
nhường chỗ cho một sự đào luyện được cho là “vững chắc” hơn. Không có gì vững
chắc, sâu xa, bảo đảm và khôn ngoan hơn lời rao giảng ban đầu này. Mọi sự đào
luyện Kitô giáo đều bao gồm việc ngày càng đi sâu hơn vào kerygma,
được phản ánh trong huấn giáo và không ngừng soi sáng huấn giáo, nhờ đó nó giúp
chúng ta hiểu đầy đủ hơn tầm quan trọng của mỗi đề tài mà huấn giáo đề cập đến.
Nó là sứ điệp có khả năng đáp lại khát vọng về sự vô biên luôn nằm trong trái
tim mỗi người. Vị trí trung tâm của kerygma đòi phải nhấn mạnh
những yếu tố cần nhất hôm nay: nó phải diễn tả tình thương cứu độ của Thiên
Chúa, là cái đi trước mọi bổn phận luân lý hay tôn giáo của chúng ta; nó không
được áp đặt sự thật nhưng kêu gọi tự do; nó phải được đánh dấu bằng niềm vui,
sự khích lệ, sức sống và một sự cân bằng hài hoà để không giản lược việc rao
giảng vào một ít giáo thuyết đôi khi mang tính triết học hơn là tính phúc âm.
Tất cả điều này đòi hỏi người giảng thuyết phải có một số thái độ nuôi dưỡng sự
mở lòng ra cho sứ điệp: dễ đến gần, sẵn sàng đối thoại, kiên nhẫn, nồng ấm,
niềm nở, tựu trung là thái độ không phê phán.
166.
Một khía cạnh khác của huấn giáo mới phát triển trong những thập niên gần đây
là sự khai tâm mầu nhiệm (mystagogic initiation).[128]
Tự cơ bản, khai tâm mầu nhiệm gồm hai điều: một trải nghiệm đào luyện tiệm tiến
lôi kéo sự tham gia của toàn cộng đoàn và một sự đánh giá mới về các dấu hiệu
phụng vụ của việc khai tâm Kitô giáo. Nhiều sách cẩm nang và chương trình chưa
lưu ý đủ về nhu cầu canh tân việc khai tâm mầu nhiệm, một việc đòi có những
hình thức rất khác nhau dựa trên phán đoán của mỗi cộng đoàn giáo dục. Huấn
giáo là một sự công bố lời Chúa và luôn luôn tập trung vào lời ấy, nhưng nó
cũng đòi hỏi một môi trường và một cách trình bày hấp dẫn, việc sử dụng các
biểu tượng giàu ý nghĩa, sự tháp nhập vào một tiến trình tăng trưởng rộng hơn
và sự tích hợp mọi chiều kích của con người trong một lộ trình nghe và trả lời
của cộng đoàn.
167.
Mọi hình thức huấn giáo cần chú ý tới via pulchritudinis, “con
đường của cái đẹp”.[129] Rao giảng Đức Kitô có nghĩa là cho thấy rằng tin Ngài
và theo Ngài không chỉ là điều đúng và chính đáng, mà còn là một cái gì đẹp, có
khả năng đổ đầy đời sống bằng sự rực rỡ mới mẻ và niềm vui sâu xa, ngay cả giữa
những hoàn cảnh khó khăn. Thế nên mọi cách diễn tả cái đẹp đích thực đều có thể
được nhìn nhận là một con đường dẫn tới sự gặp gỡ Chúa Giêsu. Nó không liên
quan gì tới việc cổ vũ một thứ học thuyết tương đối về thẩm mỹ[130] vốn coi nhẹ
mối tương quan bất khả phân giữa chân, thiện và mỹ, nhưng đúng hơn, nó là một
sự quí chuộng mới đối với cái đẹp như là phương tiện làm rung động trái tim con
người và giúp cho sự thật và sự tốt lành của Đức Kitô Phục Sinh trở nên rạng rỡ
trong đó. Như Thánh Augustinô nói, nếu chúng ta chỉ yêu cái gì đẹp,[131] thì
Con Chúa nhập thể, hiện thân của mặc khải về cái đẹp vô biên, là Đấng đáng yêu
tột độ và lôi kéo chúng ta đến với Ngài bằng sợi dây tình yêu. Vì vậy một sự
đào luyện theo via pulchritudinis phải là một thành phần trong
cố gắng của chúng ta để bước vào đức tin. Mỗi giáo hội địa phương phải khuyến
khích việc sử dụng nghệ thuật trong truyền giáo, bằng cách dựa trên những kho
tàng của quá khứ nhưng đồng thời cũng sử dụng những cách thể hiện đa dạng đương
thời để thông truyền đức tin bằng một “ngôn ngữ dụ ngôn” mới”[132] Chúng ta
phải đủ mạnh dạn để khám phá ra những ký hiệu mới và những biểu tượng mới, da
thịt mới để thông truyền lời, cùng với những cách biểu hiện khác nhau của cái
đẹp được ưa thích trong các nền văn hoá khác nhau, gồm cả những hình thái phá
cách của cái đẹp, tuy có thể ít quan trọng đối với những người rao giảng Tin
Mừng, nhưng lại đặc biệt hấp dẫn đối với những người khác.
168.
Về yếu tố luân lý trong huấn giáo, là cái giúp phát huy sự tăng trưởng trung
thành với lối sống phúc âm, cần liên tục nhấn mạnh sự hấp dẫn và lý tưởng của
một đời sống khôn ngoan, hoàn thành và làm phong phú bản thân. Dưới ánh sáng
của sứ điệp tích cực ấy, chúng ta có thể hiểu rõ hơn tại sao mình xa tránh
những điều xấu gây nguy hại cho đời sống ấy. Thay vì có thái độ của những
chuyên gia chỉ tiên đoán những tai hoạ, hay những quan toà khắc nghiệt luôn tìm
cách nhổ tận gốc mọi mối đe doạ hay hành vi sai trái, chúng ta phải tỏ ra là
những sứ giả hân hoan về những đề nghị đầy thách thức, những người bảo vệ cái
tốt và cái đẹp rạng ngời trong một đời sống trung thành với Tin Mừng.
Đồng
hành với cá nhân trong các bước tăng trưởng
169.
Trong một nền văn hoá đầy nghịch lý giữa sự đau khổ vì không được ai biết đến
và đồng thời bị ám ảnh vì các tình tiết trong cuộc đời của những người khác
khiến chúng ta rơi vào thái độ tò mò bệnh hoạn và đáng xấu hổ, Hội Thánh phải
nhìn người khác bằng đôi mắt thân tình và thiện cảm hơn. Trong thế giới chúng
ta, các mục tử có chức thánh và các nhà hoạt động mục vụ khác có thể hiện thực
hoá hương thơm sự gần gũi và cái nhìn thân mật của Đức Kitô. Hội Thánh sẽ phải
dẫn đưa mọi người—linh mục, tu sĩ, và giáo dân—vào trong “nghệ thuật đồng hành”
này, nó dạy chúng ta biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh thiêng của người
khác (xem Xh 3:5). Bước chân đồng hành này phải có nhịp đều và vững vàng, phản
ánh thái độ gần gũi và cái nhìn cảm thông của chúng ta, giúp chữa lành và khích
lệ sự tãng trýởng trong ðời sống Kitô giáo.
170.
Mặc dù nghe có vẻ hiển nhiên, sự ðồng hành thiêng liêng phải dẫn ðýa ngýời khác
ðến gần Thiên Chúa hõn, nõi Ngýời chúng ta ðạt tới tự do ðích thực. Một số
ngýời nghĩ họ có tự do nếu tránh ðýợc Thiên Chúa; nhýng họ không thấy ðýợc rằng
họ vẫn ðang là những ngýời mồ côi, cô ðộc, vô gia cý. Họ không còn là những
người lữ hành, nhưng trở thành những nạn nhân trôi dạt bồng bềnh và không bao
giờ đi đến đâu. Đồng hành với họ sẽ phản tác dụng nếu sự đồng hành này chỉ là
một trị liệu pháp hỗ trợ sự tự mãn của họ và không còn là một cuộc lữ hành với
Đức Kitô để đến với Chúa Cha.
171.
Ngày nay hơn bao giờ hết, chúng ta cần những người nam người nữ biết dựa trên
kinh nghiệm bản thân trong việc đồng hành với người khác, những người thành
thạo trong các tiến trình đòi hỏi sự thận trọng, cảm thông, kiên nhẫn và ngoan
ngoãn vâng nghe Chúa Thánh Thần, để họ có thể bảo vệ chiên khỏi sói dữ làm tan
tác đàn chiên. Chúng ta cần phát triển nghệ thuật lắng nghe, chứ không chỉ là
nghe suông. Trong lãnh vực truyền thông, lắng nghe là sự mở lòng để có được
thái độ gần gũi mà thiếu nó thì không thể có sự gặp gỡ thiêng liêng. Lắng nghe
giúp chúng ta tìm ra cử chỉ và lời nói thích hợp để chứng tỏ chúng ta không chỉ
là những khách qua đường. Chỉ khi có thái độ lắng nghe với lòng tôn trọng và cảm
thông, chúng ta mới có thể bước vào con đường tăng trưởng đích thực và đánh
thức một khát vọng về lý tưởng Kitô giáo: ước muốn đáp lại trọn vẹn tình yêu
của Thiên Chúa và làm cho những gì Ngài đã gieo trong cuộc đời chúng ta sinh
hoa kết quả. Nhưng điều này luôn đòi hỏi sự kiên nhẫn của người biết rõ điều mà
Thánh Tôma Aquino từng nói: ai cũng có thể có ân sủng và đức ái, nhưng họ do dự
trong việc thực thi các nhân đức bởi vì những “xu hướng trái ngược” dai dẳng
của họ.[133] Nói khác đi, tính duy nhất hữu cơ của các nhân đức luôn luôn tồn
tại một cách tất yếu in habitu (“trong thói quen”), mặc dù các
hoàn cảnh chi phối khác nhau có thể ngăn cản các hoạt động của
các thói quen nhân đức này. Thế nên cần có “một khoa sư phạm dẫn đưa người ta
từng bước một tới sự lãnh hội đầy đủ mầu nhiệm”.[134] Việc đạt đến một mức độ
trưởng thành mà ở đó các cá nhân có thể làm các quyết định tự do và có trách
nhiệm cần nhiều thời gian và kiên nhẫn. Như Chân Phước Peter Faber thường nói:
“Thời gian là sứ giả của Thiên Chúa”.
172.
Ai đồng hành với người khác cần hiểu rằng mỗi tình huống của một cá nhân trước
mặt Chúa và đời sống trong ân sủng của họ là những mầu nhiệm mà không một ai có
thể hiểu đầy đủ từ bên ngoài. Tin Mừng dạy chúng ta sửa lỗi cho người khác và
giúp họ lớn lên dựa trên việc nhìn nhận sự xấu xa của các hành động của họ (xem
Mt 18:15), nhưng không phê phán về trách nhiệm và sự có tội của họ (xem Mt 7:1;
Lc 6:37). Một số người giỏi trong việc đồng hành này không đầu hàng trước những
thất bại hay những nỗi sợ hãi. Họ mời gọi những người khác sẵn sàng để mình
được chữa lành, vác giường lên, ôm ấp thập giá, bỏ mọi sự lại phía sau và luôn
luôn tiếp tục lên đường để loan Tin Mừng. Kinh nghiệm bản thân của chúng ta khi
được người khác đồng hành và nâng đỡ, và sự mở lòng của chúng ta cho người đồng
hành với mình, sẽ dạy chúng ta biết kiên nhẫn và cảm thông với người khác, và
tìm ra đúng con đường để chinh phục sự tin tưởng, sự mở lòng và thái độ sẵn
sàng lớn lên.
173.
Sự đồng hành thiêng liêng chân chính luôn luôn bắt đầu và phát triển trong lãnh
vực phục vụ sứ mạng truyền giáo. Mối quan hệ giữa Thánh Phaolô với Timôthê và
Titô là một ví dụ điển hình về sự đồng hành và đào luyện này trong hoạt động
tông đồ. Khi giao cho họ nhiệm vụ ở lại tại mỗi thành phố để “hoàn thành công
việc tổ chức” (Tt 1:5; xem 1 Tm 1:3-5), Thánh Phaolô cũng cung cấp cho họ những
qui tắc cho đời sống cá nhân và hoạt động mục vụ của họ. Cách làm này rõ ràng
khác hẳn mọi kiểu đồng hành can thiệp hay tự thể hiện độc lập. Các môn đệ
truyền giáo đồng hành với các môn đệ truyền giáo.
Tập
trung vào Lời Chúa
174.
Không chỉ bài giảng phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa. Mọi việc loan báo Tin
Mừng cũng phải dựa trên lời ấy, phải lắng nghe, suy niệm, sống, cử hành và làm
chứng cho lời ấy. Kinh Thánh chính là nguồn mạch của việc loan báo Tin Mừng. Do
đó, chúng ta cần không ngừng được huấn luyện trong việc nghe lời Chúa. Hội
Thánh không loan báo Tin Mừng nếu chính mình không được nghe Tin Mừng. Lời Chúa
thiết yếu phải “không ngừng được đặt một cách đầy đủ hơn vào tâm điểm của mọi
hoạt động của Hội Thánh”.[135] Lời Chúa khi được lắng nghe và cử hành, trước
hết trong Thánh Thể, sẽ nuôi dưỡng và kiện cường tâm hồn các Kitô hữu, giúp họ
cống hiến một chứng tá đích thực cho Tin Mừng trong đời sống hằng ngày. Chúng
ta từ lâu đã vượt qua được sự đối chọi xưa kia giữa lời và bí tích. Việc giảng
lời sống động và hiệu quả có tác dụng chuẩn bị cho việc lãnh nhận bí tích, và
lời đạt được hiệu quả tối đa trong bí tích.
175.
Việc học hỏi Kinh Thánh phải là một cánh cửa rộng mở cho mọi tín hữu.[136] Nhất
thiết lời mặc khải phải triệt để làm cho việc dạy giáo lý và mọi cố gắng truyền
thụ đức tin của chúng ta trở nên phong phú.[137] Loan báo Tin Mừng đòi hỏi sự
thân mật với lời Chúa, nó kêu gọi các giáo phận, giáo xứ và các hiệp hội Công
Giáo tổ chức các cuộc học hỏi nghiêm túc và thường xuyên về Kinh Thánh, đồng
thời khuyến khích các cá nhân và cộng đoàn đọc Kinh Thánh với tâm tình cầu
nguyện.[138] Chúng ta không tìm kiếm Thiên Chúa một cách mò mẫm, hay chờ đợi
Ngài nói với chúng ta trước, bởi vì “Thiên Chúa đã nói với chúng ta rồi, và
không có gì chúng ta cần biết mà Ngài đã không mặc khải cho chúng ta”.[139]
Chúng ta hãy đón nhận kho tàng siêu vời này của lời mặc khải.
CHƯƠNG BỐN
CHIỀU
KÍCH XÃ HỘI CỦA LOAN BÁO TIN MỪNG
176.
Loan báo Tin Mừng là làm cho Vương Quốc Thiên Chúa hiện diện trong thế giới
chúng ta. Thế nhưng “mọi định nghĩa cục bộ hay manh mún nào với tham vọng diễn
tả tất cả thực tại loan báo Tin Mừng trong sự phong phú, phức tạp và năng động
của nó đều có nguy cơ làm cho nó trở nên nghèo nàn và thậm chí xuyên tạc
nó”.[140] Giờ đây tôi muốn chia sẻ mối quan tâm của mình về chiều kích xã hội
của việc loan báo Tin Mừng, chính là vì nếu chiều kích này không được hiểu một
cách đúng đắn, thì luôn luôn có nguy cơ xuyên tạc ý nghĩa đích thực và trọn vẹn
của sứ mạng loan báo Tin Mừng.
I. TÁC ĐỘNG CỦA LỜI RAO GIẢNG CƠ BẢN ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG VÀ
XÃ HỘI
177.
Lời rao giảng cơ bản (kerygma) có một nội dung xã hội rõ rệt: ở tâm điểm
của Tin Mừng là đời sống cộng đồng và sự tham dự với những người khác. Nội dung
của lời rao giảng ban đầu này có một hệ quả đạo đức trực tiếp được qui vào đức
ái.
Tuyên
xưng đức tin và dấn thân xã hội
178.
Tin vào một người Cha yêu thương mọi người với một tình yêu vô biên có nghĩa là
nhận ra rằng “qua đó Người ban cho họ một phẩm giá vô hạn”.[141] Tin rằng Con
Thiên Chúa mặc lấy xác thịt nhân loại có nghĩa là mỗi con người đã được đưa vào
chính trái tim của Thiên Chúa. Tin rằng Đức Giêsu đã đổ máu mình ra vì chúng ta
có nghĩa là loại bỏ mọi nghi ngờ về tình yêu vô biên làm cho mỗi một người trở
nên cao quí. Ơn cứu chuộc chúng ta có một chiều kích xã hội bởi vì “Thiên Chúa,
trong Đức Kitô, không chỉ cứu chuộc từng cá nhân, nhưng còn cứu chuộc các mối
tương quan xã hội giữa con người với nhau”.[142] Tin rằng Chúa Thánh Thần hoạt
động trong mỗi người có nghĩa là nhận ra rằng Người tìm cách thâm nhập mọi tình
huống của con người và mọi mối liên kết xã hội: “Có thể nói, Chúa Thánh Thần có
một sự sáng tạo vô biên, thuộc tính riêng của thần trí, nó biết cách tháo gỡ mọi
khúc mắc của thế sự, cả những khúc mắc phức tạp và khó lường nhất”.[143] Loan
báo Tin Mừng có nghĩa là hơp tác với hoạt động giải thoát này của Chúa Thánh
Thần. Chính mầu nhiệm Ba Ngôi nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta đã được dựng nên
theo hình ảnh sự hiệp hông thần linh ấy, vì vậy chúng ta không thể hoàn thành
bản thân hay được cứu độ mà chỉ dựa vào cố gắng của riêng mình. Từ tâm điểm của
Tin Mừng chúng ta thấy mối liên kết sâu xa giữa loan báo Tin Mừng và thăng tiến
con người, sự thăng tiến này bắt buộc phải được biểu hiện và phát triển trong
mọi hoạt động loan báo Tin Mừng. Chấp nhận lời rao giảng cơ bản này—lời rao
giảng mời gọi chúng ta đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và đáp lại tình yêu ấy
bằng chính tình yêu là quà tặng của Người—sẽ tạo ra trong đời sống và hành động
của chúng ta một lời đáp trước tiên và cơ bản: ước muốn, tìm kiếm, và bảo vệ
lợi ích của người khác.
170.
Mối liên kết giữa việc chúng ta chấp nhận sứ điệp cứu độ và tình yêu huynh đệ
đích thực được thấy trong một số bản văn Kinh Thánh mà chúng ta cần suy gẫm để
đánh giá được hết các hệ quả của chúng. Sứ điệp là cái mà chúng ta thường coi
là hiển nhiên và có thể lặp lại hầu như một cách máy móc, mà không nhất thiết
bảo đảm rằng nó có một hiệu ứng thực sự đối với đời sống chúng ta và trong các
cộng đồng của chúng ta. Tình trạng này quá nguy hiểm, bởi nó làm chúng ta mất
đi sự kinh ngạc, phấn khích và nhiệt tình để sống Tin Mừng của tình huynh đệ và
công lý! Lời Chúa dạy rằng anh chị em của chúng ta là sự nối dài mầu nhiệm nhập
thể cho mỗi người chúng ta: “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những
anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt
25:40). Cách chúng ta đối xử với người khác có một chiều kích siêu việt: “anh
em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy” (Mt
7:2). Nó tương ứng với lòng thương xót mà Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta: “Anh
em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em Ðấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì
anh em sẽ không bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị
Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em
hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại... Vì anh em đong bằng đấu nào, thì
Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6:36-38). Các đoạn Kinh
Thánh này cho thấy rõ rằng ưu tiên tuyệt đối của việc “đi ra khỏi bản thân
chúng ta để đến với các anh chị em chúng ta” là một trong hai giới răn lớn làm
nền tảng cho mọi qui tắc luân lý và là dấu hiệu rõ ràng nhất để nhận ra sự tăng
trưởng thiêng liêng trong việc đáp lại ân huệ hoàn toàn cho không của Thiên
Chúa. Vì lý do này, “việc phục vụ bác ái cũng là một yếu tố cấu thành của sứ
mạng Hội Thánh và là một biểu hiện thiết yếu của chính sự hiện hữu của Hội
Thánh”.[144] Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; Hội Thánh tràn trề đức ái
hiệu quả và một sự cảm thông có sức thấu hiểu, giúp đỡ và phát huy.
Nước
Thiên Chúa và thách thức của nó
180.
Đọc Kinh Thánh cũng cho ta thấy rõ rằng Tin Mừng không chỉ thuần tuý là về mối
quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta cũng không được coi lời đáp yêu
thương của chúng ta với Thiên Chúa như chỉ là tập hợp các nghĩa cử nhỏ bé và
riêng lẻ của chúng ta đối với các cá nhân gặp hoàn cảnh khó khăn, một kiểu gọi
là “bác ái trên giấy”, hay một chuỗi các hành vi chỉ cốt làm cho lương tâm
chúng ta khỏi áy náy. Tin Mừng là vềNước Thiên Chúa (xem Lc 4:43);
về yêu mến Thiên Chúa Đấng ngự trị trong thế giới chúng ta. Bao lâu Người ngự
trị giữa chúng ta, đời sống xã hội sẽ là một môi trường của tình huynh đệ phổ
quát, công lý, hoà bình và nhân phẩm. Vì vậy, cả việc rao giảng và đời sống
Kitô giáo đều phải có một ảnh hưởng trên xã hội. Chúng ta đang tìm kiếm Nước
Chúa: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn
tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33). Sứ mạng Đức Kitô là thiết
lập vương quốc của Cha Người; Ngài truyền cho các môn đệ đi rao giảng tin vui
rằng “Nước Trời đã đến gần” (Mt 10:7).
181.
Vương quốc này, vốn đã hiện diện và lớn lên giữa chúng ta, lôi kéo sự tham dự
của chúng ta trên mọi bình diện và nhắc nhớ chúng ta về nguyên tắc phân định mà
Đức Phaolô VI áp dụng cho sự phát triển đích thực: nó phải hướng tới “mọi người
và trọn vẹn con người”.[145] Chúng ta biết “loan báo Tin Mừng sẽ không hoàn hảo
nếu nó không lưu tâm tới tác động qua lại liên tục của Tin Mừng và đời sống cụ
thể của con người, đời sống cá nhân cũng như xã hội”.[146] Đây là nguyên tắc về
tính phổ quát nội tại của Tin Mừng, vì Cha muốn sự cứu rỗi của mọi người, nam
cũng như nữ, và kế hoạch cứu độ của Người là “qui tụ muôn loài trong Đức Kitô,
mọi loài trên trời và dưới đất” (Ep 1:10). Sứ mạng chúng ta là “đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15), vì “muôn
loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của
con cái Người” (Rm 8:19). Ở đây, “loài thọ tạo” chỉ về mọi khía cạnh của đời
sống con người; do đó, “sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô có một
đích đến hoàn vũ. Nhiệm vụ của sứ mạng này bao gồm mọi chiều kích của đời sống,
mọi lãnh vực của đời sống cộng đồng, và mọi dân tộc. Không có gì của con người
có thể xa lạ với nó”.[147] Niềm hi vọng Kitô giáo đích thực là tìm kiếm vương
quốc cánh chung, nó luôn luôn sinh ra lịch sử.
Giáo
huấn của Hội Thánh về các vấn đề xã hội
182.
Các giáo huấn của Hội Thánh liên quan đến các tình huống trần thế đều chịu sự
chi phối các sự phát triển mới và xa hơn và có thể được mở ra cho tranh luận,
nhưng chúng ta phải cụ thể—tuy không quá đi vào chi tiết—nếu không các nguyên
tắc lớn về xã hội sẽ mãi mãi chỉ là những điều khái quát chẳng thách thức được
một ai. Cần phải rút ra những kết luận thực hành, để chúng “có tác động lớn đến
sự phức tạp của các tình huống hiện hành”.[148] Các mục tử của Hội Thánh, trong
khi lưu tâm tới các đóng góp của các khoa học khác nhau, có quyền đưa ra các ý
kiến về tất cả những gì ảnh hưởng đến đời sống con người, vì nhiệm vụ loan báo
Tin Mừng bao hàm và đòi hỏi sự thăng tiến toàn vẹn mỗi con người. Không còn có
thể chủ trương rằng tôn giáo phải được hạn chế trong lãnh vực tư riêng và nó
chỉ tồn tại để chuẩn bị các linh hồn vào thiên đàng. Chúng ta biết Thiên Chúa
muốn các con cái Người được hạnh phúc cả ở đời này nữa, mặc dù họ được kêu gọi
để hưởng sự viên mãn trong cõi vĩnh cửu, vì Người đã tạo dựng nên mọi sự “cho
chúng ta hưởng dùng” (1 Tm 6:17), cho mọi người hưởng dùng. Hệ
quả là sự hoán cải của người Kitô hữu đòi hỏi phải duyệt xét lại đặc biệt những
lãnh vực và những khía cạnh của đời lống “liên quan đến trật tự xã hội và việc
theo đuổi lợi ích chung”.[149]
183.
Do đó, không ai có thể đòi tôn giáo phải bó gọn vào trong nội cung của đời sống
cá nhân, không có ảnh hưởng gì tới đời sống xã hội và quốc gia, không quan tâm
gì tới sự lành mạnh của các cơ chế dân sự, không có quyền đóng góp ý kiến về
các vấn đề ảnh hưởng tới xã hội. Có ai dám tuyên bố khoá chặt và bắt nín lặng
sứ điệp của Thánh Phanxicô Assisi hay Chân Phước Têrêxa Calcutta? Hẳn là chính
các ngài sẽ coi đó là chuyện không thể chấp nhận được. Một đức tin chân
chinh—không bao giờ dễ chịu hay cá nhân—luôn luôn bao hàm một ước muốn sâu xa
là biến đổi thế giới, truyền thông các giá trị, làm cho thế giới này phần nào
tốt hơn khi ta gặp nó. Chúng ta yêu quí hành tinh tuyệt vời này, nơi Thiên Chúa
đã đặt chúng ta vào, chúng ta yêu quí gia đình nhân loại đang cư ngụ ở đây, với
tất cả những thảm cảnh và những đấu tranh, những hi vọng và ước mơ, những yếu
đuối và sức mạnh của nó. Trái đất là nhà chung của chúng ta và tất cả chúng ta
là anh chị em của nhau. Nếu quả thực “việc điều hoà trật tự công bằng của xã
hội và nhà nước là một trách nhiệm chính trị”, thi Hội Thánh “không thể đứng
bên lề cuộc đấu tranh cho công lý”.[150] Mọi Kitô hữu, bao gồm cả các mục tử
của họ, được kêu gọi bày tỏ quan tâm đối với việc xây dựng một thế giới tốt đẹp
hơn. Đây là điều cơ bản, vì tư tưởng xã hội của Hội Thánh chủ yếu là tích cực:
Hội Thánh cống hiến các đề nghị, Hội Thánh hoạt động cho sự thay đổi và theo
nghĩa này Hội Thánh vạch ra niềm hi vọng phát sinh từ trái tim yêu thương của
Đức Giêsu Kitô. Đồng thời, Hội Thánh nối kết “sự dấn thân của chính mình với sự
dấn thân trong lãnh vực xã hội của các Hội Thánh và các Cộng Đồng Hội Thánh
khác, dù trên bình diện suy tư về học thuyết hay bình diện thực hành”.[151]
184.
Đây không phải lúc cũng chẳng phải chỗ để xem xét chi tiết rất nhiều vấn đề xã
hội đang ảnh hưởng tới thế giới hôm nay, và tôi cũng đã đề cập đến một số vấn
đề này ở chương hai. Tông huấn này không phải là một văn kiện xă hội, vŕ chúng
ta có một công cụ thích hợp nhất để suy tư về các chủ đề khác nhau ấy, đó là
cuốn Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh Công Giáo, là văn
kiện mà tôi nhiệt liệt khuyến khích anh chị em đọc và học hỏi. Hơn nữa, Giáo
Hoàng hay Hội Thánh không độc quyền về việc diễn giải các thực tại xã hội hay
đề nghị các giải pháp cho các vấn đề đương đại. Ở đây tôi có thể lặp lại nhận
định sâu sắc của Đức Phaolô VI: “Đối diện với những tình huống thay đổi sâu
rộng như thế, chúng ta thật khó có thể phát biểu một thông điệp thống nhất và
đưa ra một giải pháp có giá trị phổ quát. Đây không phải là tham vọng hay sứ
mạng của chúng ta. Các cộng đồng Kitô có nhiệm vụ phân tích một cách khách quan
tình huống riêng của quốc gia mình”.[152]
185.
Dưới đây tôi muốn tập trung vào hai vấn đề lớn mà tôi coi là rất cơ bản trong
thời kỳ này của lịch sử. Tôi sẽ trình bày hai vấn đề này đầy đủ hơn vì tôi tin
chúng sẽ định hình tương lai của nhân loại. Vấn đề thứ nhất là sự bao gồm người
nghèo trong xã hội, và vấn đề thứ hai là hoà bình và đối thoại xã hội.
II. SỰ BAO GỒM NGƯỜI NGHÈO TRONG XÃ HỘI
186.
Đức tin của chúng ta vào Đức Kitô, Đấng đã trở nên nghèo khó và luôn luôn gần
gũi những người nghèo và những người bị hất hủi, là cơ sở cho mối quan tâm của
chúng ta đối với sự phát triển toàn diện của các thành viên bị lãng quên nhất
của xã hội.
Kết hiệp
với Thiên Chúa, chúng ta nghe thấy một lời kêu xin
187.
Mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng Kitô hữu được kêu gọi trở thành một dụng cụ của
Thiên Chúa cho việc giải phóng và thăng tiến người nghèo, và giúp họ là thành
viên đầy đủ của xã hội. Việc này đòi chúng ta phải mở lòng và chăm chú lắng
nghe tiếng kêu của người nghèo và đến cứu giúp họ. Chỉ cần lướt qua Sách Thánh
cũng đủ để chúng ta thấy Cha nhân từ của chúng ta hằng muốn lắng nghe tiếng kêu
của người nghèo: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe
tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của
chúng. Ta xuống giải thoát chúng... Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi ...”
(Xh 3:7-8, 10). Chúng ta cũng thấy Người quan tâm tới các nhu cầu của họ như
thế nào: “Bấy giờ con cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa, Ðức Chúa liền cho xuất
hiện một vị cứu tinh” (Tl 3:15). Nếu chúng ta, những người được Chúa dùng để
lắng nghe người nghèo, mà bịt tai trước tiếng kêu xin này, chúng ta chống lại ý
muốn và kế hoạch của Người; người nghèo kia “có thể sẽ kêu lên Ðức Chúa tố cáo
anh (em) và anh (em) sẽ mang tội” (Đnl 15:9). Thiếu tình liên đới với các nhu
cầu của người nghèo sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ của chúng ta với
Thiên Chúa: “Ai cay đắng trong lòng mà nguyền rủa con, thì Ðấng tạo thành ra nó
sẽ nghe lời nó thỉnh nguyện” (Hc 4:6). Câu hỏi xa xưa luôn luôn vang vọng trở
lại: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà
chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy
được?” (1 Ga 3:17). Chúng ta cũng hãy nhớ lại tông đồ Giacôbê đã nói thẳng như
thế nào về tiếng kêu của người bị áp bức: “Các người đã gian lận mà giữ lại
tiền lương của những người thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền
lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã
thấu đến tai Chúa các đạo binh” (5:4).
188.
Hội Thánh đã nhận ra rằng chính nhu cầu lắng nghe tiếng kêu cứu này phát sinh
từ hành động giải thoát của ân sủng trong mỗi người chúng ta, và vì thế đây
không phải là sứ mạng chỉ dành riêng cho một số ít người: “Được hướng dẫn bởi
Tin Mừng của lòng thương xót và tình yêu thương đối với loài người, Hội Thánh
nghe thấy tiếng kêu đòi công lý và muốn đáp lại tiếng kêu này bằng tất cả sức
lực của mình”.[153] Trong bối cảnh này chúng ta có thể hiểu lệnh truyền của Đức
Giêsu cho các môn đệ: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi!” (Mc 6:37): có nghĩa
là làm việc để loại trừ các cơ cấu gây nên đói nghèo, đồng thời cổ vũ sự phát
triển toàn diện của người nghèo, cũng như có những hành vi nho nhỏ hằng ngày để
đáp ứng các nhu cầu thực sự mà chúng ta gặp. Từ “tình liên đới” đã hơi cũ và
đôi khi bị hiểu một cách hạn chế, nhưng nó chỉ về một cái gì lớn hơn là một ít
hành vi quảng đại lẻ tẻ. Nó muốn chỉ về việc tạo ra một não trạng biết nghĩ đến
cộng đồng và vị trí ưu tiên của sự sống vượt lên trên việc chiếm hữu của cải
bởi một số ít người.
189.
Tình liên đới là một phản ứng tự nhiên của những người nhận ra rằng chức năng
xã hội của tài sản và mục tiêu phổ quát của của cải là những thực tại đi trước
quyền tư hữu. Quyền tư hữu tài sản được biện minh bởi nhu cầu bảo vệ và gia
tăng chúng, để chúng có thể phục vụ công ích tốt hơn; vì lý do này, tình liên
đới phải được sống như là quyết định hoàn trả cho người nghèo những gì thuộc về
họ. Các xác tín và thói quen này về tình liên đới, khi được đem ra thục hành,
sẽ mở đường cho những biến đổi khác về cơ cấu và làm cho chúng trở thành hiện
thực. Thay đổi các cơ cấu mà không tạo ra được những niềm tin và thái độ mới
thì chắc chắn chỉ làm cho các cơ cấu ấy sớm hay muộn sẽ trở thành tham nhũng,
áp bức và vô bổ.
190.
Đôi khi đây là vấn đề lắng nghe tiếng kêu của cả dân tộc, những dân tộc nghèo
khổ nhất trên trái đất, vì “hoà bình không chỉ được đặt nền trên sự tôn trọng
các quyền của con người, mà còn được đặt nền trên sự tôn trọng các quyền của
các dân tộc”.[154] Buồn thay, ngay cả các quyền của con người cũng bị lợi dụng
để biện minh cho một sự bênh vực các quyền của các cá nhân hay các quyền của
các dân tộc giàu có hơn. Trong khi tôn trọng chủ quyền và văn hoá của mỗi quốc
gia, chúng ta không bao giờ được quên rằng hành tinh này thuộc về toàn thể nhân
loại và được dành cho toàn thể nhân loại; sự kiện một số dân tộc được sinh ra
tại những nơi có ít tài nguyên hơn hay ít phát triển hơn không biện minh cho sự
kiện họ đang sống kém phẩm giá hơn. Cần phải nói lại rằng “những người may mắn
hơn phải từ bỏ một số quyền lợi của mình để đặt của cải của mình một cách quảng
đại hơn vào việc phục vụ người khác”.[155] Để nói đúng về các quyền của mình,
chúng ta cần mở rộng tầm nhìn và nghe tiếng kêu của các dân tộc và các vùng
khác ngoài đất nước của chính chúng ta. Chúng ta cần lớn lên trong tình liên
đới để nó “giúp mọi dân tộc trở trở thành những người tạo nên vận mệnh của
chính mình”,[156] vì “mọi người được kêu gọi hoàn thành bản thân mình”.[157]
191. Ở
mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, với sự trợ giúp của các mục tử, người Kitô hữu
được kêu gọi nghe tiếng kêu của người nghèo. Điều này đã được phát biểu một
cách hùng hồn bởi các giám mục Brazil: “Chúng tôi muốn mang lấy những niềm vui
và hi vọng, những khó khăn và đau buồn của dân tộc Brazil, đặc biệt của những
người đang sống tại các vùng ngoại ô và nông thôn—những người không ruộng đất,
không nhà cửa, thiếu lương thực và sự chăm sóc y tế—khiến các quyền lợi của họ
phải thiệt thòi. Nhìn cảnh nghèo khổ của họ, nghe những tiếng kêu của họ và
biết những đau khổ của họ, chúng tôi cảm thấy nhức nhối vì biết rằng có đủ
lương thực cho mọi người và nạn đói là kết quả của một sự phân phối của cải và
thu nhập thấp kém. Vấn đề còn tồi tệ hơn nữa vì tình trạng phí phạm tràn
lan”.[158]
192.
Nhưng chúng ta còn ước ao nhiều hơn thế; ước mơ của chúng ta bay cao hơn. Chúng
ta không chỉ đang nói về việc bảo đảm dinh dưỡng hay một “điều kiện sinh sống
xứng đáng” cho mọi người, mà cả “hạnh phúc và sự thịnh vượng vật chất chung”
của họ.[159] Điều này có nghĩa là được hưởng một nền giáo dục, chăm sóc y tế,
và trên hết là việc làm, vì chính nhờ lao động tự do, sáng tạo, tham gia và
nâng đỡ lẫn nhau mà con người biểu hiện và nâng cao phẩm giá cuộc sống của họ.
Một mức lương công bằng sẽ giúp họ tiếp cận một cách thoả đáng mọi món hàng
khác để sử dụng trong đời sống bình thường.
Trung
thành với Tin Mừng, kẻo chúng ta ngược xuôi vô ích
193.
Chúng ta hiện thực hoá bổn phận nghe tiếng kêu của người nghèo khi chúng ta mủi
lòng trước cảnh đau khổ của người khác. Chúng ta hãy nghe lời Chúa dạy chúng ta
như thế nào về lòng thương người, và để cho lời ấy vang dội trong đời sống Hội
Thánh. Tin Mừng nói với chúng ta: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được
Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7). Thánh tông đồ Giacôbê dạy rằng lòng thương
người sẽ biện hộ cho chúng ta trong ngày Chúa phán xét: “Anh em hãy nói năng và
hành động như những người sẽ bị xét xử theo luật tự do. Vì Thiên Chúa không
thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót. Còn ai thương xót, thì chẳng
quan tâm đến việc xét xử” (Gc 2:12-13). Ở đây Thánh Giacôbê trung thành với
truyền thống tinh tế nhất của linh đạo Do Thái sau thời lưu đày, là linh đạo
gán cho lòng thương xót một giá trị đặc biệt: “Hãy gỡ bỏ các tội lỗi mình bằng
thực thi công chính, gỡ bỏ các điều gian ác bằng cách tỏ lòng thương xót với
những người bị áp bức, để may ra có thể kéo dài thời an bình của đức vua” (Đn
4:27 [4:24]). Các sách thuộc thể loại khôn ngoan quan niệm việc bố thí là một
cách thực thi cụ thể lòng thương xót đối với những người nghèo: “Việc bố thí
cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi” (Tb 12:9). Ý tưởng này thậm chí được
sách Huấn Ca diễn tả giàu hình ảnh hơn nữa: “Nước dập tắt lửa hồng, bố thí đền
bù tội lỗi” (Hc 3:30). Tân Ước cũng có cùng một tổng hợp: “Anh em hãy yêu
thương nhau nồng nàn, vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” (1 P 4:8).
Chân lý này đã ảnh hưởng sâu đậm đến các Giáo Phụ và giúp tạo nên một sự phản
kháng mang tính tiên tri và kháng văn hoá chống lại chủ nghĩa hưởng thụ ích kỷ
của ngoại giáo. Chúng ta có thể đơn cử một ví dụ: “Nếu chúng ta gặp nguy hiểm
vì lửa, chắc chắn chúng ta sẽ chạy đi lấy nước để dập tắt lửa... cũng vậy, nếu
một tia lửa tội lỗi bùng lên từ đống rơm của chúng ta làm chúng ta gặp rắc rối,
thì khi có cơ hội để thực thi một việc thương người, chúng ta phải vui mừng như
thể đang có trước mặt một suối nước để có thể dập tắt lửa”.[160]
194.
Thông điệp này quá rõ ràng và trực tiếp, quá đơn sơ và hùng hồn, nên không một
lối chú giải nào của Hội Thánh có quyền tương đối hoá nó. Suy tư của Hội Thánh
về các bản văn này không được che khuất hay làm yếu đi sức mạnh của nó, nhưng
thôi thúc chúng ta đón nhận những lời khuyên này một cách can đảm và nhiệt
tình. Tại sao lại phải làm cho một điều đơn sơ trở thành phức tạp? Các khái
niệm là những công cụ để tăng cường sự tiếp xúc với các thực tại chứ không phải
để làm chúng ta xa thực tại. Điều này đặc biệt đúng với những lời khuyên của
Kinh Thánh kêu gọi chúng ta một cách mạnh mẽ về tình yêu thương huynh đệ, về
việc phục vụ khiêm tốn và quảng đại, về công bằng và lòng thương xót đối với
người nghèo. Đức Giêsu dạy chúng ta cách nhìn này về người khác bằng chính
những lời nói và hành động của Ngài. Vậy cớ gì lại phải làm cho một điều đã quá
rõ trở nên khó hiểu? Chúng ta không được chỉ quan tâm tránh rơi vào những sai
lạc về giáo thuyết, mà còn phải lo sao để trung thành với con đường sự sống và
sự khôn ngoan chứa chan ánh sáng này. Vì “những người bênh vực sự chính thống
của học thuyết đôi khi bị tố cáo là thụ động, bao dung, hay đồng loã liên quan
đến những tình huống bất công không thể dung thứ và các thể chế chính trị nuôi
dưỡng chúng”.[161]
195.
Khi Thánh Phaolô lên Giêrusalem gặp các tông đồ tại để xác định rõ liệu ngài
đang “ngược xuôi hay đã ngược xuôi vô ích” (Gl 2:2), thì tiêu chí các ngài nêu
ra để đánh giá tính xác thực là ngài không được bỏ quên người nghèo (xem Gl
2:10). Nguyên tắc quan trọng này—nghĩa là các cộng đoàn của Phaolô không được
rơi vào lối sống vị kỷ của người ngoại giáo—vẫn còn mang tính thời sự hôm nay,
khi mà lối sống vị kỷ của một thứ ngoại giáo mới đang gia tăng. Có thể chúng ta
không luôn luôn suy tư đầy đủ được về vẻ đẹp của Tin Mừng, nhưng có một dấu
hiệu mà chúng ta không bao giờ được thiếu: chọn lựa vì những người hèn mọn
nhất, những người bị xã hội loại trừ.
196.
Đôi khi lòng trí chúng ta ra chai đá; chúng ta dễ quên, dễ phân tâm và bị lôi
đi bởi những khả năng tiêu thụ và giải trí vô giới hạn do xã hội ngày nay cung
cấp. Tình trạng này dẫn tới một sự tha hoá về mọi phương diện, vì “một xã hội
bị tha hoá khi các hình thức tổ chức xã hội, sản xuất và tiêu thụ của nó làm
cho người ta khó trao hiến bản thân mình và thiết lập tình liên đới giữa những
con người với nhau”.[162]
Vị trí
đặc biệt của người nghèo trong dân của Thiên Chúa
197.
Trong trái tim của Thiên Chúa có môt chỗ đặc biệt cho người nghèo, vì chính Thiên
Chúa “đã trở nên nghèo khó” (2 Cr 8:9). Toàn thể lịch sử cứu ðộ ðýợc ðánh dấu
bởi sự hiện diện của ngýời nghèo. Õn cứu ðộ ðến với chúng ta qua lời thýa “xin
vâng” thốt ra từ một thiếu nữ nghèo hèn xuất thân từ một làng nhỏ ở ngoài rìa
một đế quốc vĩ đại. Đấng Cứu Thế sinh ra trong một máng cỏ, giữa đàn súc vật,
giống như bao trẻ em của các gia đình nghèo; Ngài được dâng trong Đền Thờ với
một cặp bồ câu non, là loại lễ vật của những người không có khả năng mua một
con chiên con (xem Lc 2:24; Lv 5:7); Ngài được nuôi dạy trong một gia đình lao
động bình thường kiếm sống bằng bàn tay lao động của mình. Khi Ngài bắt đầu rao
giảng Nước Thiên Chúa, đám đông dân chúng nghèo hèn đi theo Ngài, minh hoạ cho
lời tuyên bố của Ngài: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn
phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4:18). Ngài quả quyết
với những người trĩu nặng buồn phiền và bị đè nặng bởi cảnh nghèo khó rằng
Thiên Chúa có một chỗ đặc biệt cho họ trong trái tim Người: “Phúc cho anh em là
những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6:20); Ngài đồng hoá
mình với họ: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn”, và Ngài dạy họ rằng lòng thương xót
đối với những người này là chìa khoá để vào nước trời (xem Mt 25:5tt.).
198.
Đối với Hội Thánh, lựa chọn người nghèo là một phạm trù chủ yếu thần học hơn là
một phạm trù xã hội học, chính trị hay triết học. Thiên Chúa tỏ “lòng thương
xót của Người trước tiên” cho những người nghèo.[163] Sự ưu ái này của Thiên
Chúa có những hệ quả cho đời sống đức tin của người Kitô hữu, vì chúng ta được
kêu gọi để có “tâm tình như Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2:5). Được gợi hứng bởi điều
này, Hội Thánh đã có sự chọn lựa vì người nghèo, được hiểu như là một “hình
thức đặc biệt của vị trí hàng đầu trong việc thực thi bác ái Kitô giáo mà toàn
thể truyền thống của Hội Thánh luôn làm chứng”.[164] Sự chọn lựa này—như Đức
Bênêđictô dạy—“hàm ẩn trong đức tin Kitô giáo của chúng ta vào một vị Thiên
Chúa đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để chúng ta trở nên giàu có với sự nghèo
khó của Người”.[165] Đây là lý do tại sao tôi muốn một Hội Thánh nghèo và cho
người nghèo. Họ có nhiều điều để dạy chúng ta. Không những họ tham dự vào cảm
thức đức tin (sensus fidei), nhưng nhưng giữa những khó khăn họ biết Đức
Kitô chịu đau khổ. Chúng ta cần phải để mình được phúc âm hoá bởi họ. Tân phúc
âm hoá là một lời mời gọi nhìn nhận quyền năng cứu độ đang hoạt động trong đời
sống của họ và đặt nó vào tâm điểm cuộc lữ hành của Hội Thánh. Chúng ta được
kêu gọi tìm thấy Đức Kitô nơi họ, lên tiếng bênh vực mục đích của họ, nhưng
đồng thời cũng là bạn của họ, nghe họ, nói với họ và ôm ấp sự khôn ngoan mầu
nhiệm mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta thông qua họ.
199.
Sự dấn thân của chúng ta không chỉ duy nhất hệ tại các hoạt động hay chương
trình thăng tiến và cứu giúp; cái mà Chúa Thánh Thần huy động không phải là một
thái độ hiếu hoạt vô trật tự, nhưng trên hết là một sự chú tâm coi người khác
“hầu như là một với chúng ta”.[166] Sự chú tâm yêu thương này là khởi đầu cho
một sự quan tâm thực sự đối với nhân vị của họ, thúc đẩy chúng ta hoạt động để
mưu cầu lợi ích cho họ. Điều này đòi hỏi sự trân trọng người nghèo trong lòng
tốt của họ, kinh nghiệm cuộc đời của họ, văn hoá của họ, và cách họ sống đức
tin. Tình yêu đích thực luôn luôn suy gẫm và cho phép chúng ta phục vụ người
khác không phải vì nhu cầu hay để phô trương, nhưng đúng hơn vì họ đẹp vượt
trên dáng vẻ bề ngoài của họ: “Tình yêu làm chúng ta thấy người khác dễ thương
khiến chúng ta tự ý trao tặng họ một điều gì đó”.[167] Khi được yêu, người
nghèo “được quí chuộng như một giá trị lớn”,[168] và đây chính là điều làm cho
chọn lựa đích thực vì người nghèo khác với mọi ý thức hệ khác, khác với mọi cố
gắng bóc lột người nghèo vì lợi ích cá nhân hay chính trị. Chỉ trên cơ sở của
sự gần gũi thực sự và chân thành này, chúng ta mới có thể đồng hành với người
nghèo trên con đường giải phóng của họ. Chỉ có sự gần gũi này mới bảo đảm rằng
“trong mỗi cộng đồng Kitô giáo, người nghèo cảm thấy như ở nhà mình. Đây chẳng
phải là phương pháp quan trọng và hiệu quả nhất để loan báo tin mừng về Nước
Thiên Chúa sao?”[169] Nếu không có sự lựa chọn ưu tiên vì người nghèo, “việc
rao giảng Tin Mừng, tự nó là hình thức cơ bản của đức ái, sẽ có nguy cơ bị ngộ
nhận hay bị nhấn chìm bởi đại dương những lời nói hằng ngày nuốt trửng chúng ta
trong cái xã hội truyền thông hôm nay”.[170]
200.
Vì Tông Huấn này nói với các thành viên Hội Thánh Công Giáo, tôi muốn nói với
lòng đau buồn rằng sự kỳ thị tồi tệ nhất mà người nghèo phải chịu là thiếu chăm
sóc thiêng liêng. Đa số người nghèo có một sự mở lòng đặc biệt với đức tin; họ
cần Thiên Chúa và chúng ta không thể không cống hiến cho họ tình bạn, sự chúc
lành, lời nói, việc cử hành các bí tích và một hành trình lớn lên và trưởng
thành trong đức tin. Chọn lựa ưu tiên của chúng ta vì người nghèo phải chủ yếu
trở thành một sự chăm sóc tôn giáo đặc biệt và ưu tiên cho họ.
201.
Không ai được nói mình không thể gần gũi người nghèo vì nếp sống của mình đòi
hỏi phải chú ý tới những lãnh vực khác. Đây là một lời bao biện thường nghe
thấy trong các giới học thuật, doanh nghiệp hay chuyên môn, thậm chí cả trong
giới giáo sĩ. Tuy đúng là ơn gọi cơ bản của người tín hữu giáo dân là cố gắng
làm cho các thực tại trần thế và mọi hoạt động nhân loại được biến đổi bởi Tin
Mừng,[171] nhưng không một ai trong chúng ta được miễn khỏi sự quan tâm tới
người nghèo và công bằng xã hội: “Sự hoán cải thiêng liêng, tình yêu sâu đậm
với Thiên Chúa và tha nhân, nhiệt tình đối với công lý và hoà bình, ý nghĩa Tin
Mừng của người nghèo và cảnh nghèo, là những điều đòi hỏi mọi người”.[172] Tôi
e rằng chính những lời này cũng có thể khơi dậy những lời bình phẩm hay tranh
luận mà không thực sự đem lại hiệu quả thực hành nào. Nói vậy, nhưng tôi tin
vào sự cởi mở của mọi Kitô hữu, và tôi xin anh chị em, với tư cách một cộng
đồng, tìm ra những cách thức sáng tạo để chấp nhận lời kêu gọi canh tân này.
Kinh
tế và sự phân phối nguồn thu nhập
202.
Nhu cầu giải quyết các nguyên nhân của nghèo khó không thể bị trì hoãn, không
chỉ vì lý do thực dụng là sự cấp bách của nó đối với trật tự tốt đẹp của xã
hội, mà còn vì xã hội cần được chữa khỏi căn bệnh đang làm nó suy yếu và thất
bại và chỉ có thể dẫn tới những khủng hoảng mới. Các chương trình an sinh xã
hội đáp ứng được một số nhu cầu khẩn cấp, nhưng chỉ được coi là những giải pháp
tạm thời. Chừng nào mà các vấn đề của người nghèo không được giải quyết triệt
để bằng cách loại bỏ tính tự trị tuyệt đối của các thị trường và nạn đầu cơ tài
chánh cũng như bằng cách tấn công vào các nguyên nhân của cơ cấu bất bình
đẳng,[173] thì không một giải pháp nào có thể được tìm thấy cho các vấn đề của
thế giới, hay cho bất cứ vấn đề nào trong lãnh vực này. Bất bình đẳng là cội rễ
của mọi tệ nạn xã hội.
203.
Phẩm giá của mỗi con người và sự mưu cầu lợi ích chung là những mối quan tâm
phải định hình mọi chính sách kinh tế. Tuy nhiên có khi chúng chỉ là những thêm
thắt từ bên ngoài để bù đắp cho một lý thuyết chính trị thiếu tầm nhìn hay
thiếu kế hoạch cho một sự phát triển toàn diện. Biết bao nhiêu từ gây khó chịu
cho hệ thống này! Khó chịu khi vấn đề đạo đức được nêu lên, khi tình liên đới
toàn cầu được khơi dậy, khi sự phân phối của cải được nhắc đến, khi có ám chỉ
về một vị Thiên Chúa đòi hỏi sự dấn thân cho công lý. Khi khác, các vấn đề này
bị khai thác bởi một hình thức tu từ làm cho chúng trở nên rẻ mạt. Thỉnh thoảng
sự dửng dưng trước những vấn đề như thế làm cho cuộc đời chúng ta trở nên trống
rỗng và các lời nói của chúng ta mất hết ý nghĩa. Kinh doanh là một ơn gọi, một
ơn gọi cao quí, miễn là những người tham gia kinh doanh thấy mình được thách
thức bởi một ý nghĩa lớn hơn trong cuộc sống; nó sẽ giúp họ thực sự phục vụ
công ích bằng cách cố gắng làm gia tăng của cải cho thế giới này và làm cho mọi
người có thể có nhiều của cải hơn.
204.
Chúng ta không còn có thể tin vào những lực lượng giấu mặt và bàn tay vô hình
của thị trường. Gia tăng sự công bằng đòi hỏi một cái gì lớn hơn là tăng trưởng
kinh tế, trong khi vẫn nhìn nhận sự tăng trưởng này: nó đòi hỏi những quyết
định, chương trình, cơ chế vận hành và các qui trình được thiết kế chuyên biệt
để có một sự phân phối thu nhập tốt hơn, tạo ra các nguồn lực về việc làm và
một sự thăng tiến toàn diện người nghèo, một sự thăng tiến vượt lên trên não
trạng thuần tuý an sinh. Tôi hoàn toàn không chủ trương một thứ chủ nghĩa dân
tuý vô trách nhiệm, nhýng nền kinh tế không còn có thể cậy dựa vào những liều
thuốc mà thực ra là những bài thuốc độc mới, như tìm cách tăng lợi nhuận bằng
việc giảm lực lượng lao động khiến thành phần những người bị loại trừ tăng lên.
205.
Tôi cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta nhiều chính trị gia có khả năng đối
thoại chân thành và hiệu quả nhằm chữa lành những cội rễ sâu nhất—chứ không chỉ
những hiện tượng—của những sự dữ trong thế giới chúng ta! Chính trị, dù thường
bị chê bai, vẫn là một ơn gọi cao cả và một trong những hình thức cao quí nhất
của bác ái, khi nó tìm kiếm lợi ích chung.[174] Chúng ta cần xác tín rằng bác
ái “là nguyên tắc không chỉ của các mối quan hệ vi mô (với bạn bè, với các
thành viên trong gia đình hay trong các nhóm nhỏ), mà còn là nguyên tắc của các
mối quan hệ vĩ mô (các quan hệ xã hội, kinh tế và chính trị)”.[175] Tôi cầu xin
Chúa cho chúng ta nhiều chính trị gia biết thực lòng lo âu trước tình trạng của
xã hội, dân chúng, và cuộc sống của những người nghèo! Điều cốt tử là các lãnh
đạo chính quyền và các lãnh đạo tài chánh biết lắng nghe và mở rộng tầm nhìn
của mình, làm việc để bảo đảm mọi công dân có công ăn việc làm, sự giáo dục và
chăm sóc sức khoẻ xứng đáng. Sao chúng ta không chạy đến với Thiên Chúa để xin
Người soi sáng cho các kế hoạch của họ? Tôi hoàn toàn tin chắc rằng sự mở lòng
với Đấng Siêu Việt có thể đem lại một não trạng mới về chính trị và kinh tế có
khả năng phá đổ bức tường ngăn cách giữa kinh tế và lợi ích chung của xã hội.
206.
Kinh tế, như chính từ này diễn tả, phải là nghệ thuật để đạt được một sự quản
lý thích hợp cho ngôi nhà chung của chúng ta, nghĩa là cho thế giới xét như một
toàn thể. Mỗi một quyết định có ý nghĩa về kinh tế được thực hiện tại một vùng
trên thế giới có tác động tại mọi nơi khác; do đó, không một chính quyền nào có
thể hành động mà không quan tâm tới trách nhiệm chung. Thực vậy, ngày càng khó
tìm ra những giải pháp địa phương cho những vấn đề to lớn toàn cầu phủ lên các
nền kinh tế địa phương đang gặp những vấn đề khó giải quyết. Nếu chúng ta thực
sự muốn đạt được một nền kinh tế toàn cầu vững mạnh, điều cần ở giao điểm này
của lịch sử là một cách thức tương tác hữu hiệu hơn, trong khi tôn trọng chủ
quyền của mỗi quốc gia, nó bảo đảm sự thịnh vượng kinh tế của tất cả các nước,
chứ không chỉ của một số ít.
207.
Bất cứ cộng đồng Kitô giáo nếu nghĩ rằng mình có thể ung dung đi theo con đường
riêng của mình mà không có sự hợp tác sáng tạo và hiệu quả trong việc giúp
người nghèo sống hợp với nhân phẩm, và không vượt ra khỏi bản thân mình để đến
với người khác, cộng đồng ấy có nguy cơ bị đổ vỡ, cho dù nó có thể nói về các
vấn đề xã hội hay chỉ trích chính phủ. Nó sẽ dễ rơi vào thái độ thế tục thiêng
liêng được che đậy bởi những việc thực hành tôn giáo, những cuộc gặp gỡ vô bổ
và những lời nói rỗng tuếch.
208.
Nếu có ai bị xúc phạm bởi những lời tôi nói, tôi muốn trả lời rằng tôi nói với
họ với lòng yêu mến và thiện ý, không hề vì một chút tư lợi hay ý hệ chính trị
nào cả. Những lời tôi nói không phải của một kẻ thù hay đối thủ. Tôi chỉ muốn
giúp những ai đang bị lệ thuộc vào não trạng cá nhân chủ nghĩa, dửng dưng và vị
kỷ, để họ có thể thoát khỏi những sợi dây trói buộc không đáng có và đạt được
một cách sống và tư duy nhân đạo hơn, cao thượng và hiệu quả hơn, đem lại phẩm
giá cho sự hiện diện của họ trên mặt đất này.
Quan
tâm tới thành phần dễ tổn thương
209.
Là người rao giảng Tin Mừng tuyệt hảo và là hiện thân của Tin Mừng, Đức Giêsu
đặc biệt tự đồng hoá mình với những người hèn mọn (xem Mt 25:40). Sự kiện này
nhắc nhớ người Kitô hữu chúng ta rằng chúng ta được kêu gọi chăm sóc những người
dễ bị tổn thương trên thế giới này. Nhưng mô hình hiện nay, với sự nhấn mạnh
vào thành công và sự tự lực, xem ra không thuận lợi cho việc đầu tư vào các nỗ
lực cứu giúp những người thấp hèn, yếu đuối hay ít khả năng để họ có thể tìm ra
những cơ hội trong cuộc sống.
210.
Điều cơ bản là phải tiếp cận các hình thức mới của tình trạng nghèo khó và dễ
tổn thương mà chúng ta được kêu gọi đi vào để nhận ra Đức Kitô chịu đau khổ, cả
khi việc này có vẻ như không mang lại cho chúng ta lợi ích cụ thể và tức thời nào.
Tôi nghĩ đến những người vô gia cư, những người nghiện ngập, những người tỵ
nạn, những dân tộc bản địa, những người già đang ngày càng bị cô lập và bỏ rơi,
mà nhiều thành phần khác. Thành phần di dân là một thách thức đặc biệt đối với
tôi, vì tôi là mục tử của một Giáo Hội không biên giới, một Giáo Hội coi mình
là mẹ cho mọi người. Vì lý do này, tôi khuyến khích tất cả các nước hãy quảng
đại mở cửa, và thay vì sợ mất đi bản sắc địa phương của mình, họ sẽ có khả năng
tạo ra những hình thức tổng hợp văn hoá mới. Đẹp biết bao những thành phố vượt
qua được thái độ nghi kỵ tê cứng của mình để đón nhận những người khác với mình
và làm cho sự hội nhập này trở thành một nhân tố phát triển mới! Hấp dẫn biết
bao những thành phố mà, ngay cả trong thiết kế kiến trúc của họ, có đầy những
không gian để nối kết, liên hệ và tạo thuận lợi cho sự nhìn nhận người khác!
211.
Tôi luôn luôn đau buồn trước số phận của nhiều người là nạn nhân của các kiểu
buôn người khác nhau. Ước gì tất cả chúng ta nghe được tiếng kêu của Thiên
Chúa: “Em ngươi đâu?” (St 4:9). Anh em chị em ngươi bị nô lệ đang ở đâu? Anh
chị em người đang bị giết mỗi ngày nơi những nhà kho hàng lậu, nơi những ổ gái
điếm, nơi nhữ trẻ em bị bắt đi ăn xin, nơi việc bóc lột sức lao động không có
giấy tờ gì. Chúng ta đừng nhìn cách khác. Có một sự đồng loã nghiêm trọng hơn
chúng ta tưởng. Vấn đề liên quan đến mọi người! Mạng lưới tội phạm ghê tởm bây
giờ đã được thiết lập hẳn hoi tại các thành phố của chúng ta, và tay nhiều
người đã vấy máu do hậu quả của sự đồng loã trong thái độ ung dung và im lặng
của họ.
212.
Nghèo gấp đôi là những phụ nữ đang phải sống trong hoàn cảnh bị loại trừ, đối
xử tệ hại và bạo lực, vì họ thường có ít khả năng bảo vệ quyền lợi của họ. Dù
vậy chúng ta không ngừng chứng kiến giữa họ những tấm gương anh hùng hằng ngày
trong việc bảo vệ và bênh vực các gia đình dễ thương tổn của họ.
213.
Trong số những thành phần dễ tổn thương mà Hội Thánh muốn chăm sóc bằng t́nh
thương và quan tâm đặc biệt là những thai nhi, những đứa trẻ vô phương tự vệ và
vô tội nhất trong chúng ta. Ngày nay người ta đang cố phủ nhận nhân phẩm của
các thai nhi và làm bất cứ điều gì họ thích về chúng, cướp mất mạng sống của
chúng và ra các đạo luật chống lại bất cứ ai cản đường họ. Rất thường xuyên, để
nhạo báng nỗ lực của Hội Thánh nhằm bảo vệ mạng sống các thai nhi, người ta ra
sức mô tả lập trường của Hội Thánh như là ý thức hệ, ngu dân và bảo thủ. Nhưng
việc bảo vệ sự sống chưa được sinh ra này liên hệ mật thiết với việc bảo vệ tất
cả các quyền khác của con người. Nó bao hàm niềm tin rằng một con người luôn
luôn là thánh thiêng và bất khả xâm phạm, trong mọi hoàn cảnh và mọi giai đoạn
phát triển của nó. Con người tự nó là mục đích chứ không bao giờ là phương tiện
để giải quyết các vấn đề khác. Một khi mất niềm tin này, thì cũng mất các nền
tảng vững chắc và lâu bền của việc bảo vệ quyền con người, và khi ấy tất cả sẽ
lệ thuộc ý thích tuỳ tiện của các thế lực nắm quyền. Một mình lý trí cũng đủ để
nhìn nhận giá trị bất khả xâm phạm của mỗi mạng người, nhưng nếu chúng ta cũng
nhìn vấn đề từ quan điểm đức tin, “mọi vi phạm nhân phẩm của cá nhân đòi sự báo
oán của Thiên Chúa và là một sự xúc phạm đối với Đấng dựng nên mỗi cá
nhân”.[176]
214.
Chính vì điều này bao hàm sự nhất quán nội tại của sứ điệp của chúng ta về giá
trị của nhân vị, không thể nào mong đợi Hội Thánh thay đổi lập trường của mình
về vấn đề này. Tôi muốn hoàn toàn thành thật trong vấn đề này. Đây không phải
một cái gì phụ thuộc vào những kiểu được cho là cải cách hay “hiện đại hoá”.
Tìm cách giải quyết các vấn ðề bằng việc loại trừ sự sống con ngýời thì không
phải là “tiến bộ”. Mặt khác, cũng đúng là chúng ta đã làm quá ít để hỗ trợ thoả
đáng các phụ nữ trong các tình huống rất khó khăn, khi mà việc phá thai được
xem là giải pháp nhanh cho mối lo lắng sâu xa của họ, đặc biệt khi sự sống đang
phát triển bên trong họ là kết quả của hành vi cưỡng hiếp hay một hoàn cảnh
nghèo khó tột cùng. Ai có thể điềm nhiên trước những tình huống đau đớn này?
215.
Có những tạo vật yếu đuối và vô phương tự vệ khác thường xuyên phải làm nô lệ
cho những lợi lộc kinh tế và sự bóc lột bừa bãi. Tôi đang nói đến toàn thể tạo
thành. Loài người chúng ta không chỉ là những người được thụ hưởng nhưng còn là
những người quản lý các tạo vật khác. Nhờ chúng ta có thân xác, Thiên Chúa đã
kết hợp chúng ta quá mật thiết với thế giới xung quanh khiến chúng ta cảm thấy
tình trạng sa mạc hoá đất đai gần như là một căn bệnh nơi thân xác chúng ta, và
sự tuyệt chủng của một loài như là một sự biến dạng đau đớn. Chúng ta đừng để
lại sau mình vết tích của sự tàn phá và chết chóc sẽ ảnh hưởng tới đời sống của
chính chúng ta và của các thế hệ tương lai.[177] Ở đây tôi muốn lấy lại làm của
mình lời than thở đầy cảm động và có tính tiên tri mà các giám mục Philíppin đã
thốt lên ít năm trước đây: “Một số lượng nhiều vô kể các loài côn trùng sinh
sống trong rừng và bận bịu với đủ loại công việc... Các loài chim bay trên
trời, các bộ lông sặc sỡ cùng với tiếng hót líu lo của chúng tạo thêm màu sắc
và tiếng ca cho những cánh rừng xanh... Thiên Chúa muốn dành mảnh đất này cho
chúng ta, những tạo vật đặc biệt của Người, nhưng không phải để chúng ta huỷ
diệt nó và biến nó thành một mảnh đất hoang... Chỉ sau một đêm mưa, thử nhìn
xuống những dòng sông nâu xạm màu sôcôla tại địa phương của chúng ta và nhớ
rằng chúng đang mang máu sự sống ra biển... Làm sao cá có thể bơi lội trong
những dòng nước thải như con sông Pasig và biết bao nhiêu con sông khác mà
chúng ta đã làm ô nhiễm? Ai đã biến cái thế giới kỳ diệu của biển cả thành
những nghĩa trang dưới nước không màu sắc và không sự sống?”[178]
216.
Là những tạo vật bé nhỏ nhưng mạnh mẽ trong tình yêu Thiên Chúa giống như Thánh
Phanxicô, mọi người Kitô hữu chúng ta được kêu gọi canh chừng và bảo vệ cái thế
giới mong manh mà chúng ta đang sống, cùng với tất cả dân cư của nó.
III. CÔNG ÍCH VÀ HOÀ BÌNH TRONG XÃ HỘI
217.
Chúng ta đã nói nhiều về niềm vui và tình yêu, nhưng lời Chúa cũng nói về những
hoa quả của hoà bình (xem Gl 5:22).
218.
Hoà bình trong xã hội không thể được hiểu như là sự bình định hay vắng bóng bạo
lực do sự thống trị của một bộ phận xã hội trên các bộ phận khác. Hoà bình thực
cũng không phải là cái cớ để biện minh cho một cơ cấu xã hội làm cho người
nghèo phải câm miệng hay chịu cam phận, để cho những kẻ giàu có hơn có thể ung
dung hưởng thụ nếp sống của họ đang khi những người khác phải cố sống được thế
nào hay thế ấy. Những đòi hỏi về sự phân phối của cải, sự quan tâm tới người
nghèo và các quyền con người không thể được dập tắt bằng cái vỏ bọc tạo ra một
sự đồng thuận trên giấy tờ hay một thứ hoà bình tạm bợ cho một thiểu số mãn
nguyện. Phẩm giá con người và công ích giữ vị trí cao hơn sự tiện nghi của những
người không chấp nhận từ bỏ những đặc quyền của mình. Khi những giá trị này bị
đe doạ, cần phải gióng lên một tiếng nói tiên tri.
219.
Hoà bình cũng không phải “chỉ là không có chiến tranh, dựa trên một thế cân
bằng lực lượng bấp bênh; hoà bình được hình thành bởi những cố gắng hằng ngày
nhằm thiết lập một vũ trụ có trật tự theo ý muốn của Thiên Chúa, với một nền
công lý hoàn hảo hơn giữa những con người”.[179] Sau cùng, một nền hoà bình mà
không phải là kết quả của sự phát triển toàn diện thì sẽ đi đến thất bại; nó sẽ
luôn luôn sinh ra những xung đột mới và những hình thức bạo lực mới.
220.
Người dân tại mọi quốc gia phát huy chiều kích xã hội của cuộc sống họ bằng
cách hành động như những công dân dấn thân và có trách nhiệm, chứ không phải
như một đám đông đu đưa theo bất cứ thế lực nào. Chúng ta không được quên rằng
“tư cách công dân có trách nhiệm là một nhân đức, và sự tham gia đời sống chính
trị là một bổn phận đạo đức”.[180] Nhưng trở thành một dân tộc đòi
hỏi nhiều hơn thế. Nó là một tiến trình thường xuyên trong đó mỗi thế hệ mới
phải tham gia: một cố gắng chậm chạp và vất vả đòi hỏi một ước muốn hoà nhập và
một sự sẵn sàng đạt được điều này qua sự phát triển một nền văn hoá của sự gặp
gỡ trong hoà bình và đa dạng.
221.
Sự tiến bộ trong việc xây dựng một dân tộc trong hoà bình, công bằng và huynh
đệ tuỳ thuộc bốn nguyên tắc liên quan tới các mối căng thẳng thường xuyên hiện
hữu trong mọi thực tại xã hội. Các nguyên tắc này bắt nguồn từ các cột trụ của
học thuyết xã hội của Hội Thánh, được dùng như “những thông số tham khảo hàng
đầu và cơ bản để giải thích và đánh giá các hiện tượng xã hội”.[181] Trong ánh
sáng này, bây giờ tôi muốn nêu lên bốn nguyên tắc cụ thể này để hướng dẫn sự
phát triển của đời sống trong xã hội và xây dựng một dân tộc mà ở đó các khác
biệt được trở nên hoà hợp trong một cố gắng chung. Tôi làm điều này với niềm
tin rằng việc áp dụng chúng có thể là một con đường đúng đắn dẫn tới hoà bình
trong mỗi quốc gia và trong toàn thế giới.
Thời
gian lớn hơn không gian
222.
Có một sự căng thẳng thường xuyên giữa sự viên mãn và sự giới hạn. Viên mãn gợi
ra ước muốn chiếm hữu hoàn toàn, trong khi giới hạn là một bức tường chắn trước
mặt chúng ta. Hiểu theo nghĩa rộng, “thời gian” chỉ về sự viên mãn như là biểu
thị của chân trời không ngừng rộng mở trước mặt chúng ta, trong khi từng khoảnh
khắc chỉ về sự giới hạn như là biểu thị của trạng thái đóng kín. Người ta sống
trong tình trạng căng thẳng giữa từng khoảnh khắc và cái chân trời lớn hơn,
sáng hơn của một tương lai không tưởng như là mục đích cuối cùng lôi kéo chúng
ta tới. Ở đây chúng ta có một nguyên tắc đầu tiên cho sự tiến bộ trong việc xây
dựng một dân tộc: thời gian lớn hơn không gian.
223.
Nguyên tắc này giúp chúng ta hoạt động từ từ nhưng chắc chắn, không bị ám ảnh
bởi những kết quả tức thì. Nó giúp chúng ta kiên nhẫn chịu đựng những khó khăn
và nghịch cảnh, hay những thay đổi không tránh khỏi trong các kế hoạch của
mình. Nó mời gọi chúng ta chấp nhận sự căng thẳng giữa sự viên mãn và sự giới
hạn, và dành ưu tiên cho thời gian. Một trong các khuyết điểm chúng ta thường
gặp trong hoạt động chính trị-xã hội là người ta thích không gian và quyền lực
hơn thời gian và các qui trình. Dành ưu tiên cho không gian có nghĩa là điên
cuồng tìm cách níu kéo tất cả trong hiện tại, cố gắng chiếm hữu tất cả các
không gian của quyền lực và sự tự khẳng định mình; là cô đọng các qui trình và
cố níu kéo chúng. Dành ưu tiên cho thời gian có nghĩa là quan tâm tới việc khởi
động các qui trình hơn là chiếm hữu không gian. Thời gian điều khiển các không
gian, soi sáng chúng và biến chúng thành những mắt xích trong một chuỗi xích
kéo dài, không có khả năng quay ngược trở lại. Vì vậy cái chúng ta cần là dành
ưu tiên cho các hành động phát sinh các qui trình mới trong xã hội và lôi kéo
sự tham gia của những người khác và những nhóm khác, những người có thể phát
triển chúng tới chỗ chúng sinh hoa kết quả trong các biến cố lịch sử quan
trọng. Không lo âu, nhưng đầy những xác tín rõ ràng và sự bền bỉ.
224.
Thỉnh thoảng tôi tự hỏi liệu có ai trong thế giới hôm nay thực sự quan tâm tới
việc tạo ra các qui trình xây dựng con người, thay vì muốn đạt được những kết
quả tức thì đem lại những lợi lộc chính trị nhanh và ngắn hạn, mà không phát
triển sự sung mãn của con người. Có lẽ lịch sử sẽ phán xét hạng người thứ hai
này với tiêu chí được đề ra bởi Romano Guardini: “Thước đo duy nhất để đánh giá
đúng một thời đại là hỏi xem nó có nuôi dưỡng sự phát triển và thành đạt của
một cuộc sống con người sung mãn và thực sự có ý nghĩa, phù hợp với nét đặc
trưng và các khả năng của thời đại ấy”.[182]
225.
Tiêu chí này cũng được áp dụng cho việc loan báo Tin Mừng, là công việc đòi
phải chú ý tới bức tranh lớn, mở ra cho các qui trình thích hợp và quan tâm tới
dài hạn. Chính Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế này thường khuyến cáo các
môn đệ rằng có những điều bây giờ họ chưa hiểu và họ sẽ phải chờ Chúa Thánh
Thần đến (xem Ga 16:12-13). Dụ ngôn cỏ lùng giữa ruộng lúa (xem Mt 13:24-30)
minh hoạ cho một khía cạnh quan trọng của loan báo Tin Mừng: kẻ thù có thể xâm
nhập vào Nước Chúa và gieo tai hoạ, nhưng cuối cùng hắn sẽ bị đánh bại bởi sự
tốt lành của cây lúa.
Hiệp
nhất lướt thắng xung đột
226.
Xung đột không thể được làm ngơ hay che giấu. Phải đối diện nó. Nhưng nếu chúng
ta bị mắc kẹt trong xung đột, chúng ta mất tầm nhìn, chân trời của chúng ta bị
thu nhỏ lại và chính thực tại bắt đầu tan rã. Ở trong xung đột, chúng ta mất ý
thức về sự duy nhất sâu xa của thực tại.
227.
Khi xảy ra xung đột, một số người chỉ biết nhìn rồi bỏ đi như thể chẳng có gì
xảy ra; họ phủi tay rồi tiếp tục cuộc sống của mình. Những người khác thì bám
chặt lấy nó khiến họ trở thành tù nhân của nó; họ bị mất phương hướng, phóng
chiếu sự hoang mang và bất mãn của họ vào các tổ chức và vì thế làm cho không
thể nào có được sự hiệp nhất. Nhưng cũng có một cách thứ ba, và đây là cách tốt
nhất để xử lý xung đột. Đó là sẵn sàng trực diện với xung đột, giải quyết nó và
làm nó trở thành mắt xích trong sợi dây của một qui trình mới. “Phúc cho những
ai xây dựng hoà bình!” (Mt 5:9).
228.
Bằng cách này, việc xây dựng hiệp thông giữa những bất đồng là điều có thể,
nhưng nó chỉ có thể đạt được bởi những con người tuyệt vời biết vượt lên trên
bề mặt của xung đột và nhìn người khác trong nhân phẩm sâu xa nhất của họ. Điều
này đòi hỏi phải nhìn nhận một nguyên tắc thiết yếu cho việc xây dựng tình bạn
trong xã hội: đó là hiệp nhất lớn hơn xung đột. Như thế tình liên đới, hiểu
theo nghĩa sâu xa nhất và thách thức nhất của nó, trở thành một cách để làm
lịch sử trong một môi trường sống mà các xung đột, căng thẳng và đối kháng có
thể đạt được một sự hiệp nhất đa dạng và đem lại sức sống. Đây không phải là
chọn một thái độ ba phải, hay chọn cách hoà tan người này vào người kia, nhưng
là chọn một cách giải quyết trên bình diện cao hơn và giữ lại điều gì có giá
trị và ích lợi ở cả hai bên.
229.
Đây là nguyên tắc được rút ra từ Tin Mừng, nó nhắc nhớ chúng ta rằng Đức Kitô
đã qui tụ mọi sự nơi bản thân Ngài: trời và đất, Thiên Chúa và con người, thời
gian và vĩnh cửu, thể xác và tinh thần, con người và xã hội. Dấu hiệu của sự
hiệp nhất và hoà giải muôn loài này trong Ngài chính là hoà bình. Đức Kitô
chính là “sự bình an của chúng ta” (Ep 2:14). Sứ điệp Tin Mừng luôn luôn bắt
đầu bằng một câu chúc bình an, và bình an ở mọi thời đều làm rạng danh và xác
nhận các mối quan hệ giữa các môn đệ Đức Kitô. Hoà bình là điều có thể, vì Chúa
đã thắng thế gian và sự xung đột thường xuyên của nó “bằng cách hòa giải nhờ
máu Ngài đổ ra trên thập giá” (Cl 1:20). Nhưng nếu chúng ta nhìn kỹ hơn những
đoạn Kinh Thánh này, chúng ta sẽ thấy rằng quĩ đạo của sự hoà giải các khác
biệt này nằm trong chính chúng ta, trong cuộc đời chúng ta, vốn luôn luôn bị đe
doạ bởi sự chia rẽ và đổ vỡ.[183] Nếu các trái tim bị phân tán thành hàng ngàn
mảnh, thì không dễ tạo được hoà bình đích thực trong xã hội.
230.
Thông điệp hoà bình không nói về một sự dàn xếp qua thương lượng, nhưng là một
niềm tin chắc rằng sự hiệp nhất mà Chúa Thánh Thần đem đến có thể hoà giải mọi
khác biệt. Nó khắc phục mọi xung đột bằng cách tạo ra một tổng hợp mới và đầy
triển vọng. Sự khác biệt là một nét đẹp khi nó có thể không ngừng đi vào một
qui trình hoà giải và đóng ấn cho một thứ giao ước văn hoá dẫn đến một sự “đa
dạng hoà giải”. Như các giám mục Congo đã diễn tả: “Sự đa dạng sắc
tộc của chúng ta là tài sản quí báu của chúng ta... Chỉ trong sự hiệp nhất, nhờ
sự hoán cải của các tâm hồn và sự hoà giải, chúng ta có thể giúp đất nước mình
phát triển trên mọi bình diện”.[184]
Thực
tại lớn hơn ý tưởng
231.
Cũng có một sự căng thẳng thường xuyên giữa các ý tưởng và các thực tại. Các
thực tại thì hiện hữu, còn các ý tưởng thì được làm ra. Phải có sự đối thoại
liên tục giữa thực tại và ý tưởng, nếu không các ý tưởng sẽ trở thành xa rời
thực tại. Thật nguy hiểm khi chỉ dừng lại ở những lời nói suông, những hình ảnh
và những bài diễn văn hay. Vì vậy chúng ta có một nguyên tắc thứ ba: các thực
tại lớn hơn các ý tưởng. Nguyên tắc này đòi chúng ta phải bác bỏ các phương
tiện khác nhau nhằm che giấu thực tại: các dạng tinh tuyền siêu phàm, sự chuyên
chế của chủ nghĩa tương đối, những lời nói sáo rỗng, những mục tiêu lý tưởng nhưng
không thực tế, những nhãn hiệu của chủ nghĩa cực đoan phi lịch sử, những hệ
thống đạo đức không có tình thương, những nghị luận trí thức không có minh
triết.
232.
Các ý tưởng là kết quả của sự khai triển các khái niệm, chúng được dùng để
truyền thông, hiểu biết và thực hành. Các ý tưởng tách rời khỏi thực tại thường
tạo ra những hình thức duy tâm và duy danh vô bổ, cùng lắm cũng chỉ giúp phân
loại và định nghĩa, nhưng chắc chắn không dẫn đến hành động. Các thực tại được
lý trí soi sáng mới thúc đẩy chúng ta đến hành động. Thái độ duy danh hình thức
phải nhường chỗ cho tính khách quan hài hoà. Nếu không, chân lý sẽ bị xuyên
tạc, đồ mỹ phẩm sẽ thế chỗ cho sự chăm sóc thân xác thực sự.[185] Có những
chính trị gia—thậm chí cả lãnh đạo tôn giáo—thường thắc mắc tại sao người ta
không hiểu và theo họ, vì các đề nghị của họ quá rõ ràng và hợp lý. Lý do có lẽ
là vì họ bị mắc kẹt trong lãnh vực các ý tưởng thuần tuý, dẫn đến việc giản
lược chính trị và đức tin vào văn chương ngôn từ. Có những người khác bỏ hẳn sự
đơn sơ để miệt mài với một thứ lý luận xa lạ với đa số dân chúng.
233.
Các thực tại lớn hơn các ý tưởng. Nguyên tắc này liên quan tới sự nhập thể của
lời và được đưa vào thực hành: “Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra Thần Khí
của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Ðấng đã đến và trở
nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa” (1 Ga 4:2). Nguyên tắc về thực
tại, về một lời đã nhập thể và không ngừng cố gắng nhập thể mãi, là nguyên tắc
cơ bản cho việc loan báo Tin Mừng. Nó giúp chúng ta thấy rằng lịch sử Hội Thánh
là một lịch sử cứu độ, giúp chúng ta nhớ đến những vị thánh đã đưa Tin Mừng
nhập thể vào đời sống của các dân tộc và gặt hái những hoa của của truyền thống
hai ngàn năm của Hội Thánh, mà không cần làm ra một hệ tư tưởng tách rời kho
tàng này, như thể chúng ta muốn phát minh ra Tin Mừng một lần nữa. Đồng thời,
nguyên tắc này thúc đẩy chúng ta đưa lời ra thực hành, thể hiện những công cuộc
bác ái và công bằng để làm cho lời ấy sinh hoa kết quả. Không đưa lời vào thực
hành, không biến lời thành thực tại, tức là xây trên cát, dừng lại ở trạng thái
thuần ý tưởng và dẫn đến tình trạng bất động và vô hiệu quả của chủ nghĩa vị kỷ
và ngộ đạo.
Toàn
thể lớn hơn thành phần
234.
Cũng có một sự căng thẳng tự nhiên giữa toàn cầu hoá và địa phương hoá. Chúng
ta cần chú ý tới cái toàn cầu để tránh sự hẹp hòi và tầm thường. Nhưng chúng ta
cũng cần nhìn đến cái địa phương để giữ chân luôn chạm đất. Đi chung với nhau,
cả hai giúp chúng ta tránh rơi vào một trong hai thái cực. Ở thái cực thứ nhất,
người ta bị mắc kẹt vào một vũ trụ toàn cầu hoá trừu tượng, họ lẽo đẽo theo sau
bước chân mọi người khác, trầm trồ khen ngợi cái thế giới hào nhoáng của những
người khác, há hốc miệng và vỗ tay khi gặp lúc. Ở thái cực thứ hai, người ta
tìm đến với một bảo tàng của các truyện dân gian địa phương, một thế giới
riêng, cứ quanh quẩn mãi với cùng những cái cũ, và không có khả năng để mình
được thách thức bởi cái mới hay quí chuộng cái đẹp mà Thiên Chúa ban bên ngoài
đường biên giới của họ.
235.
Toàn thể lớn hơn thành phần, nhưng cũng lớn hơn tổng số các thành phần. Vì vậy,
không cần bị ám ảnh quá nhiều bởi những vấn đề hạn hẹp và riêng biệt. Chúng ta
cần không ngừng mở rộng chân trời của mình để thấy cái tốt lớn hơn mà tất cả
chúng ta đều được hưởng. Nhưng phải làm điều này mà không tìm cách trốn tránh
hay nhổ bỏ gốc rễ. Chúng ta cần cắm sâu các gốc rễ của mình vào mảnh đất phì
nhiêu và lịch sử của quê quán mình, đó là một quà tặng của Thiên Chúa. Chúng ta
có thể làm ở qui mô nhỏ, trong khu vực chúng ta ở, nhưng với một nhãn quan rộng
hơn. Và những người sống hết lòng trong một cộng đồng cũng không cân mất đi cá
tính hay che giấu căn tính của họ; trái lại, họ nhận được những động lực mới để
thăng tiến bản thân. Không cần bóp nghẹt cái toàn thể, cũng không cần làm cho
cái đặc thù trở nên cằn cỗi.
236. Ở
đây mô hình của chúng ta không phải là hình cầu, nó không lớn hơn các thành
phần của nó, ở đó mọi điểm đều cách đều tâm, và không có khác biệt nào giữa
chúng. Trái lại, mô hình của chúng ta là hình khối đa diện, phản chiếu sự đồng
qui của tất cả các thành phần, mỗi thành phần vẫn giữ được tính đặc trưng của
nó. Hoạt động mục vụ cũng như hoạt động chính trị cố gắng qui tụ vào khối đa
diện này cái gì là tốt nhất của mỗi loại hoạt động. Có chỗ cho những người
nghèo và văn hoá của họ, các khát vọng và tiềm năng của họ. Ngay cả những người
có thể bị coi là đáng ngờ do những sai lầm của họ, họ cũng có phần đóng góp mà
chúng ta không thể bỏ qua. Chính sự đồng qui của các dân tộc là cái duy trì cá
tính của họ trong trật tự vũ trụ này; chính tổng số những con người trong một
xã hội theo đuổi công ích là cái thực sự có một chỗ đứng cho mọi người.
237.
Đối với người Kitô hữu, nguyên tắc này cũng khơi dậy tính toàn thể hạy toàn vẹn
của Tin Mừng mà Hội Thánh truyền lại cho chúng ta và sai chúng ta đi rao
truyền. Sự sung mãn và phong phú của Tin Mừng đón nhận các nhà nghiên cứu cũng
như người lao động, các doanh nhân cũng như các nghệ sĩ, tóm lại, mọi người.
Tài năng thiên bẩm của mỗi dân tộc, theo cách riêng của mình, đón nhận trọn vẹn
Tin Mừng và hội nhập Tin Mừng trong các cách biểu hiện của mình về cầu nguyện,
tình bằng hữu, công lý, sự đấu tranh và việc cử hành. Tin mừng là niềm vui của
Cha, Đấng muốn rằng không một người bé mọn nào của Người bị hư mất, niềm vui
của Chúa Chiên Lành khi tìm thấy con chiên lạc và đưa nó trở về dàn. Tin Mừng
là men làm dậy bột và là thành phố trên đồi dọi ánh sáng soi cho mọi dân tộc.
Tự trong Tin Mừng có một nguyên tắc toàn thể: nó sẽ luôn luôn là tin mừng bao
lâu nó còn được công bố cho mọi dân tộc, bao lâu nó còn chữa lành và kiện cường
mọi khía cạnh của nhân loại, bao lâu nó còn đưa mọi người nam cũng như nữ vào
đoàn tụ tại bàn tiệc của Nước Thiên Chúa. Toàn thể lớn hơn thành phần.
IV. ĐỐI THOẠI XÃ HỘI LÀ MỘT ĐÓNG GÓP CHO HOÀ BÌNH
238.
Loan báo Tin Mừng cũng bao gồm con đường đối thoại. Đối với Hội Thánh hôm nay,
nổi bật lên ba lãnh vực đối thoại mà Hội Thánh phải có mặt trong đó để cổ vũ sự
phát triển đầy đủ con người và để mưu cầu công ích: đối thoại với nhà nước, đối
thoại với xã hội—bao gồm đối thoại với các nền văn hoá và khoa học—và đối thoại
với các tín đồ khác không thuộc Hội Thánh Công Giáo. Trong mỗi lãnh vực, “Hội
Thánh nói từ ánh sáng của đức tin”,[186] cống hiến kinh nghiệm hai ngàn năm của
mình và luôn lưu ý tới đời sống và những đau khổ của con người. Ánh sáng này
vượt tầm lý trí con người, nhưng nó cũng có thể có ý nghĩa và làm phong phú cho
những ai không phải là tín hữu và nó kích thích lý trí mở rộng nhãn giới của
nó.
239.
Hội Thánh công bố “Tin Mừng bình an” (Ep 6:15) và muốn hợp tác với mọi nhà chức
trách quốc gia và quốc tế trong việc bảo vệ lợi ích bao la của thế giới. Bằng
việc rao giảng Đức Kitô, Đấng là chính sự bình an (xem Ep 2:14), cuộc tân phúc
âm hoá kêu gọi mọi người đã rửa tội trở thành những người xây dựng hoà bình và
những chứng nhân đáng tin cho một đời sống hoà giải.[187] Trong một nền văn hoá
ưu tiên coi đối thoại là một hình thức gặp gỡ, đây chính là lúc để thiết kế một
phương tiện xây dựng sự đồng thuận và nhất trí đồng thời theo đuổi mục tiêu một
xã hội công bằng, thiện chí và bao gồm. Tác giả chính, chủ thể lịch sử của tiến
trình này, là cả một dân tộc và nền văn hoá của nó, chứ không phải một giai
cấp, một thiểu số, một nhóm hay một tập thể ưu việt. Chúng ta không cần đến
những kế hoạch do một ít người soạn cho một ít người, hay một thiểu số sáng
suốt và to miệng đòi nói thay cho mọi người. Nhưng chúng ta cần sự đồng thuận
để chung sống với nhau, một khế ước xã hội và văn hoá.
240.
Nhà Nước có trách nhiệm bảo vệ và cổ vũ lợi ích chung của xã hội.[188] Dựa trên
các nguyên tắc phân quyền và liên đới, và hoàn toàn dấn thân cho đối thoại
chính trị và xây dựng sự đồng thuận, Nhà Nước đóng một vai trò cơ bản không thể
thoái thác trong việc hoạt động cho sự phát triển toàn diện của mọi người. Ở
thời điểm hiện nay, vai trò này đòi hỏi một sự khiêm tốn xã hội sâu xa.
241.
Hội Thánh, trong đối thoại với Nhà Nước và xã hội, không có giải pháp cho từng
vấn đề cụ thể. Cùng với các lãnh vực khác nhau của xã hội, Hội Thánh ủng hộ các
chương trình nào đáp ứng tốt nhất cho nhân phẩm của mỗi người và lợi ích chung.
Bằng cách này, Hội Thánh đề nghị rõ ràng các giá trị cơ bản của đời sống con
người và các niềm tin, từ đó chúng có thể được biểu hiện trong hoạt động chính
trị.
Đối
thoại giữa đức tin, lý trí và khoa học
242.
Đối thoại giữa khoa học và đức tin cũng thuộc về công cuộc loan báo Tin Mừng
nhằm phục vụ hoà bình.[189] Trong khi thuyết duy nghiệm và duy khoa học “không
chấp nhận giá trị của các hình thức hiểu biết khác ngoài các khoa học thực
nghiệm”,[190] Hội Thánh đề nghị một con đường khác, kêu gọi một sự tổng hợp
giữa việc sử dụng có trách nhiệm các phương pháp riêng của các khoa học thực
nghiệm và các lãnh vực hiểu biết khác như triết học, thần học, cũng như chính
đức tin, là cái nâng cao chúng ta tới mầu nhiệm vượt trên tự nhiên và trí khôn
của con người. Đức tin không sợ lý trí; ngược lại, nó tìm kiếm và tin tưởng lý
trí, vì “ánh sáng của lý trí và ánh sáng của đức tin, cả hai đều bắt nguồn từ
Thiên Chúa”[191] và không thể mâu thuẫn nhau. Loan báo Tin Mừng chú ý tới các
tiến bộ khoa học và muốn dọi trên chúng ánh sáng của đức tin và của luật tự
nhiên để chúng tôn trọng địa vị trung tâm và giá trị tối thượng của con người ở
mọi giai đoạn của sự sống. Mọi sự của xã hội có thể được phong phú nhờ sự đối
thoại này, nó mở ra những chân trời mới cho tư tưởng và mở rộng các khả năng
của lý trí. Đây cũng là một con đường của sự hoà hợp và hoà bình.
243.
Hội Thánh không muốn cản bước tiến kỳ diệu của khoa học. Ngược lại, Hội Thánh
vui mừng và thậm chí phấn khích nhìn nhận những tièm năng to lớn mà Thiên Chúa
đã ban cho trí tuệ loài người. Khi mà các khoa học—tập trung nghiêm ngặt vào
lãnh vực tra cứu chuyên môn của nó—đạt được một kết luận mà lý trí không thể
phi bác, đức tin không bao giờ nói ngược lại. Và các tín hữu cũng không thể coi
một ý kiến khoa học tuy hấp dẫn nhưng không được kiểm chứng đủ mà có cùng giá
trị như một tín điều của đức tin. Thỉnh thoảng một số nhà khoa học đã vượt quá
những giới hạn thẩm quyền khoa học của họ khi đưa ra một số lời phát biểu hay
tuyên bố. Nhưng vấn đề ở đây không liên quan đến lý trí, mà liên quan đến việc
cổ vũ một ý thức hệ riêng ngăn cản con đường đi tới đối thoại chân chính, bình
tĩnh và hiệu quả.
Đối
thoại đại kết
244.
Dấn thân cho đại kết đáp ứng lời cầu nguyện của Chúa Giêsu “xin cho tất cả nên một”
(Ga 17:21). Tính khả tín của sứ điệp Kitô giáo sẽ lớn hơn rất nhiều nếu các
Kitô hữu có thể khắc phục sự những mối chia rẽ của họ và Hội Thánh có thể thể
hiện “sự sung mãn của đặc tính công giáo độc đáo của họ nơi các con cái của
mình, những người tuy kết hợp với Hội Thánh nhờ phép rửa tội nhưng không hiệp
thông đầy đủ với Hội Thánh”.[192] Chúng ta không bao giờ được quên mình là
những lữ khách đang sánh vai nhau trên đường. Có nghĩa là chúng ta phải có sự
tin tưởng chân thành đối với người bạn đường của mình, gạt sang một bên mọi ngờ
vực và nghi kỵ, và hướng cái nhìn của mình về điều chúng ta đang kiếm tìm: sự
an bình rạng rỡ nơi khuôn mặt của Thiên Chúa. Tin tưởng người khác là một nghệ
thuật, và hoà bình cũng là một nghệ thuật. Đức Giêsu nói với chúng ta: “Phúc
cho những ai xây dựng hoà bình” (Mt 5:9). Khi đảm đương nhiệm vụ này, cả giữa
chúng ta với nhau, chúng ta hiện thực hoá lời ngôn sứ xưa kia: “Họ sẽ đúc gươm
đao thành cuốc thành cày” (Is 2:4).
245.
Trong viễn tượng này, đại kết có thể được nhìn như là một đóng góp cho sự hiệp
nhất của gia đình nhân loại. Tại Thượng Hội Đồng Giám Mục, sự hiện diện của Đức
Thượng Phụ Constantinopôli, Đức Bartholomaios, tôi, và Tổng Giám Mục
Canterbury, Đức Rowan Williams, là một hồng ân của Thiên Chúa và là một chứng
tá Kitô giáo quí giá.[193]
246.
Trước sự phản chứng tá nghiêm trọng của tình trạng chia rẽ giữa các Kitô hữu,
đặc biệt tại Châu Á và Châu Phi, việc tìm ra những con đường dẫn tới hiệp nhất
trở nên cấp bách hơn bao giờ. Các nhà truyền giáo tại các châu lục ấy thường
nhắc đến những lời chỉ trích, than phiền và nhạo báng mà gương mù của các Kitô
hữu chia rẽ gây nên. Nếu chúng ta tập trung vào các niềm tin chung của chúng
ta, và nếu chúng ta lưu tâm đến nguyên tắc “phẩm trật” của các chân lý, chúng
ta sẽ có khả năng dứt khoát tiến tới những cách diễn tả chung về việc rao
giảng, phục vụ và chứng tá. Con số đông vô kể những người chưa đón nhận Tin
Mừng của Chúa Giêsu Kitô khiến chúng ta không thể nào dửng dưng. Do đó, dấn
thân cho một sự hiệp nhất để giúp họ chấp nhận Đức Giêsu Kitô không còn là vấn
đề thuần tuý ngoại giao hay gượng ép, mà là một con đường thiết yếu để loan báo
Tin Mừng. Các dấu hiệu chia rẽ giữa các Kitô hữu tại các nước bị tàn phá vì bạo
lực cũng thêm vào cho các nguyên nhân gây xung đột nơi những người lẽ ra phải
là men của hoà bình. Có biết bao điều quan trọng hiệp nhất chúng ta lại! Nếu
chúng ta thực sự tin vào hoạt động hoàn toàn tự do của Chúa Thánh Thần, chúng
ta có thể học được lẫn nhau rất nhiều điều! Không chỉ là vấn đề biết thông tin
tốt hơn về người khác, nhưng là gặt hái những gì Chúa Thánh Thần đã gieo nơi
họ, cũng có nghĩa là một ân huệ cho chúng ta. Để đơn cử một ví dụ, trong cuộc
đối thoại với các anh chị em Chính Thống Giáo, người Công Giáo chúng ta có cơ
hội học được nhiều hơn về ý nghĩa của tính giám mục đoàn và kinh nghiệm của họ
về tính chất thượng hội đồng. Qua việc trao đổi các ân huệ, Chúa Thánh Thần có
thể dẫn chúng ta ngày càng đầy đủ hơn vào chân lý và sự thiện.
Quan
hệ với Do Thái giáo
247.
Chúng ta nhìn người Do Thái giáo với một cái nhìn đặc biệt vì giao ước của họ
với Thiên Chúa không bao giờ bị huỷ, vì “khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi,
thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:29). Cùng chia sẻ với người Do Thái một phần
quan trọng của Sách Thánh, Hội Thánh nhìn dân của giao ước và đức tin của họ
như một trong các cội nguồn thánh thiêng của căn tính Kitô giáo của mình (xem Rm
11:16-18). Là Kitô hữu, chúng ta không thể coi Kitô giáo như một tôn giáo ngoại
lai; chúng ta cũng không kể những người Do Thái trong số những người được kêu
gọi từ bỏ tà thần và phụng sự một Thiên Chúa thật (xem 1 Tx 1:9).
Cùng với họ, chúng ta tin vào một Thiên Chúa Đấng hành động trong lịch sử, và
cùng với họ chúng ta chấp nhận lời mặc khải.
248.
Đối thoại và tình bạn với con cái Israel là một phần đời sống của các
môn đệ Chúa Giêsu. Tình bạn đã lớn lên giữa chúng ta làm cho chúng ta cảm thấy
cay đắng và thực sự ân hận vì những cuộc bách hại kinh hoàng mà họ đã phải chịu
và đang tiếp tục phải chịu, đặc biệt các cuộc bách hại mà người Kitô hữu có dính
líu vào.
249.
Thiên Chúa tiếp tục hoạt động nơi dân của Giao Ước Cũ và làm phát sinh những
kho tàng khôn ngoan tuôn chảy từ việc họ gặp gỡ lời Chúa. Vì lý do này, Hội
Thánh cũng được thêm phong phú khi đón nhận những giá trị của Do Thái giáo. Tuy
đúng là một số niềm tin của Kitô giáo không thể chấp nhận được đối với Do Thái
giáo, và Hội Thánh không thể không rao giảng Đức Giêsu là Chúa và Đấng Mêsia,
nhưng cũng có một sự tương ứng phong phú cho phép chúng ta đọc chung với nhau
các bản văn Kinh Thánh của Do Thái giáo và giúp nhau đào sâu kho tàng phong phú
của Lời Chúa. Chúng ta cũng có thể chia sẻ những xác tín đạo đức và một mối
quan tâm chung đối với sự công bằng và sự phát triển các dân tộc.
Đối
thoại liên tôn
250.
Một thái độ cởi mở trong chân lý và tình yêu phải là nét đặc trưng của đối
thoại với các tín đồ của các tôn giáo ngoài Kitô giáo, bất chấp những trở ngại
và khó khăn khác nhau, đặc biệt các hình thức của chủ nghĩa cực đoan ở cả hai
phía. Đối thoại liên tôn là điều kiện cần để có hoà bình trên thế giới, và vì
thế đây là một bổn phận của các Kitô hữu cũng như các cộng đồng tôn giáo khác.
Sự đối thoại này trước hết là một cuộc trò chuyện về nhân sinh, hay, như lời
các giám mục Ấn Độ đã phát biểu, chỉ đơn giản là “cởi mở với họ, chia vui sẻ buồn
với họ”.[194] Bằng cách này chúng ta học cách chấp nhận người khác và các lối
sống, suy nghĩ và nói năng của họ. Chúng ta có thể tham gia với nhau trong bổn
phận phục vụ công lý và hoà bình, là điều phải trở thành một nguyên tắc cơ bản
cho các cuộc trao đổi của chúng ta. Tự nó, một sự đối thoại tìm kiếm hoà bình
và công bằng xã hội, vượt lên trên mọi suy xét thuần tuý thực tiễn, là một hành
vi dấn thân đạo đức giúp phát sinh một tình hình xã hội mới. Các cố gắng được
thực hiện trong việc xử lý một số đề tài chuyên biệt có thể trở thành một tiến
trình mà trong đó, nhờ biết lắng nghe nhau, cả hai bên đều có thể được thanh
tẩy và thêm phong phú. Do đó, các cố gắng này cũng có thể biểu thị tình yêu đối
với chân lý.
251.
Trong cuộc đối thoại thân thiện và chân thành này, phải luôn luôn lưu ý tới dây
liên kết cơ bản giữa đối thoại và rao giảng, nó giúp Hội Thánh duy trì và kiện
cường mối quan hệ với những người ngoài Kitô giáo.[195] Một chủ trương tạp giáo
dễ dãi rốt cuộc sẽ là một cử chỉ chuyên chế của những người muốn coi thường các
giá trị cao cả mà họ không có thẩm quyền. Thái độ cởi mở đích thực đòi hỏi sự
gắn bó với các xác tín sâu xa nhất của mình, rõ ràng và vui vẻ trong căn tính
của mình, đồng thời “mở lòng mình ra để hiểu phía bên kia” và “biết rằng đối thoại
có thể làm giàu lẫn cho nhau”.[196] Cái không có lợi là một thứ cởi mở ngoại
giao nói “có” với mọi thứ để tránh các vấn đề, vì thái độ này có thể là cách
đánh lừa ngừoi khác và chối bỏ điều tốt mà chúng ta được cùng chia sẻ một cách
quảng đại với những người khác. Loan báo Tin Mừng và đối thoại liên tôn hoàn
toàn không đối chọi nhau, chúng hỗ trợ lẫn nhau và nuôi dưỡng lẫn nhau.[197]
252.
Mối quan hệ giữa chúng ta với các tín đồ Hồi giáo có tầm quan trọng lớn, vì bây
giờ họ đang hiện diện đáng kể tại các nước có truyền thống Kitô giáo, ở đó họ
có thể tự do thờ phượng và trở thành thành phần đầy đủ của xã hội. Chúng ta
không bao giờ được quên rằng họ “tuyên xưng đức tin của Abraham, và cùng với
chúng ta họ tôn thờ một Thiên Chúa độc nhất và từ bi, Đấng sẽ xét xử loài người
vào ngày tận thế”.[198] Sách Thánh của Hồi giáo có giữ lại một số giáo lý của
Kitô giáo; Đức Giêsu và Đức Maria được tôn kính đặc biệt và điều đáng cảm phục
là thấy những người Hồi giáo, già cũng như trẻ, nam cũng như nữ, dành thời giờ cầu
nguyện hằng ngày và trung thành dự các lễ nghi tôn giáo. Họ cũng nhìn nhận nhu
cầu đáp lời Thiên Chúa bằng sự cam kết sống đạo đức và có lòng thương xót đối
với những người cùng khổ.
253.
Để duy trì đối thoại với Hồi giáo, nhất thiết phải có sự huấn luyện thích hợp
cho tất cả những ai có liên quan, không những để họ có thể gắn bó chặt chẽ và
vui vẻ với căn tính riêng của họ, mà còn để họ cũng có thể nhìn nhận các giá
trị của những người khác, trân trọng các mối quan tâm trong các đòi hỏi của
người khác và soi sáng cho các niềm tin chung. Người Kitô hữu chúng ta phải mở
rộng vòng tay yêu thương của mình để đón nhận và tôn trọng những người di dân
Hồi giáo tại đất nước chúng ta giống như chúng ta hi vọng và xin được tiếp nhận
và tôn trọng tại các đất nước Hồi giáo. Tôi xin và khẩn khoản nài xin các nước
ấy cho phép người Kitô giáo được tự do thờ phượng và thực hành đức tin, giống
như quyền tự do mà các tín đồ Hồi giáo được hưởng tại các nước Phương Tây! Đứng
trước những sự việc đáng lo ngại của chủ nghĩa cực đoan bạo lực, lòng tôn trọng
của chúng ta đối với các tín đồ Hồi giáo chân thực phải giúp chúng ta tránh
những kiểu vơ đũa cả nắm vì thù hằn, bởi vì Hồi giáo chân chính và việc đọc
Kinh Koran đúng đắn chống lại mọi hình thức bạo lực.
254.
Những người ngoài Kitô giáo, bởi sáng kiến yêu thương của Thiên Chúa, khi họ
trung thành với lương tâm của họ, họ có thể sống “công chính nhờ ân sủng Thiên
Chúa”,[199] và như vậy họ được “liên kết với mầu nhiệm vượt qua của Đức Giêsu
Kitô”.[200] Nhưng do chiều kích bí tích của ơn thánh sủng, hoạt động của Thiên
Chúa nơi họ thường làm phát sinh những dấu hiệu và nghi thức, những biểu thị
thánh thiêng để đưa những người khác vào một trải nghiệm cộng đồng về cuộc hành
trình đến với Thiên Chúa.[201] Tuy những dấu hiệu này thiếu ý nghĩa và hiệu
năng của các bí tích do Đức Kitô thiết lập, chúng có thể là những đường kênh
Chúa Thánh Thần dùng để giải thoát những người ngoài Kitô giáo khỏi chủ nghĩa
tự tại vô thần hay khỏi những kinh nghiệm tôn giáo thuần tuý cá nhân. Cùng một
Thần Khí ở mọi nơi tạo ra những hình thức khôn ngoan thực tiễn khác nhau để
giúp người ta chịu đựng đau khổ và sống trong hoà bình và hoà hợp hơn. Là Kitô
hữu, chúng ta cũng có thể thụ hưởng những kho tàng này đã được tích luỹ từ
nhiều thế kỷ, chúng có thể giúp chúng ta sống niềm tin của mình tốt đẹp hơn.
Đối
thoại xã hội trong bối cảnh tự do tôn giáo
255.
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nói đến tầm quan trọng của sự tôn trọng tự do tôn
giáo, được coi là một quyền cơ bản của con người.[202] Quyền này bao gồm “tự do
chọn theo tôn giáo mà mình xét là thật và tự do biểu lộ các niềm tin của mình
nơi công cộng”.[203] Một chế độ đa nguyên lành mạnh, thực sự tôn trọng các khác
biệt và đánh giá chúng đúng bản chất của chúng, sẽ không đòi hỏi tư riêng hoá
các tôn giáo nhằm mục đích giản lược chúng vào vùng tăm tối yên tĩnh của lương
tâm mỗi cá nhân hay giới hạn chúng vào khuôn viên các nhà thờ [Kitô giáo], các
hội đường [Do Thái giáo] hay các nhà thờ [Hồi giáo]. Đó sẽ là một dạng mới của
chủ nghĩa kỳ thị và độc tài. Sự tôn trọng cần thiết dành cho những thiểu số
theo thuyết bất khả tri hay không tin không thể được áp đặt một cách tuỳ tiện
khiến cho các niềm tin của đa số những người có lòng tin phải câm lặng hay các
truyền thống tôn giáo phong phú bị coi thường.
256.
Khi xét đến các hiệu ứng của tôn giáo đối với đời sống công cộng, chúng ta phải
phân biệt các cách thức khác nhau tôn giáo được thực hành. Các nhà trí thức và
các nhà báo thường sử dụng những lối khái quát hoá thô thiển và hời hợt để nói
về những khiếm khuyết của tôn giáo, và thường tỏ ra không có khả năng nhận ra
rằng không phải tất cả các tín đồ—hay các lãnh đạo của họ—đều giống nhau. Một
số chính trị gia lợi dụng sự lẫn lộn này để biện minh cho các hành vi kỳ thị.
Có khi người ta khinh rẻ những tác phẩm phản ánh các niềm tin tôn giáo, họ quên
mất sự thực là các tác phẩm tôn giáo kinh điển có thể có ý nghĩa cho mọi thời
đại; chúng có sức bền bỉ mở ra những chân trời mới, kích thích tư tưởng, mở
rộng trí tuệ và tâm hồn. Sự khinh rẻ này là do chứng cận thị của một số chủ
nghĩa duy lý. Có hợp lý và sáng suốt không khi loại trừ một số tác phẩm chỉ vì
chúng xuất hiện trong một bối cảnh niềm tin tôn giáo? Các tác phẩm này gồm
những nguyên tắc mang đậm tính nhân đạo, và mặc dù chất chứa những biểu tượng
và giáo huấn tôn giáo, chúng có một giá trị nhất định cho lý trí.
257.
Là tín hữu, chúng ta cũng cảm thấy gần gũi những người không nhận mình thuộc về
một truyền thống tôn giáo nào, nhưng chân thành tìm kiếm chân, thiện, mỹ, những
điều mà chúng ta tin là được biểu hiện cao nhất nơi Thiên Chúa và bắt nguồn từ
Thiên Chúa. Chúng ta coi họ là những đồng minh quí trong sự dấn thân bảo vệ
nhân phẩm, xây dựng một sự chung sống hoà bình giữa các dân tộc và trong việc
bảo vệ tạo thành. Các diễn đàn Aeropagi mới, chẳng hạn như Sân của Dân Ngoại,
cung cấp cho chúng ta một chỗ gặp gỡ đặc biệt, ở đó “những người có đức tin và
những người không tin có thể tham gia đối thoại về những vấn đề cơ bản trong
các lãnh vực đạo đức, nghệ thuật và khoa học, và về việc tìm kiếm Đấng Siêu
Việt”.[204] Đây cũng là một con đường dẫn tới hoà bình trong thế giới hỗn loạn
của chúng ta.
258.
Xuất phát từ một số vấn đề xã hội có tầm quan trọng cho tương lai của loài
người, tôi đã thử trình bày rõ một lần nữa chiều kích xã hội tất yếu của sứ
điệp Tin Mừng và khích lệ mọi Kitô hữu chứng minh cho điều này bằng lời nói,
thái độ và hành động của họ.
CHƯƠNG NĂM
NHỮNG
NGƯỜI LOAN BÁO TIN MỪNG ĐẦY THÁNH THẦN
259.
Những người loan báo Tin Mừng đầy Thánh Thần là những người dũng cảm mở lòng
mình ra cho hoạt động của Chúa Thánh Thần. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh
Thần đã làm cho các tông đồ ra khỏi chính mình và biến họ thành sứ giả công bố
các kỳ công của Thiên Chúa, có khả năng nói cho mỗi người bằng thứ tiếng riêng
của họ. Chúa Thánh Thần cũng ban cho họ ơn can đảm để công bố sự mới mẻ của Tin
Mừng một cách dạn dĩ (parrhesía) mọi thời và mọi nơi, cả khi gặp chống
đối. Chúng ta hãy chạy đến với Người hôm nay, vững vàng trong kinh nguyện, vì
không cầu nguyện thì mọi hoạt động của chúng ta có nguy cơ vô hiệu quả và sứ
điệp của chúng ta trở thành trống rỗng. Đức Giêsu muốn những người loan báo Tin
Mừng không chỉ rao giảng bằng lời nói, nhưng trên hết bằng một đời sống được
biến đổi bởi sự hiện diện của Thiên Chúa.
260.
Trong chương cuối này, tôi không muốn trình bày một tổng hợp về linh đạo Kitô
giáo, hay khai triển các chủ đề lớn như cầu nguyện, thờ lạy Thánh Thể, hay việc
cử hành đức tin trong phụng vụ. Về tất cả các chủ đề này, chúng ta đã có những
bản văn có giá trị của Huấn Quyền và những tác phẩm nổi tiếng của các tác giả
lớn rồi. Tôi không dám thay thế hay làm tốt hơn các kho tàng này. Tôi chỉ muốn
cung cấp một ít tư tưởng về tinh thần của việc tân phúc âm hoá.
261.
Mỗi khi ta nói một cái gì là “có khí thế”, nó thường chỉ về một sức thúc đẩy
bên trong gây khích lệ, tạo động lực, nuôi dưỡng và cống hiến ý nghĩa cho hoạt
động cá nhân và cộng đồng của chúng ta. Việc phúc âm hoá đầy Thánh Thần không
đồng nghĩa với một tập hợp các công việc được thực hiện vì bổn phận bất chấp
các xu hướng và ước muốn riêng của một người. Ước gì tôi có được những lời
thích hợp để khơi dậy niềm phấn khích cho một chương mới của việc phúc âm hoá
đầy nhiệt huyết, vui tươi, quảng đại, can đảm, yêu thương vô bờ và hấp dẫn!
Nhưng tôi nhận ra rằng không có lời khích lệ nào là đủ trừ khi lòng chúng ta
cháy lửa của Chúa Thánh Thần. Việc phúc âm hoá đầy Thần Khí là công việc được
hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, vì Người là linh hồn của Hội Thánh được gọi để
công bố Tin Mừng. Trước khi cống hiến một số động lực và gợi ý thiêng liêng,
một lần nữa tôi cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến. Tôi nài xin Người đến và đổi
mới Hội Thánh, khuấy động và thúc đẩy Hội Thánh mạnh bạo ra đi loan báo Tin
Mừng cho mọi dân mọi nước.
I. CÁC LÝ DO CANH TÂN ĐỘNG LỰC TRUYỀN GIÁO
262.
Những người loan báo Tin Mừng đầy Thánh Thần là những người cầu nguyện và làm
việc. Có các khái niệm thần bí mà không có một sự vươn ra xã hội và truyền giáo
thì chẳng ích gì cho việc loan báo Tin Mừng, cũng như những bài nói hay hoặc
những thực hành xã hội hay mục vụ mà thiếu một linh đạo thì chẳng thể cải hoá
các tâm hồn. Các phương thế đơn phương và bất cập này chỉ có thể tiếp cận được
một ít nhóm người và tỏ ra không có thể toả sáng bên ngoài những nhóm này vì
chúng cắt xén Tin Mừng. Cái cần là khả năng vun trồng một không gian nội tâm có
thể đem lại ý nghĩa cho sự dấn thân và hoạt động.[205] Nếu không có những thời
khắc lâu để thờ phượng, gặp gỡ Lời Chúa trong kinh nguyện, hay đối thoại chân
thành với Chúa, công việc của chúng ta dễ dàng trở thành vô nghĩa; chúng ta mất
năng lượng do sự chán ngán và những khó khăn, và nhiệt huyết của chúng ta tắt
dần. Hội Thánh cấp thiết cần hơi thở sâu của kinh nguyện, và tôi rất mừng khi
thấy ngày càng tăng số những nhóm người ở mọi cấp trong đời sống Hội Thánh
chuyên tâm cầu nguyện và chuyển cầu, đọc lời Chúa trong kinh nguyện và liên lỷ
chầu Thánh Thể. Dù vậy, “chúng ta phải bác bỏ cái cám dỗ cung cấp một thứ linh
đạo tư riêng và cá nhân, vì nó không phù hợp với những đòi hỏi của đức ái, chưa
nói đến những hệ luỵ của sự nhập thể”.[206] Luôn luôn có nguy cơ là một số thời
khắc cầu nguyện có thể trở thành cái cớ để từ chối hiến thân truyền giáo; một
lối sống tư riêng có thể khiến người Kitô hữu tìm trú ẩn nơi một số hình thức
linh đạo sai lạc.
263.
Chúng ta nên nghĩ đến các Kitô hữu thời kỳ đầu và nhiều anh chị em chúng ta
trong suốt dòng lịch sử, họ là những người tràn trề niềm vui, can đảm không mệt
mỏi và nhiệt tình trong việc rao giảng Tin Mừng. Một số người ngày nay thường
tự an ủi mình rằng hoàn cảnh bây giờ không dễ dàng như xưa, nhưng chúng ta biết
rằng đế chế Roma thời ấy không hề thuận lợi cho sứ điệp Tin Mừng, cho cuộc đấu
tranh vì công lý, hay việc bảo vệ phẩm giá con người. Mỗi thời kỳ lịch sử đều
ghi dấu những yếu đuối của con người, tính tham lam, tự mãn và ích kỷ, chưa nói
gì đến những dục vọng luôn rình rập chúng ta. Nhũng chuyện này luôn luôn hiện
hữu dưới hình thức này hay hình thức khác,; chúng bắt nguồn từ những giới hạn
của con người hơn là từ những hoàn cảnh cụ thể. Vì vậy chúng ta đừng nói rằng
thời buổi ngày nay khó khăn hơn; nó chỉ khác hơn thôi; Nhưng chúng ta cũng hãy
học nơi các thánh là những người đã đi trước chúng ta, đã đối diện với những
khó khăn của thời họ. Vì thế tôi đề nghị chúng ta dừng lại để tìm ra một số lý
do có thể giúp chúng ta hôm nay bắt chước họ.[207]
Gặp gỡ
thân tình với tình yêu cứu độ của Đức Giêsu
264.
Lý do đầu tiên cho việc loan báo Tin Mừng là tình yêu của Chúa Giêsu mà chúng
ta đã lãnh nhận, kinh nghiệm cứu độ thôi thúc chúng ta ngày càng yêu mến Ngài
nhiều hơn. Có tình yêu nào không cảm thấy nhu cầu nói với người yêu, chỉ ra
người yêu, làm cho người yêu được biết đến? Nếu chúng ta không cảm thấy cháy
bỏng ước muốn chia sẻ tình yêu này, chúng ta cần phải tha thiết cầu nguyện để
Ngài một lần nữa đánh động lòng chúng ta. Chúng ta cần nài xin ơn Ngài hằng
ngày, xin Ngài mở những trái tim lạnh nhạt của chúng ta và khuấy động đời sống
ơ hờ và hời hợt của chúng ta. Đứng trước mặt Ngài với trái tim rộng mở và để
Ngài nhìn chúng ta, chúng ta thấy được cái nhìn yêu thương mà ông Nathanael đã
nhìn thấy hôm Đức Giêsu nói với ông: “Tôi đã nhìn thấy anh dưới cây vả” (Ga
1:48). Tốt biết bao khi đứng trước tượng chịu nạn, hay quì gối trước Thánh Thể,
và chỉ đơn giản ở trong sự hiện diện của Ngài! Tốt biết bao khi một lần nữa
ngài đánh động cuộc đời chúng ta và thúc đẩy chúng ta chia sẻ sự sống mới của
Ngài! Điều xảy ra sau đó là “chúng ta nói ra điều chúng ta đã thấy và đã nghe!”
(1 Ga 1:3). Sự khích lệ tốt nhất để chia sẻ Tin Mừng là qua việc suy niệm Tin
Mừng với tình yêu, dừng lại ở mỗi trang và đọc bằng trái tim. Nếu chúng ta đến
với Tin Mừng bằng cách này, vẻ đẹp của nó sẽ làm chúng ta kinh ngạc và không
ngừng kích thích chúng ta. Nhưng muốn được như thế, chúng ta cần lấy lại một
tinh thần chiêm niệm để có thể giúp chúng ta không ngừng nhận ra rằng mình được
thừa hưởng một kho tàng làm chúng ta người hơn và giúp chúng ta sống một đời
sống mới. Không có gì quí hơn mà chúng ta có thể trao ban cho người khác.
265.
Cả cuộc đời Đức Giêsu, cách ngài đối xử với người nghèo, các hành động, tính
chính trực, các hành vi quảng đại đơn sơ hằng ngày, và sau cùng sự hiến thân
hoàn toàn của Ngài, tất cả là điều quí giá và mặc khải mầu nhiệm sự sống thần
linh của Ngài. Mỗi khi chúng ta khám phá lại điều này một cách mới mẻ, chúng ta
trở nên xác tín rằng đó chính là điều mà những người khác đang cần, cho dù có
thể họ không nhận ra: “Ðấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao
giảng cho quý vị” (Cv 17:23). Đôi khi chúng ta mất nhiệt tình truyền giáo là vì
chúng ta quên rằng Tin Mừng thoả mãn các nhu cầu thâm sâu nhất của chúng ta,
bởi vì chúng ta được dựng nên để hưởng nhận điều mà Tin Mừng cống hiến cho
chúng ta: tình bạn với Đức Giêsu và tình yêu của các anh chị em chúng ta. Nếu
chúng ta diễn tả được đầy đủ và đẹp đẽ nội dung cơ bản của Tin Mừng, chắc chắn
sứ điệp này sẽ nói với những khát vọng thâm sâu nhất của trái tim con người:
“Người truyền giáo xác tín rằng, qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, đã hiện hữu
trong các cá nhân và các dân tộc, dù chỉ trong tiềm thức, một sự mong đợi được
biết chân lý về Thiên Chúa, về con người, và về cách làm thế nào để được giải
thoát khỏi tội lỗi và sự chết. Sự phấn khởi của người truyền giáo trong việc
loan báo Đức Kitô xuất phát từ niềm xác tín rằng Ngài đang đáp ứng niềm mong
đợi ấy.[208] Niềm phấn khởi loan báo Tin Mừng dựa trên sự xác tín này. Chúng ta
có một kho tàng sự sống và tình yêu không thể lừa dối, và một sứ điệp không thể
làm chúng ta lạc đường hay thất vọng. Nó thấm nhập tận thâm cung lòng chúng ta,
nâng đỡ và làm chúng ta thêm cao quí. Nó là một chân lý không bao giờ lỗi thời
vì nó chạm đến phần trong con người chúng ta mà không gì khác chạm đến được.
Cảm giác buồn sầu vô hạn của chúng ta chỉ có thể được chữa lành bởi một tình
yêu vô biên.
266.
Nhưng niềm xác tín này phải được nâng đỡ bởi trải nghiệm không ngừng được đổi
mới của chúng ta về sự nếm cảm tình bạn và sứ điệp của Đức Kitô. Không thể kiên
trì trong việc nhiệt tình loan báo Tin Mừng nếu chúng ta không xác tín từ kinh
nghiệm bản thân rằng biết Đức Kitô và không biết Đức Kitô thì hoàn toàn khác
nhau, đi cùng với Ngài thì khác với đi mù quáng, nghe thấy lời Ngài khác với
không biết Ngài, chiêm ngắm Ngài, tôn thờ Ngài, tìm bình an nơi Ngài thì khác
với không làm các điều ấy. Cố gắng xây dựng thế giới với Tin Mừng của Ngài thì
khác với xây dựng nó với ánh sáng riêng của chúng ta. Chúng ta biết rõ rằng với
Đức Kitô, cuộc đời trở nên phong phú hơn và với Ngài ta sẽ dễ tìm thấy ý nghĩa
trong mọi sự hơn. Đó là lý do chúng ta loan báo Tin Mừng. Một người truyền giáo
đích thực, người không bao giờ thôi là một môn đệ, biết rằng có Đức Kitô cùng
đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc với mình. Họ cảm nhận được
Đức Giêsu sống với mình giữa công cuộc truyền giáo. Nếu không nhìn thấy Ngài
hiện diện tại tâm điểm sự dấn thân truyền giáo của chúng ta, lòng phấn khởi của
chúng ta sẽ sớm nhạt nhoà và chúng ta không còn chắc chắn mình đang thông
truyền điều gì; chúng ta thiếu sinh lực và đam mê. Một người không có xác tín,
không phấn khởi, không chắc chắn và không yêu, người ấy chẳng thuyết phục được
ai.
267.
Hiệp nhất với Đức Kitô, chúng ta tìm điều Ngài tìm và yêu điều Ngài yêu. Chung
cuộc, cái chúng ta tìm là vinh quang của Cha, chúng ta sống và hành động “để
ngợi khen ân sủng rạng ngời của Người” (Ep 1:6). Nếu chúng ta muốn dấn thân
hoàn toàn và cho đến cùng, chúng ta cần bỏ lại đàng sau mọi động cơ khác. Đây
là động cơ dứt khoát, sâu nhất và mạnh nhất của chúng ta, lý do và ý nghĩa tối
hậu đàng sau tất cà những gì chúng ta làm: vinh quang của Cha mà Đức Giêsu tìm
kiếm từng giây từng phút trong cuộc đời Ngài. Là Người Con, Ngài vui mừng vì “hằng
ở nơi cung lòng Cha” (Ga 1:18). Sở dĩ chúng ta là những người truyền giáo, chủ
yếu là vì Đức Giêsu đã nói với chúng ta rằng, “điều làm Chúa Cha được tôn vinh
là: anh em sinh nhiều hoa trái” (Ga 15:8). Vượt lên trên mọi sở thích và lợi
ích riêng, mọi hiểu biết và động cơ của mình, chúng ta loan báo Tin Mừng là vì
vinh quang cao cả của Cha, Đấng yêu thương chúng ta.
Sự nếm
cảm thiêng liêng được là một dân tộc
268.
Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta nhận ra rằng chúng ta là một dân tộc: “Xưa anh
em chưa phải là một dân, nay anh em đã là dân của Thiên Chúa” (1 P 2:10). Là
những người loan báo Tin Mừng cho các linh hồn, chúng ta cần phát triển hương
vị thiêng liêng của việc sống chan hoà với dân và khám phá ra rằng điều này tự
nó là một nguồn vui tuyệt vời. Truyền giáo vừa là một niềm say mê Đức Giêsu,
vừa đồng thời là niềm say mê dân của Người. Đứng trước Đức Giêsu chịu đóng
đinh, chúng ta thấy được chiều sâu tình yêu của Ngài, tình yêu nâng chúng ta
lên và kiện cường chúng ta, nhưng đồng thời, trừ khi chúng ta mù, chúng ta cũng
bắt đầu nhận ra rằng cái nhìn cháy bỏng yêu thương của Đức Giêsu mở ra ôm ấp
toàn thể dân của Ngài. Chúng ta một lần nữa nhận ra rằng Ngài muốn dùng chúng
ta để đến gần với dân yêu dấu của Ngài hơn. Ngài chọn chúng ta từ giữa dân của
Ngài và sai chúng ta đến với dân của Ngài; nếu không có ý thức thuộc về dân
này, chúng ta không thể hiểu được căn tính thâm sâu của mình.
269.
Chính Đức Kitô là mẫu mực của phương pháp loan báo Tin Mừng này, nó đưa chúng
ta vào tận lòng của dân Ngài. Tốt biết bao cho chúng ta khi được chiêm ngắm sự
thân mật gần gũi của Ngài với mọi người! Nếu Ngài nói chuyện với ai, Ngài nhìn
thẳng vào mắt họ với một tình yêu và sự quan tâm sâu thẳm: “Ðức Giêsu đưa mắt
nhìn anh ta và đem lòng yêu mến” (Mk 10:21). Chúng ta thấy Ngài dễ đến gần như
thế nào, khi ngài lại gần người mù (xem Mc 10:46-52) và ăn uống với những kẻ
tội lỗi (xem Mc 2:16) mà không sợ bị người khác nghĩ mình là kẻ mê ăn uống và
say sưa (xem Mt 11:19). Chúng ta thấy được sự tế nhị của Ngài khi cho phép
người phụ nữ tội lỗi lấy dầu thơm xức chân Ngài (xem Lc 7:36-50), và khi tiếp
ông Nicôđêmô ban đêm (xem Ga 3:1-15). Hi sinh của Đức Giêsu trên thập giá không
là gì khác hơn tột đỉnh của cách mà Ngài đã sống suốt cả đời Ngài. Được gương
sáng Ngài đánh động, chúng ta muốn hoàn toàn đi vào các thành phần cấu tạo của
xã hội này, chia sẻ cuộc sống với mọi người, lắng nghe các mối quan tâm của họ,
giúp đỡ họ vật chất và tinh thần trong các nhu cầu của họ, vui với người vui,
khóc với người khóc; tay trong tay với những người khác, chúng ta dấn thân xây
dựng một thế giới mới. Nhưng chúng ta làm điều này không phải vì ý thức về sự
bó buộc, không phải như một bổn phận nặng nề, nhưng là kết quả của một quyết
định bản thân, nó cho chúng ta niềm vui và ý nghĩa cho cuộc sống.
270.
Đôi khi chúng ta bị cám dỗ trở thành kiểu Kitô hữu đứng xa để nhìn các vết
thương của Chúa. Nhưng Đức Giêsu muốn chúng ta chạm vào sự khốn cùng của con
người, chạm vào da thịt đau khổ của người khác. Ngài hi vọng chúng ta ngưng tìm
kiếm những cái tháp ngà của cá nhân hay cộng đồng để che chở chúng ta khỏi vòng
xoáy những nỗi bất hạnh của con người; trái lại, ngài muốn chúng ta đi vào thực
tế đời sống của những người khác và biết được sức mạnh của sự dịu dàng. Mỗi khi
làm như thế, đời sống chúng ta sẽ trở nên hoà nhập một cách kỳ diệu và chúng ta
cảm nghiệm sâu xa thế nào là một dân tộc, thế nào là thành phần của một dân
tộc.
271.
Đúng là trong các hành vi ứng xử của chúng ta với thế giới, chúng ta phải trình
bày các lý do cho niềm hi vọng của mình, nhưng không phải theo cách của một kẻ
thù chỉ trích và lên án. Chúng ta được dạy khá rõ: “phải trả lời cách hiền hòa
và với sự kính trọng” (1 P 3:15 [3:16]) và “hãy làm tất cả những gì anh em có
thể làm được, để sống hòa thuận với mọi người” (Rm 12:18). Chúng ta cũng được
dạy phải “lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12:21) và “làm điều thiện cho mọi người”
(Gl 6:10). Thay vì tìm cách tỏ ra hơn người khác, chúng ta phải “lấy lòng khiêm
nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2:3). Chính các tông đồ của Chúa đã
“được toàn dân thương mến” (Cv 2:47; 4:21, 33; 5:13). Rõ ràng Chúa Giêsu không
muốn chúng ta là những nhân vật quan trọng coi khinh kẻ khác, nhưng là những
người nam người nữ của dân chúng. Đây không phải ý tưởng của giáo hoàng, hay
một chọn lựa giữa các chọn lựa khác, mà là lệnh truyền trong lời Chúa quá rõ
ràng, thẳng thắn và thuyết phục không cần giải thích, nếu không nó sẽ mất đi
sức mạnh thách thức chúng ta. Chúng ta chỉ việc sống các lời ấy mà không cần
giải thích, không cần bình luận. Sống như thế chúng ta sẽ biết được niềm vui
của việc chia sẻ cuộc sống với dân trung thành của Thiên Chúa khi chúng ta cố
gắng đốt lên một ngọn lửa trong lòng thế giới.
272.
Yêu thương người khác là một sức mạnh thiêng liêng kéo chúng ta vào sự hiệp
nhất với Thiên Chúa; thực vậy, ai không yêu thương “thì đi trong bóng tối” (1
Ga 2:11), “ở trong sự chết” (1 Ga 3:14) và “không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4:8).
Đức Bênêđictô XVI nói rằng “nhắm mắt trước người thân cận cũng là bịt mắt chúng
ta trước Thiên Chúa”,[209] và rằng tình yêu, xét cho cùng, là ánh sáng duy
nhất “có thể luôn luôn chiếu sáng một thế giới đang tối đi và cho
chúng ta can đảm cần thiết để tiếp tục sống và làm việc”.[210] Khi chúng ta
sống một thứ linh đạo gần gũi với người khác và tìm kiếm hạnh phúc của họ, lòng
chúng ta được mở rộng trước các quà tặng tuyệt vời và đẹp nhất của Chúa. Khi
chúng ta gặp gỡ người khác với lòng yêu thương, chúng ta học được một điều gì
mới về Thiên Chúa. Mỗi khi mắt chúng ta mở ra để nhìn nhận người khác, chúng ta
lớn lên trong ánh sáng của đức tin và của sự hiểu biết Thiên Chúa. Nếu chúng ta
muốn tiến bộ trong đời sống thiêng liêng, chúng ta phải không ngừng là người
truyền giáo. Hoạt động loan báo Tin Mừng làm giàu cho trí óc và tâm hồn; nó mở
ra những chân trời thiêng liêng; nó làm chúng ta ngày càng thêm mẫn cảm đối với
các tác động của Chúa Thánh Thần, và nó đưa chúng ta vượt qua những cấu trúc
thiêng liêng giới hạn. Một người truyền giáo nhiệt tình cảm nhận được niềm vui
mình là một suối nước vọt ra để tưới mát người khác. Chỉ người nào cảm thấy
hạnh phúc khi tìm lợi ích cho người khác, mong muốn hạnh phúc cho họ, người ấy
mới có thể là người truyền giáo. Sự mở lòng này là một nguồn vui, vì “cho thì
có phúc hơn là nhận” (Cv 20:35). Chúng ta không sống tốt hơn được khi trốn
tránh, náu ẩn, từ chối chia sẻ, ngừng trao ban và đóng kín mình trong những
tiện nghi của mình. Một nếp sống như thế không khác gì một cuộc tự sát từ từ.
273.
Sứ mệnh của tôi giữa lòng dân không chỉ là một phần của đời tôi hay một cái phù
hiệu mà tôi có thể gỡ bỏ; nó không phải một cái gì “phụ thêm” hay chỉ là một
khoảnh khắc khác trong cuộc đời. Trái lại, nó là một cái gì tôi không thể dứt
bỏ khỏi mình nếu không muốn tiêu diệt chính mình.Tôi là một sứ mệnh trên
trái đất này; đó là lý do tại sao tôi có mặt trên trái đất này. Chúng ta phải
coi ḿnh như được đóng ấn, thậm chí được in nhãn bởi sứ mệnh mang ánh sáng,
phúc lành, tạo sức sống, nuôi dưỡng, chữa lành và giải thoát. Nhìn khắp quanh
mình, chúng ta bắt đầu nhận thấy những người điều dưỡng cho linh hồn, những
thầy dạy cho linh hồn, những chính trị gia cho linh hồn, những người đã chọn
hoà mình vào với người khác và cho người khác. Nhưng một khi chúng ta tách rời
hoạt động khỏi đời sống riêng tư của mình, mọi thứ đổi thành màu xám và chúng
ta sẽ luôn luôn cố đi tìm sự nhìn nhận hay khẳng định các nhu cầu của mình.
Chúng ta hết còn là một dân tộc.
274.
Nếu chúng ta muốn chia sẻ đời mình với người khác và quảng đại trao ban, chúng
ta cũng phải nhận ra rằng mọi người xứng đáng với sự trao ban của chúng ta.
Không phải vì dáng dấp nơi thân hình của họ, những khả năng của họ, ngôn ngữ
của họ, cách suy nghĩ của họ, hay bất cứ sự thoả mãn nào mà chúng ta có thể
nhận được, nhưng vì họ là công trình của Thiên Chúa, là tạo vật của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã dựng nên con người ấy theo hình ảnh Ngài, và người ấy phản chiếu
phần nào vinh quang của Thiên Chúa. Mọi con người đều là đối tượng của lòng
nhân từ vô biên của Thiên Chúa, và chính Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời
họ. Đức Giêsu đã hiến máu thánh châu báu của Ngài trên thập giá vì người ấy.
Bất kể hình hài họ thế nào, mỗi người đều vô cùng thánh thiện và xứng
đáng với tình yêu của chúng ta. Do đó, nếu tôi có thể giúp ít là một
người có một cuộc sống tốt hơn, thì sự hiến mình của tôi đã được biện minh rồi.
Là dân trung thành của Thiên Chúa quả là tuyệt vời. Chúng ta đạt được sự thành
toàn khi phá đổ các bức tường ngăn cách và trong tim chúng ta chứa đầy những
khuôn mặt và những cái tên!
Hoạt
động nhiệm mầu của Đức Kitô phục sinh và của Thần Khí Ngài
275.
Trong chương 2, chúng ta đã suy tư về sự thiếu vắng một linh đạo thâm sâu dẫn
đến thái độ bi quan, tất định và hoài nghi. Một số người không dấn thân cho
truyền giáo bởi vì họ nghĩ sẽ chẳng thay đổi được gì và có cố gắng bao nhiêu
cũng vô ích. Họ nghĩ: “Sao tôi phải từ bỏ các tiện nghi và thú vui nếu tôi
chẳng thấy có kết quả gì?” Thái độ này khiến người ta không thể làm người
truyền giáo. Đây chỉ là một cái cớ dối trá để tiếp tục bị vướng mắc trong tiện
nghi, lười biếng, bất mãn một cách vu vơ và ích kỷ, trống rỗng. Nó là một thái
độ tự huỷ diệt, vì “người ta không thể sống mà không có hi vọng: cuộc đời sẽ
trở nên vô nghĩa và không thể chịu đựng nổi”.[211] Nếu chúng ta nghĩ rằng không
cái gì thay đổi được, chúng ta phải nhớ rằng Đức Giêsu Kitô đã chiến thắng tội
lỗi và sự chết và bây giờ là Đấng toàn năng. Đức Giêsu Kitô đang sống thực sự.
Nói cách khác, “nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng
tôi trống rỗng” (1 Cr 15:14). Tin Mừng kể cho chúng ta rằng khi các tông đồ
bắt đầu đi rao giảng, “Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những
dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16:20). Đó cũng là điều
xảy ra hôm nay. Chúng ta được mời gọi khám phá và trải nghiệm điều đó. Đức Kitô
sống lại và được tôn vinh là nguồn suối hi vọng của chúng ta, và Ngài sẽ không
từ chối giúp đỡ chúng ta trong việc thực thi sứ mạng Ngài đã uỷ thác cho chúng
ta.
276.
Sự sống lại của Đức Kitô không phải là một biến cố của quá khứ; nó chứa đựng
một sức mạnh cốt thiết đã thấm nhuần thế giới này. Ở đâu mà tất cả có vẻ như đã
chết, ở đó các dấu hiệu phục sinh đột nhiên xuất hiện. Đó là một sức mạnh không
thể cưỡng lại được. Thường chúng ta thấy Thiên Chúa có vẻ như không hiện hữu:
chúng ta thấy khắp quanh mình những cảnh bất công, tội ác, thờ ơ, tàn bạo không
ngớt. Nhưng cũng đúng là giữa cảnh tối tăm luôn luôn có một cái gì mới phát
sinh và sớm hay muộn sẽ sinh hoa kết quả. Trên mặt đất bị san bằng, sự sống vẫn
bùng dậy một cách ngoan cường. Bất kể hoàn cảnh đen tối đến đâu, sự thiện luôn
luôn xuất hiện trở lại và lan toả. Mỗi ngày trong thế giới của chúng ta, cái
đẹp luôn luôn tái sinh, nó lớn lên xuyên qua những bão tố của lịch sử. Các giá
trị luôn luôn có khuynh hướng xuất hiện trở lại dưới những dạng mới, và loài
người cũng đã tái sinh hết lần này qua lần khác từ những tình huống xem như là
đã tận số. Sức mạnh của sự sống lại là như thế, và tất cả những người loan báo
Tin Mừng là những công cụ của sức mạnh ấy.
277.
Trong khi ấy, các khó khăn mới cũng không ngừng xuất hiện: các trải nghiệm về
thất bại và yếu đuối làm chúng ta rất đau buồn. Qua kinh nghiệm, tất cả chúng
ta biết rằng đôi khi một công việc không đem lại cho chúng ta sự thoả mãn mà
chúng ta tìm kiếm, các kết quả thì ít và các sự thay đổi thì chậm chạp, và
chúng ta bị cám dỗ trở nên mệt mỏi. Nhưng hạ khí giới tạm thời vì mệt mỏi không
đồng nghĩa với vĩnh viễn đầu hàng do sự bất mãn và sự bất lực làm nứt nẻ linh
hồn. Cũng có khi chúng ta có thể chán nản trong cuộc đấu tranh vì cuối cùng
chúng ta bị mắc kẹt trong chính mình, trong một thái độ vụ nghề nghiệp muốn tìm
sự nhìn nhận, vỗ tay, tưởng thưởng và địa vị. Trong trường hợp này chúng ta
không buông vũ khí, nhưng không còn nắm bắt được điều chúng ta tìm kiếm, sự
sống lại không có ở đó. Trong các trường hợp như thế, Tin Mừng không còn được
đón nhận như là sứ điệp tuyệt vời nhất mà thế giới này có thể công hiến, nhưng
bị chôn vùi dưới một đống những lời bao biện.
278.
Đức tin cũng có nghĩa là tin vào Thiên Chúa, tin rằng Người thực sự yêu chúng
ta, Người có khả năng can thiệp một cách mầu nhiệm, Người không bỏ rơi chúng ta
và Người rút ra điều thiện từ điều ác bằng quyền năng và tính sáng tạo vô biên
của Ngưới. Đức tin có nghĩa là tin rằng Thiên Chúa tiến bước khải hoàn trong
lịch sử cùng với những người “được gọi, được chọn và trung thành” (Kh 17:14).
Chúng ta hãy tin vào Tin Mừng khi Tin Mừng nói với chúng ta rằng Nước Thiên
Chúa đã hiện diện trong thế giới này và đang lớn lên, ở đây và ở kia, cách này
hay cách khác: giống như hạt cải nhỏ xíu lớn lên thành một cây to (xem Mt
13:31-32), giống như nắm men làm cho dậy cả đấu bột (xem Mt 13:33), và giống
như hạt giống tốt mọc lên giữa cỏ dại (xem Mt 13:24-30) và luôn luôn có thể làm
chúng ta ngạc nhiên thích thú. Nước Chúa đang ở đây, nó trở lại, nó đấu tranh
để không ngừng phát triển. Sự phục sinh của Đức Kitô khắp nơi làm phát sinh
những hạt giống cho thế giới mới ấy; nếu chúng bị yếu đi, chúng lại mọc trở
lại, vì sự phục sinh đã âm thầm được đan vào trong cơ cấu của lịch sử này, vì
Đức Giêsu đã không sống lại một cách vô ích. Chúng ta chớ bao giờ đứng bên lề
cuộc diễn hành của niềm hi vọng sống động này!
279.
Vì không luôn luôn nhìn thấy các hạt giống này lớn lên, chúng ta cần có một sự
chắc chắn nội tâm, một niềm xác tín rằng Thiên Chúa có khả năng hành động trong
mọi tình huống, ngay cả giữa những cái bề ngoài có vẻ là thất bại: “chúng tôi
chứa đựng kho tàng này trong những bình sành” (2 Cr 4:7). Niềm tin chắc này
thường được gọi là “một cảm thức về mầu nhiệm”. Đó là biết một cách chắc chắn
rằng tất cả những ai tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa trong tình yêu sẽ sinh
nhiều hoa trái (xem Ga 15:5). Sự sinh hoa kết quả này thường không nhìn thấy,
khó nắm bắt và không thể định lượng. Chúng ta có thể biết khá chắc là cuộc đời
chúng ta sẽ có kết quả, mặc dù không biết được như thế nào, ở đâu hay khi nào.
Chúng ta có thể biết chắc rằng không một hành vi yêu thương nào của mình bị mất
đi, hay bất cứ hành vi quan tâm nào của chúng ta đối với người khác. Không một
hành vi yêu mến nào của chúng ta đối với Thiên Chúa sẽ bị mất đi, không một cố
gắng quảng đại nào là vô nghĩa, không một sự chịu đựng đau đớn nào bị phí phạm.
Tất cả các hành vi này bao bọc thế giới chúng ta giống như một lực sống. Đôi
khi công việc chúng ta làm có vẻ như vô hiệu, nhưng truyền giáo không giống như
một vụ giao dịch kinh doanh hay đầu tư, hay thậm chí như một hoạt động nhân
đạo. Nó không phải là một buổi trình diễn ở đó chúng ta đếm xem có bao nhiêu khán
giả đến xem do quảng cáo của chúng ta; nó là một cái gì sâu hơn nhiều, không
lấy thước nào mà đo được. Có thể Chúa dùng các hi sinh của chúng ta để ban phúc
lành cho các miền khác của thế giới mà chúng ta sẽ không bao giờ đến thăm. Chúa
Thánh Thần hoạt động theo Người muốn, khi Người muốn và ở nơi nào Người muốn;
chúng ta phó thác cho Người mà không đòi nhìn thấy các kết quả ấn tượng. Chúng
ta chỉ biết rằng dấn thân của chúng ta là cần thiết. Chúng ta hãy học để biết
nghỉ ngơi trong vòng tay âu yếm của Cha giữa các hoạt động quảng đại và sáng
tạo của mình. Chúng ta hãy tiếp tục tiến tới; chúng ta hãy dâng cho Người mọi
sự, để Người làm cho các cố gắng của chúng ta sinh hoa kết quả đúng thời đúng
lúc.
280.
Duy trì nhiệt tình truyền giáo sống động đòi chúng ta vững vàng tin cậy vào
Chúa Thánh Thần, vì chính Người là Đấng “cứu giúp những nỗi yếu hèn của chúng
ta” (Rm 8:6). Nhưng sự tin cậy quảng đại này cần được nuôi dưỡng, vì thế chúng
ta cần liên lỷ kêu xin Chúa Thánh Thần. Người có thể chữa lành những gì làm
chúng ta suy giảm nhiệt tình truyền giáo. Đúng là sự tin cậy này vào Đấng vô
hình có thể làm chúng ta cảm thấy mất phương hướng: nó giống như chìm xuống
biển sâu và không biết mình sẽ gặp những gì. Bản thân tôi từng thường xuyên
trải nghiệm tình cảnh này. Nhưng không có sự tự do nào lớn hơn là để mình được
Chúa Thánh Thần hướng dẫn, không tìm cách vạch kế hoạch và kiểm soát mọi sự
từng chi tiết, trái lại để cho Người soi sáng, hướng dẫn và điều khiển chúng
ta, dẫn đưa chúng ta đi đâu tuỳ theo ý Người. Chúa Thánh Thần biết rõ cái gì
cần ở đâu và lúc nào. Hiệu quả một cách mầu nhiệm có nghĩa là như thế.
Sức
mạnh truyền giáo của kinh nguyện chuyển cầu
281.
Có một hình thức cầu nguyện thúc đẩy chúng ta đặc biệt dấn thân cho công cuộc
truyền giáo và tìm kiếm lợi ích của người khác, đó là: kinh nguyện chuyển cầu.
Chúng ta hãy dừng lại ít phút và nhìn vào cõi lòng của Thánh Phaolô để xem kinh
nguyện của ngài như thế nào. Kinh nguyện của ngài đầy ắp những con người:
“...Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, ... bởi vì
tôi mang anh em trong lòng tôi” (Pl 1:4, 7). Ở đây chúng ta thấy kinh nguyện
chuyển cầu không kéo tâm trí chúng ta ra khỏi việc chiêm niệm thực sự, vì chiêm
niệm đích thực luôn luôn có chỗ cho người khác.
282.
Thái độ này trở thành một kinh nguyện tạ ơn Thiên Chúa cho người khác: “Tôi
hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi
Ðức Kitô Giêsu” (1 Cr 1:4); “Tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi, mỗi lần nhớ đến anh
em” (Pl 1:3). Hoàn toàn không ngờ vực, tiêu cực hoặc gây thất vọng, thái độ này
là một cái nhìn thiêng liêng xuất phát từ đức tin sâu xa biết nhìn nhận những
gì Thiên Chúa đang làm nơi cuộc đời của những người khác. Đồng thời, đây là
lòng biết ơn tuôn ra từ một trái tim quan tâm tới người khác. Khi người truyền
giáo đứng dậy sau khi cầu nguyện, lòng của họ được mở rộng hơn; không còn chỉ
quan tâm đến bản thân mình, họ háo hức làm việc thiện và chia sẻ cuộc sống với
những người khác.
283.
Những người nam người nữ tuyệt vời của Thiên Chúa đều là những người chuyển cầu
tuyệt vời. Lời kinh chuyển cầu giống như “men trong trái tim của Thiên Chúa Ba
Ngôi”. Đó là cách để đi sâu vào trái tim của Chúa Cha và khám phá ra những khía
cạnh có thể dọi ánh sáng trên những tình huống cụ thể và thay đổi chúng. Có thể
nói tim của Thiên Chúa bị lời chuyển cầu của chúng ta đánh động, nhưng trên
thực tế Người luôn luôn có ở đó trước. Cái mà lời chuyển cầu của chúng ta đạt
được là sức mạnh, tình yêu và sự trung tín của Người được tỏ lộ rõ ràng hơn
giữa dân chúng.
II. ĐỨC MARIA, MẸ CỦA VIỆC TÂN PHÚC ÂM HOÁ
284.
Cùng với Chúa Thánh Thần, Đức Maria luôn luôn hiện diện giữa dân [Chúa]. Ngài
cùng với các môn đệ cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần ngự đến (Cv 1:14) và nhờ
đó diễn ra cuộc bùng phát truyền giáo vào ngày lễ Ngũ Tuần. Đức Maria là Mẹ của
Hội Thánh truyền giáo, và không có Mẹ, chúng ta không bao giờ có thể thực sự
hiểu rõ tinh thần của cuộc tân phúc âm hoá.
Món
quà của Chúa Giêsu cho dân của Ngài
285.
Trên thánh giá, khi đang chịu đựng nơi thân thể mình cuộc hội ngộ đầy kịch tính
giữa tội của thế gian và lòng thương xót của Thiên Chúa, Đức Giêsu có thể cảm
nhận được sự hiện diện đầy an ủi của Mẹ và các bạn của Ngài dưới chân thánh
giá. Vào giờ phút quyết định ấy, trước khi hoàn tất công trình mà Cha đã giao
phó cho Ngài, Đức Giêsu nói với Đức Maria: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Rồi
ngài nói với người bạn dấu yêu của Ngài: “Đây là mẹ của anh” (Ga 19:26-27).
Những lời này của Đức Giêsu trong cơn hấp hối chủ yếu không phải là để bày tỏ
lòng tôn sùng và quan tâm đối với Mẹ của Ngài; đúng hơn, đó là một công thức
của mặc khải để tỏ lộ mầu nhiệm của một sứ mạng cứu rỗi đặc biệt. Đức Giêsu
trối lại cho chúng ta Mẹ của Ngài. Chỉ sau khi làm xong việc này, Đức Giêsu
biết rằng “bây giờ mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19:28). Dưới chân thập giá, vào giờ
phút tột đỉnh này của cuộc tạo dựng mới, Đức Kitô đưa chúng ta đến với Đức
Maria. Ngài đưa chúng ta đến với Mẹ vì Ngài không muốn chúng ta đi trên đường
đời mà không có một người mẹ, và dân của chúng ta đọc được nơi hình ảnh từ mẫu
này tất cả các mầu nhiệm của Tin Mừng. Đức Kitô không muốn rời Hội Thánh mà
không để lại biểu tượng này của tình mẫu tử. Là người đã đem Đức Giêsu vào thế
gian với một đức tin tuyệt vời, Mẹ Maria cũng đồng hành với “những người còn
lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và
giữ lời chứng của Ðức Giêsu” (Kh 12:17). Mối liên kết mật thiết giữa Đức Maria,
Hội Thánh và từng tín hữu, dựa trên sự kiện mỗi người sinh ra Đức Kitô theo
cách riêng của mình, đã được Chân Phước Isaac stella diễn tả thật tuyệt vời:
“Trong Sách Thánh được linh hứng, những gì được nói về người trinh nữ làm mẹ
theo một nghĩa phổ quát là Hội Thánh, đều được hiểu theo một nghĩa đặc thù là
Trinh Nữ Maria... Tương tự, mỗi Kitô hữu cũng được gọi là hiền thê của Lời Thiên
Chúa, là mẹ của Đức Kitô, là con gái và em gái của Ngài, vừa đồng trinh vừa
đông con cái... Đức Kitô đã ở chín tháng trong nhà tạm cung lòng của Đức Maria.
Ngài ở trong nhà tạm đức tin của Hội Thánh cho tới ngày tận thế. Ngài sẽ ở mãi
mãi trong sự hiểu biết và tình yêu của mỗi linh hồn tín hữu”.[212]
286.
Đức Maria đã có thể biến cái chuồng bò lừa thành một mái ấm cho hài nhi Giêsu,
với những mảnh tã nghèo nàn và một tình yêu thương chan chứa. Mẹ là nữ tỳ của
Cha để ca hát tán tụng Cha. Mẹ là người bạn luôn luôn quan tâm để cuộc đời
chúng ta không thiếu rượu. Mẹ là người phụ nữ có trái tim bị lưỡi gươm đâm thâu
và đồng cảm với những nỗi đau của chúng ta. Là mẹ của mọi người, Mẹ là dấu hiệu
hi vọng cho các dân tộc đang quặn đau để sinh ra công lý. Mẹ là người truyền
giáo đến gần chúng ta và đồng hành với chúng ta suốt dòng đời, dùng tình mẫu tử
để mở lòng chúng ta ra đón nhận đức tin. Là người mẹ thực sự, mẹ đi bên cạnh
chúng ta, chia sẻ các phấn đấu của chúng ta và hằng bao bọc chúng ta bằng tình
thương của Thiên Chúa. Bằng nhiều tước hiệu khác nhau, thường gắn liền với các
đền đài của Mẹ, Mẹ Maria chia sẻ lịch sử của mỗi dân tộc đã đón nhận Tin Mừng
và trở thành một phần của căn tính lịch sử của dân tộc ấy. Nhiều cha mẹ Kitô
hữu xin cho con cái họ được rửa tội tại một đền Đức Mẹ, để biểu lộ niềm tin của
họ vào tình từ mẫu của Mẹ, tình từ mẫu sinh ra các con cái mới cho Thiên Chúa.
Tại nhiều đền thờ Đức Mẹ, chúng ta có thể thấy Mẹ Maria tập họp đông đảo các
con cái Mẹ, những người con hết sức cố gắng hành hương đến đó để được nhìn thấy
Đức Mẹ và được Đức Mẹ nhìn thấy mình. Tại đây họ tìm được sức mạnh Thiên Chúa
ban để chịu đựng những vất vả mệt nhọc và những đau khổ trong cuộc sống. Như Mẹ
an ủi Thánh Juan Diego, Mẹ cũng ban cho họ niềm an ủi và tình thương từ mẫu, và
thì thầm vào tai họ: “Con đừng lo lắng... Không phải Mẹ của con đang ở đây
sao?”[213]
Ngôi
Sao của cuộc tân phúc âm hoá
287.
Chúng ta xin Mẹ của Tin Mừng sống chuyển cầu để lời mời gọi này cho một giai
đoạn mới của việc loan báo Tin Mừng được toàn thể cộng đồng Hội Thánh đón nhận.
Đức Maria là người phụ nữ đầy đức tin, sống và tiến bước trong đức tin,[214] và
“cuộc lữ hành đức tin phi thường của Mẹ biểu thị một điểm qui chiếu cho Hội
Thánh”.[215] Đức Maria để mình được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong hành trình
đức tin hướng tới sứ mạng phục vụ và sinh hoa kết quả. Ngày nay chúng ta hướng
về Mẹ và xin Mẹ giúp chúng ta loan báo sứ điệp cứu độ cho mọi người và giúp
những người mới trở thành môn đệ đến lượt họ cũng trở thành những người loan
báo Tin Mừng.[216] Trên con đường loan báo Tin Mừng này, chúng ta sẽ gặp những
lúc khô khan, tăm tối và cả mệt mỏi. Bản thân Đức Maria đã từng trải nghiệm
những thử thách này trong những năm tuổi thơ của Đức Giêsu tại Nadarét: “Đây là
khởi đầu của Tin Mừng, tin mừng hân hoan. Tuy nhiên, không khó để nhận thấy nơi
khởi đầu ấy một sự nặng nề đặc biệt của trái tim, gắn liền với một thứ đêm tối
đức tin—những từ được Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng—một thứ ‘màn che’ mà qua đó
chúng ta phải đến gần Đấng Vô Hình và sống trong sự thân mật với mầu nhiệm. Và
đây chính là cách mà Đức Maria trong suốt nhiều năm đã sống trong sự thân mật
với mầu nhiệm Con của ngài, và tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin của
ngài”.[217]
288.
Công cuộc loan báo Tin Mừng của Hội Thánh có một phong cách “Maria”. Mỗi khi
nhìn lên Đức Mẹ, chúng ta một lần nữa tin vào bản chất cách mạng của tình
thương và sự dịu dàng. Nơi Mẹ ta thấy rằng lòng khiêm nhường và dịu dàng không
phải là nhân đức của kẻ những kẻ yếu đuối, nhưng của những người mạnh không cư
xử tồi tệ với người khác để cảm thấy mình là quan trọng. Chiêm ngắm Đức Maria,
chúng ta nhận ra rằng ngài là người từng ca ngợi Thiên Chúa vì “đã hạ bệ những
kẻ quyền thế” và “đuổi người giàu có trở về tay trắng” (Lc 1:52-53) cũng là
người đem đến một hơi ấm gia đình cho cuộc theo đuổi công lý của chúng ta. Ngài
cũng là người cẩn thận “ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”
(Lc 2:19). Đức Maria có khả năng nhận ra những dấu vết của Thần Khí Thiên Chúa
trong những sự kiện lớn cũng như nhỏ. Mẹ liên lỷ chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên
Chúa trong thế giới chúng ta, trong lịch sử nhân loại và trong đời sống thường
ngày của chúng ta. Mẹ là người phụ nữ cầu nguyện và lao động ở Nadarét, và cũng
là Đức Bà Phù Giúp, rời làng mình một cách “vội vã” (Lc 1:39) để đi phục vụ
người khác. Sự giao thoa này giữa công bằng và nhân hậu, giữa chiêm niệm và lo
cho người khác, là cái làm cho cộng đồng Hội Thánh nhìn lên Đức Mẹ như là mẫu
gương cho việc loan báo Tin Mừng. Chúng ta nài xin sự chuyển cầu từ mẫu của Mẹ
để Hội Thánh có thể trở thành một mái ấm cho nhiều dân tộc, một người mẹ cho
mọi dân tộc, và mở đường để một thế giới mới có thể được sinh ra. Chính Đức
Kitô phục sinh đã nói với chúng ta với một quyền năn làm chúng ta tràn trề tin
tưởng và hi vọng: “Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21:5). Với Đức Mẹ, chúng ta
tin tưởng tiến bước về sự hoàn thành lời hứa này, và chúng ta cầu nguyện với
Mẹ:
Maria, Trinh Nữ, Mẹ dấu yêu
bởi tác động của Chúa Thánh Thần,
Mẹ đã đón nhận Lời Sự Sống
tự thẳm sâu đức tin khiêm cung của Mẹ:
Như Mẹ đã tự hiến hoàn toàn cho Đấng Hằng Hữu,
xin giúp chúng con cũng biết thưa “vâng”
trước tiếng gọi ngày càng cấp bách,
đi rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu.
Đầy tràn sự hiện diện của Đức Kitô trong lòng,
Mẹ đem niềm vui đến cho Gioan Tẩy Giả,
khiến thánh nhân trong lòng mẹ mình nhảy mừng.
Rộn ràng niềm vui sướng hân hoan,
Mẹ ca hát những kỳ công của Chúa.
Đứng dưới chân thập giá với lòng tin kiên vững,
Mẹ vui sướng nhận niềm an ủi phục sinh,
và cùng các môn đệ ngóng đợi Thánh Thần đến,
để Hội Thánh truyền giáo được khai sinh.
Nay xin Mẹ chuyển cầu cho chúng con
được một nhiệt huyết mới bắt nguồn từ phục sinh,
để chúng con đem cho mọi người
Tin Mừng của sự sống chiến thắng tử thần.
Xin cho chúng con niềm can đảm thánh thiện
biết tìm ra những lối đi mới
để quà tặng của cái đẹp không phai
có thể đến được với mọi người.
Ôi Trinh Nữ hằng lắng nghe và chiêm ngắm,
Mẹ tình yêu, Cô Dâu của tiệc cưới vĩnh cửu,
xin cầu cho Hội Thánh mà Mẹ là biểu tượng tinh
tuyền,
để Hội Thánh không bao giờ đóng kín
hay đánh mất niềm say mê thiết lập Nước Chúa.
Ôi Ngôi Sao của cuộc tân phúc âm hoá,
xin giúp chúng con trở thành những chứng nhân rạng
rỡ
cho tình hiệp thông và phục vụ,
cho đức tin nồng cháy và quảng đại,
cho công lý và tình thương đối với người nghèo,
để niềm vui của Tin Mừng chạm đến tận cùng trái
đất,
soi sáng cả những bờ rìa thế giới.
Lạy Mẹ của Tin Mừng sống động,
suối hạnh phúc cho những người hèn mọn của Thiên
Chúa,
xin cầu cho chúng con.
Amen. Allêluia!
Ban
hành tại Roma, cạnh Đền Thờ Thánh Phêrô, ngày 24 tháng 11 năm 2013, năm đầu
tiên sứ vụ Giáo Hoàng của tôi,nhân ngày đại lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ
Trụ, và ngày kết thúc Năm Đức Tin.
PHANXICÔ
CHÚ THÍCH
[1]
PHAOLÔ VI, Tông Huấn Gaudete in Domino (9-5-1975), 22: AAS 67 (1975),
297.
[2] Ibid.
8: AAS 67 (1975), 292.
[3]
Thông Điệp Deus Caritas Est (25-12-2005), 1: AAS 98 (2006),
217.
[4]
ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn Kiện
Aparecida, 29-6-2007, 360.
[5] Ibid.
[6]
PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), 80: AAS
68 (1976), 75.
[7] Spiritual
Canticle, 36, 10.
[8] Adversus
Haereses, IV, c. 34, n. 1: PG 7, pars prior, 1083: “Omnem novitatem
attulit, semetipsum afferens”.
[9]
PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), 7: AAS
68 (1976), 9.
[10]
Cf. Propositio 7.
[11]
BÊNÊĐICTÔ XVI, Bài giảng Thánh Lễ Bế Mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục (28-10-2012):
AAS 104 (2102), 890.
[12] Ibid.
[13]
BÊNÊĐICTÔ XVI, Bài giảng Thánh Lễ Khai Mạc Đại Hội Lần Thứ V của các Giám Mục
Châu Mỹ Latinh và Caribê (13-5-2007), Aparecida, Brazil: AAS 99
(2007), 437.
[14]
Thông Điệp Redemptoris Missio (7-12-1990), 34: AAS 83 (1991),
280.
[15] Ibid.,
40: AAS 83 (1991), 287.
[16] Ibid.,
86: AAS 83 (1991), 333.
[17]
ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn kiện
Aparecida, 29-6-2007, 548.
[18] Ibid.,
370.
[19]
Cf. Propositio 1.
[20]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles Laici (30-12-1988),
32: AAS 81 (1989) 451.
[21]
ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn kiện
Aparecida, 29-6-2007, 201.
[22] Ibid.,
551.
[23]
PHAOLÔ VI, Thông Điệp Ecclesiam Suam (6-8-1964), 9, 10, 11:
AAS 56 (1964), 611-612.
[24]
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Đại Kết Unitatis Redintegratio,
6.
[25]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Oceania (22-11-2001),
19: AAS 94 (2002), 390.
[26]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles Laici (30-12-1988),
26: AAS 81 (1989), 438.
[27]
Cf. Propositio 26.
[28]
Cf. Propositio 44.
[29]
Cf. Propositio 26.
[30]
Cf. Propositio 41.
[31]
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ của Giám Mục Christus
Dominus, 11.
[32]
Cf. BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ nhân Kỷ Niệm 40 Năm Sắc Lệnh Ad Gentes (11-3-2006):
AAS 98 (2006), 337.
[33]
Cf. Propositio 42.
[34]
Cf. Giáo Luật 460-468; 492-502; 511-514; 536-537.
[35]
Thông Điệp Ut Unum Sint (25-5-1995), 95: AAS 87 (1995),
977-978.
[36]
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium,
23.
[37]
GIOAN PHAOLÔ II, Tự Sắc Apostolos Suos (21-5-1998): AAS 90
(1998), 641-658.
[38]
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Đại Kết Unitatis Redintegratio,
11.
[39]
Cf. S. Th., I-II, q. 66, a. 4-6.
[40] S.
Th., I-II, q. 108, a. 1.
[41]
“Chúng ta thờ phương Thiên Chúa không phải bằng những lễ vật hay những quà tặng
vật chất cho Người, nhưng đúng hơn là cho chúng ta và cho tha nhân. Thiên Chúa
không cần các lễ vật của chúng ta, nhưng Người đòi chúng ta dâng những lễ vật
ấy để tôn thờ Người và để mang lại lợi ích cho anh chị em chúng ta. Đối với
Người, lòng thương xót là lễ vật đẹp lòng Chúa nhất, vì nó có sức khắc phục các
khiếm khuyết trong việc tôn thờ và trong lễ vật của chúng ta, và vì hơn tất cả
các thứ khác, lòng thương xót t́m kiếm lợi ích cho đồng loại của chúng ta” (S.
Th., II-II, q. 30, a. 4, ad 1).
[42]
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Mặc Khải Dei Verbum, 12.
[43]
Tự Sắc Socialium Scientiarum (1-1-1994): AAS 86 (1994), 209.
[44]
Thánh Tôma Aquinô cắt nghĩa rằng số lượng lớn các tạo vật và sự đa dạng của
chúng “là ý muốn của tác nhân đệ nhất”, Người muốn rằng “cái gì mà một cá thể
còn thiếu để phản chiếu sự tốt lành của Thượng Đế thì được bù lại bởi các cá
thể khác”, vì sự tốt lành của Tạo Hoá “không thể được phản chiếu đầy đủ bởi chỉ
một tạo vật mà thôi” (S. Th., I, q. 47, a. 1). Vì vậy chúng ta cần hiểu
rõ sự đa dạng của các chủng loại trong các mối liên hệ của chúng với nhau
(cf. S. Th., I, q. 47, a. 2, ad 1; q. 47, a. 3). Tương tự, chúng ta
cần lắng nghe và bổ sung cho nhau trong nhận thức cục bộ của chúng ta về thực
tại và về Tin Mừng.
[45]
GIOAN XXIII, Diễn từ Khai Mạc Công Đồng Vaticanô II (11-10-1962): AAS 54
(1962), 792: “Est enim aliud ipsum depositum fidei, seu veritates, quae
veneranda doctrina nostra continentur, aliud modus, quo eaedem
enuntiantur”.
[46]
GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Ut Unum Sint (25-5-1995), 19: AAS
87 (1995), 933.
[47] S.
Th., I-II, q. 107, a. 4.
[48] Ibid.
[49]
Số 1735
[50]
Cf. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Familiaris Consortio (22-11-1981),
34: AAS 74 (1982), 123.
[51]
Cf. THÁNH AMBROSIÔ, De Sacramentis, IV, 6, 28: PL 16, 464: “Tôi
phải luôn luôn lãnh nhận bí tích này để được tha thứ tội lỗi. Nếu tôi liên tục
phạm tội, tôi phải có thuốc chữa”; ID., op. cit., IV, 5, 24: PL 16, 463: “Những
người ăn manna đều đã chết; những ai ăn thánh thể này sẽ được ơn tha các tội
của họ” ; SAINT CYRIL OF ALEXANDRIA, In Joh. Evang., IV, 2: PG 73,
584-585: “Tôi xét mình và thấy mình bất xứng. Với những người nói như vậy, tôi
nói: Vậy khi nào bạn sẽ xứng đáng? Khi cuối cùng bạn ra trình diện trước toà
Chúa Kitô ư? Vậy nếu các tội lỗi ngăn cản bạn không đến gần [Ngài] và bạn không
bao giờ ngưng phạm tội—vì như Thánh Vịnh nói, ‘nào ai biết lỗi của mình?’—bạn
sẽ tiếp tục không dự phần vào ơn thánh hoá ban sự sống đời đời sao?”
[52]
BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ cho các Giám Mục Brazil tại Nhà Thờ Chính Toà
São Paolo, (11-5-2007), 3: AAS 99 (2007), 428.
[53]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Pastores Dabo Vobis (25-3-1992),
10: AAS 84 (1992), 673.
[54]
PHAOLÔ VI, Thông Điệp Ecclesiam Suam (6-11-1964), 19: AAS 56
(1964), 609.
[55]
THÁNH GIOAN CHRYSOSTOMÔ, De Lazaro Concio, II, 6: PG 48, 992D.
[56]
Cf. Propositio 13.
[57]
GIOAN PHAOLÔ, Tông Huấn Ecclesia in Africa (11-9-1995),
52: AAS 88 (1996), 32-33; ID.,Thông Điệp Sollicitudo Rei Socialis (30
December 1987), 22: AAS 80 (1988), 539.
[58]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Ecclesia in Asia (11-11-1999),
7: AAS 92 (2000), 458.
[59]
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CÔNG GIÁO HOA KỲ, “Mục vụ cho những người có xu hướng đồng
tính luyến ái: Hướng dẫn chăm sóc mục vụ” (2006), 17.
[60]
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC PHÁP, “Tư Vấn Gia Đình và Xã Hội, Mở rộng hôn nhân cho những
người đồng giới? Hãy mở cuộc tranh luận!” (28-9-2012).
[61]
Cf. Propositio 25.
[62]
CÔNG GIÁO TIẾN HÀNH Ý, “Sứ Điệp của Đại Hội Toàn Quốc Gửi Giáo Hội và Tổ Quốc”
(8-5-2011).
[63]
J. RATZINGER, The Current Situation of Faith and Theology. Giảng
huấn tại Hội nghị các Chủ Tịch các Uỷ Ban Giám Mục Châu Mỹ Latinh về Giáo Lý
Đức Tin, Guadalajara, Mexico, 1996. Bản dịch tiếng Anh trong L’Osservatore
Romano, Ấn bản tiếng Anh, 6-12-1996. Cf. ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC
CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn kiện Aparecida, 29-6-2007, 12.
[64]
G. BERNANOS, Journal d’un curé de campagne, Paris, 1974, 135.
[65]
Diễn từ Khai mạc Công Đồng Vaticanô II (11-10-1962): 4, 2-4: AAS 54 (1962),
789.
[66]
J.H. NEWMAN, Thư ngày 26-1-1833, trong The Letters and Diaries of John
Henry Newman, vol. III, Oxford 1979, 204.
[67]
BÊNÊĐICTÔ XVI, Bài giảng Thánh Lễ Khai mạc Năm Đức Tin (11-10-2012): AAS 104
(2012), 881.
[68]
THOMAS À KEMPIS, De Imitatione Christi, Lib. I, IX, 5: .
“Imaginatio locorum et mutatio multos fefellit” (“Dreaming of different places,
and moving from one to another, has misled many”).
[69]
Chúng ta có thể học được từ chứng từ của Thánh Têrêsa Lisieux khi ngài kể về
một chị nữ tu kia rất khó tính nhưng một trải nghiệm nội tâm đã có một tác động
quyết định đối với chị ấy: “Một chiều mùa đông tôi đang làm công tác thường
xuyên của mình. Trời lạnh và tối dần... Thình lình tôi nghe từ đàng xa những
tiếng đàn nhạc nhịp nhàng. Tôi bắt đầu tưởng tượng ra một căn phòng thắp sáng,
dát vàng, và trong phòng có các quí bà còn trẻ ăn mặc lịch lãm đang trao đổi
cho nhau những lời tâng bốc xã giao. Rồi tôi nhìn sang người phụ nữ nghèo bị
bệnh mà tôi đang chăm sóc. Thay vì tiếng nhạc du dương, tôi nghe thấy tiếng bà
rên rỉ và than thở... Tôi không thể diễn tả nổi điều gì đang xảy ra trong tâm
hồn mình. Tôi chỉ biết rằng Chúa đã soi sáng tâm hồn tôi bằng những tia sáng
chân lý vượt quá sự hào nhoáng phù du của những thú vui trần thế, khiến tôi khó
có thể tin vào niềm hạnh phúc của mình” (Ms. C, 29v-30r, in Oeuvres
Complètes, Paris, 1992, 274-275).
[70]
Cf. Propositio 8.
[71]
H. DE LUBAC, Méditation sur l’Église, Paris, 1968, 321.
[72]
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội
của Hội Thánh, 295.
[73]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles Laici (30-12-1988),
51: AAS 81 (1989), 413.
[74]
THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Tuyên Bố Inter Insigniores về Vấn đề
chấp nhận phụ nữ vào chức linh mục thừa tác (15-10-1976): AAS 68 (1977) 115,
dẫn trong GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles
Laici (30-12-1988), chú thích 190: AAS 81 (1989), 493.
[75]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Mulieris Dignitatem (15-8-1988), 27:
AAS 80 (1988), 1718.
[76]
Cf. Propositio 51.
[77]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Asia (6-11-1999),
19: AAS 92 (2000), 478.
[78] Ibid.,
2: AAS 92 (2000), 451.
[79]
Cf. Propositio 4.
[80]
Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium,
1.
[81]
Bài Suy Niệm trong Phiên Họp Chung I tại Hội Nghị Thường Kỳ XIII của Thượng Hội
Đồng Giám Mục (8-10-2012): AAS 104 (2012), 897.
[82]
Cf. Propositio 6; CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Mục Vụ về
Hội Thánh trong Thế Giới Hôm Nay Gaudium Spes, 22.
[83]
Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium,
9.
[84]
Cf. ĐẠI HỘI LẦN THỨ III CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ,Văn Kiện
Puebla, 23-3-1979, Nos. 386-387.
[85]
Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Mục Vụ về Hội Thánh trong Thế Giới Hôm
Nay Gaudium Spes, 36.
[86] Ibid.,
25.
[87] Ibid.,
53.
[88]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Novo Millennio Ineunte (6-1-2001),
40: AAS 93 (2001), 295.
[89] Ibid.
[90]
GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Missio (7-12-1990),
52: AAS 83 (1991), 300; cf. Tông Huấn Catechesi Tradendae (16
October 1979) 53: AAS 71 (1979), 1321.
[91]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Oceania (22-11-2001),
16: AAS 94 (2002), 383.
[92]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Africa (14-9-1995),
61: AAS 88 (1996), 39.
[93]
THÁNH TÔMA AQUINÔ, S. Th. I, q. 39, a. 8 cons. 2: “Nếu không
có Chúa Thánh Thần là sợi dây nối kết cả hai, chúng ta không thể hiểu được sự
hiệp nhất liên kết giữa Cha và Con”; cf. I, q. 37, a. 1, ad 3.
[94]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Oceania (22-11-2001),
17: AAS 94 (2002), 385.
[95]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Asia (6-11-1999),
20: AAS 92 (2000), 478-482.
[96]
Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium,
12.
[97]
GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Fides et Ratio (14-9-1998), 71:
AAS 91 (1999), 60.
[98]
ĐẠI HỘI LẦN THỨ III CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn Kiện
Puebla, 23-3-1979, 450; cf. ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ
LATINH VÀ CARIBÊ, Văn Kiện Aparecida, 29-6-2007, 264.
[99]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Asia (6-11-1999),
21: AAS 92 (2000), 482-484.
[100]
Số 48: AAS 68 (1976), 38.
[101] Ibid.
[102]
Diễn từ Khai Mạc Đại Hội Lần Thứ V của các Giám Mục Châu Mỹ Latinh và Caribê
(13-5-2007), 1: AAS 90 (2007), 446.
[103]
ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn Kiện
Aparecida, 29-6-2007, 262.
[104] Ibid.,
263
[105]
Cf. THÁNH TÔMA AQUINÔ, S. Th., II-II, q. 2, a. 2.
[106]
ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ,Văn Kiện
Aparecida, 29-6-2007, 264.
[107] Ibid.
[108]
Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium,
12.
[109]
Cf. Propositio 17.
[110]
Cf. Propositio 30.
[111]
Cf. Propositio 27.
[112]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Dies Domini (31 May 1998), 41: AAS
90 (1998), 738-739.
[113]
PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), 78: AAS
68 (1976), 71.
[114] Ibid.
[115]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Pastores Dabo Vobis (25-3-1992),
26: AAS 84 (1992), 698.
[116] Ibid.,
25: AAS 84 (1992), 696.
[117]
THÁNH TÔMA AQUINÔ, S. Th. II-II, q. 188, a. 6.
[118]
PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), 76: AAS
68 (1976), 68.
[119] Ibid.,
75: AAS 68 (1976), 65.
[120] Ibid.,
63: AAS 68 (1976), 53
[121] Ibid.,
43: AAS 68 (1976), 33
[122] Ibid.
[123]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Pastores Dabo Vobis (25-3-1992),
10: AAS 84 (1992), 672.
[124]
PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), 40: AAS
68 (1976), 31.
[125] Ibid.,
43: AAS 68 (1976), 33.
[126]
Cf. Propositio 9.
[127]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Pastores Dabo Vobis (25-3-1992),
26: AAS 84 (1992), 698.
[128]
Cf. Propositio 38.
[129]
Cf. Propositio 20.
[130]
Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Phương Tiện Truyền Thông Inter
Mirifica, 6.
[131]
Cf. De Musica, VI, 13, 38: PL 32, 1183-1184; Confessiones,
IV, 13.20: PL 32, 701.
[132]
BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ cho buổi trình chiếu phim tài liệu “Art and Faith”—Via
Pulchritudinis (25-10-2012): L’Osservatore Romano (27-10-2012),
7.
[133] S.
Th., I-II, q. 65, a. 3, ad 2: “propter aliquas dispositiones
contrarias”.
[134]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Asia (6-11-1999),
20: AAS 92 (2000), 481.
[135]
BÊNÊĐICTÔ XVI , Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Verbum Domini (30-9-2010),
1: AAS 102 (2010), 682.
[136]
Cf. Propositio 11.
[137]
Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải Dei Verbum,
21-22.
[138]
Cf. BÊNÊĐICTÔ XVI, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Verbum Domini (30-9-2010),
86-87: AAS 102 (2010), 757-760.
[139]
BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ trong Hội Nghị Khoáng Đại Lần Thứ Nhất của Thượng Hội
Đồng Giám Mục (8-10-2012): AAS 104 (2012), 896.
[140]
PHAOLÔ VI, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Evangelii Nuntiandi (8-12-1975),
17: AAS 68 (1976), 17.
[141]
GIOAN PHAOLÔ II, Sứ Điệp cho Người Khuyết Tật, Angelus (16-11-1980): Insegnamenti,
3/2 (1980), 1232.
[142]
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội
của Hội Thánh, 52.
[143]
GIOAN PHAOLÔ II, Catechesis (24 April 1991): Insegnamenti,
14/1 (1991), 853.
[144]
BÊNÊĐICTÔ XVI, Tự Sắc Intima Ecclesiae Natura (11-11-2012):
AAS 104 (2012), 996.
[145]
Thông Điệp Populorum Progressio (16-3-1967), 14: AAS 59
(1967), 264.
[146]
PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1075), 29: AAS
68 (1976), 25.
[147]
ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ,Văn Kiện
Aparecida, 29-6-June 2007, 380.
[148]
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội
của Hội Thánh, 9.
[149]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in America (22-1-1999),
27: AAS 91 (1999), 762.
[150]
BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est (25-12-2005), 28:
AAS 98 (2006), 239-240.
[151]
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội
của Hội Thánh, 12.
[152]
Tông Thư Octogesima Adveniens (14-5-1971), 4: AAS 63 (1971),
403.
[153]
THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Huấn Thị Libertatis Nuntius (6-8-1984),
XI, 1: AAS 76 (1984), 903.
[154]
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của
Hội Thánh, 157.
[155]
PHAOLÔ VI, Tông Thư Octogesima Adveniens (14-5-1971), 23: AAS
63 (1971), 418.
[156]
PHAOLÔ VI, Thông Điệp Populorum Progressio (26-3-1967), 65:
AAS 59 (1967), 289.
[157] Ibid.,
15: AAS 59 (1967), 265.
[158]
CONFERÊNCIA NACIONAL DOS BISPOS DO BRAZIL, Exigências evangélicas e
éticas de superação da miséria e da fome (April 2002), Introduction,
2.
[159]
GIOAN XXIII, Thông Điệp Mater et Magistra (15-5-1961), 3: AAS
53 (1961), 402.
[160]
THÁNH AUGUSTINÔ, De Catechizandis Rudibus, I, XIX, 22: PL 40, 327.
[161]
THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Huấn Thị Libertatis Nuntius (6-8-1984),
XI, 18: AAS 76 (1984), 907-908.
[162]
GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Centesimus Annus (1-5-1991), 41:
AAS 83 (1991), 844-845.
[163]
GIOAN PHAOLÔ II, Bài giảng trong Thánh Lễ cầu cho việc Loan Báo Tin Mừng cho
các Dân Tộc tại Santo Domingo (11-10-1984), 5: AAS 77 (1985), 358.
[164]
GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Sollicitudo Rei Socialis (30-12-1987),
42: AAS 80 (1988), 572.
[165]
Diễn từ tại Phiên Khai Mạc Hội Nghị Khoáng Đại Lần Thứ V của các Giám Mục Châu
Mỹ Latinh và Caribê (13-5-2007), 3: AAS 99 (2007), 450.
[166]
THÁNH TÔMA AQUINÔ, S. Th., II-II, q. 27, a. 2.
[167] Ibid.,
I-II, q. 110, a. 1.
[168] Ibid.,
I-II, q. 26, a. 3.
[169]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Novo Millennio Ineunte (6-1-2001),
50: AAS 93 (2001), 303.
[170] Ibid.
[171]
Cf. Propositio 45.
[172]
THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Huấn Thị Libertatis Nuntius (6-8-1984),
XI, 18: AAS 76 (1984), 908.
[173]
Cố gắng này bao gồm sự dấn thân nhằm “loại trừ các nguyên nhân thuộc cơ chế
khiến cho kinh tế toàn cầu không hoạt động tốt”: BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ cho
Ngoại Giao Đoàn (8-1-2007): AAS 99 (2007), 73.
[174]
Cf. UỶ BAN XÃ HỘI CỦA HĐGM PHÁP, Réhabiliter la politique (17-2-1999);
cf. PIUS XI, Message of 18-12-1927.
[175]
BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông Điệp Caritas in Veritate (29-6-2009), 2:
AAS 101 (2009), 642.
[176]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles Laici (30-12-1988),
37: AAS 81 (1989), 461.
[177]
Cf. Propositio 56.
[178]
HĐGM CÔNG GIÁO PHILÍPPIN, Thư Mục Vụ What is Happening to
our Beautiful Land? (29-1-1988).
[179]
PHAOLÔ VI, Thông Điệp Populorum Progressio (26-3-1967), 76:
AAS 59 (1967), 294-295.
[180]
HĐGM CÔNG GIÁO HOA KỲ, Thư Mục Vụ Forming Conscience for Faithful
Citizenship (Tháng 11-2007), 13.
[181] HỘI
ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của
Hội Thánh, 161.
[182] Das
Ende der Neuzeit, Würzburg, 1965, 30-31.
[183]
Cf. I. QUILES, S.J., Filosofía de la educación personalista, Buenos
Aires, 1981, 46-53.
[184]
UỶ BAN THƯỜNG VỤ HĐGM CONGO, Thư Chung về tình hình an ninh trong
nước (5-12-2012), 11.
[185]
Cf. PLATO, Gorgias, 465.
[186]
BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ cho Giáo Triều Rôma (21-12-2012): AAS 105 (2013), 51.
[187]
Cf. Propositio 14.
[188]
Cf. Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 1910; HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ
CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh, 168.
[189]
Cf. Propositio 54.
[190]
GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Fides et Ratio (14-9-1998), 88:
AAS 91 (1999), 74.
[191]
THÁNH TÔMA AQUINÔ, Summa contra Gentiles, I, 7; cf. GIOAN PHAOLÔ
II, Thông Điệp Fides et Ratio (14-9-1998), 43: AAS 91 (1999),
39.
[192]
SECOND VATICAN COUNCIL, Sắc Lệnh về Đại Kết Unitatis
Redintegratio, 4.
[193]
Cf. Propositio 52.
[194]
HĐGM ẤN ĐỘ, Tuyên Bố Chung của Đại Hội XXX: Vai trò của Hội Thánh cho
một nước Ấn Độ tốt đẹp hơn (8-3-2013), 8.9.
[195]
Cf. Propositio 53.
[196]
GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Missio (7-12-1990),
56: AAS 83 (1991), 304.
[197]
Cf. BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ cho Giáo Triều Rôma (21-12-2012): AAS 105 (2006),
51; CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Hội
Thánh Ad Gentes, 9; Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo,
856.
[198]
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium,
16.
[199]
UỶ BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, Kitô giáo và các Tôn Giáo trên Thế Giới (1996),
72: Enchiridion Vaticanum 15, No. 1061.
[200] Ibid.
[201]
Cf. ibid., 81-87: Enchiridion Vaticanum 15, Nos. 1070-1076.
[202]
Cf. Propositio 16.
[203]
BÊNÊĐICTÔ XVI, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Medio Oriente (14-9-2012),
26: AAS 104 (2012), 762.
[204]
Cf. Propositio 55.
[205]
Cf. Propositio 36.
[206]
GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Novo Millennio Ineunte (6-1-2001),
52: AAS 93 (2001), 304.
[207]
Cf. V.M. FERNÁNDEZ, “Espiritualidad para la esperanza activa. Discurso en la apertura del I
Congreso Nacional de Doctrina Social de la Iglesia (Rosario 2011)”, in UC
Actualidad, 142 (2011), 16.
[208]
GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Missio (7-12-1990),
45: AAS 83 (1991), 292.
[209]
BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông Điệp, Deus Caritas Est (25-122005), 16:
AAS 98 (2006), 230.
[210] Ibid.,
39: AAS 98 (2006), 250.
[211]
HỘI NGHỊ ĐẶC BIỆT LẦN THỨ HAI CHO CHÂU ÂU CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC, Sứ điệp
cuối, 1: L’Osservatore Romano, Ấn bản hằng tuần tiếng Anh,
27-10-1999, 5.
[212]
ISAAC OF STELLA, Sermo 51: PL 194, 1863, 1865.
[213] Nican
Mopohua, 118-119.
[214]
Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium,
52-69.
[215]
GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Mater (25-3-1987), 6:
AAS 79 (1987), 366-367.
[216]
Cf. Propositio 58.
[217]
GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Mater (25-3-1987), 17:
AAS 79 (1987), 381.
[†] Phụ
chú của người dịch:
® Bản
dịch tiếng Việt này dựa trên bản tiếng Anh chính thức của Vatican, POPE
FRANCIS, The Joy of the Gospel, Vatican Press (2013). Các câu trích
Kinh Thánh lấy từ bản dịch của Nhóm PVCGK với một ít thích nghi theo bản tiếng
Anh.
Đã có
khá nhiều phản ứng trái chiều, đồng tình (như Michael Novak), hay chống đối
(như Rush Limbaugh) về Tông Huấn này, và từ cả các phe cực hữu lẫn cấp tiến tại
Hoa Kỳ, hay phe tả (như các báo Guardian, Reuters của Anh), đặc biệt liên quan
tới các quan điểm của Đức Giáo Hoàng về chính trị và kinh
tế. Tuy nhiên muốn hiểu đúng tư tưởng của Đức Giáo Hoàng, cần phải
đọc Tông Huấn này theo chủ đích của chính ngài là lãnh vực mục vụ.
Có thể xem thêm chi tiết tại các đường link dưới đây:
Ở số 54, điểm gây tranh cãi là thuật ngữ “trickle-down”
(“sự nhỏ giọt”) của bản dịch tiếng Anh mà một số người cho là dịch không chính
xác và có ý tiêu cực. Bản gốc tiếng Tây Ban Nha viết là “derame” (“cái
gì tràn ra, vung vãi ra”), bản tiếng Pháp dịch là “rechute favorable”
(“cái tràn ra có lợi”). Trong bản tiếng Việt này, chúng tôi tạm dịch là “lọt
sàng xuống nia”, một câu nói quen dùng trong tiếng Việt và xem ra hợp với bản
tiếng Tây Ban Nha và bản tiếng Pháp và có lẽ phần nào lột tả đúng ý của tác giả
hơn.
Xem
bài phỏng vấn Đức Thánh Cha của ký giả báo La Stampa tại đây: http://www.vietcatholic.net/News/Html/119628.htm
Đặc
biệt xem nhận định khá chi tiết của Michael Novak tại đây:
http://www.nationalreview.com/article/365720/agreeing-pope-francis-michael-novak; bản dịch tiếng Việt của Vũ Văn An trên
Vietcatholic.org:http://vietcatholic.org/News/Html/119583.htm
Tác giả bài viết: UB/LBTM/HĐGMVN
chuyển ngữ
Cám ơn bạn nhiều lắm. Bản dịch trong cuốn sách của Nhà Sách Đức Bà Truyền Giáo... ôi thở dài...
Trả lờiXóa