LƯU Ý

Đây là những văn bản Huấn quyền của Giáo Hội mà anthanhlinhgiang đã thu thập được trong nhiều năm và từ nhiều nguồn khác nhau - có thể từ internet hoặc có thể từ những người thiện chí gửi đến. Vì thế có những văn bản không rõ nguồn được lấy từ đâu hoặc có thể không có tính chính xác trong khi dịch thuật hoặc đã bị chỉnh sửa. Vì vậy trong quá trình sử dụng, bạn nào thấy có điều bất trắc, xin vui lòng báo lại để anthanhlinhgiang điều chỉnh hoặc gỡ bỏ.

Những văn bản có nguồn gốc thì anthanhlinhgiang sẽ ghi rõ ràng để các bạn yên tâm.

Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

ĐTC Gioan Phaolô II - Suy Niệm Ca Vịnh Theo Giờ Kinh Phụng Vụ - Phần VI

Bài 151 – TV 129 (130) (Thứ Tư 19/10/2005)

 BÀI CA VỊNH TÌNH THƯƠNG THIÊN CHÚA

(Thánh Vịnh 129 [130]: - Kinh Tối Thứ Bảy, Tuần Thứ Ba)

 1. Vừa được công bố là một trong những bài Thánh Vịnh nổi tiếng nhất và được yêu chuộng nhất của truyền thống Kitô giáo: đó là bài “De Profundis”, được gọi như thế bởi cách nó được bắt đầu ở bản dịch Langữ. Cùng với “Miserere”, nó trở thành một trong những bài thánh vịnh thống hối được yêu chuộng theo lòng sùng mộ của dân chúng.
 Không kể những gì liên quan tới vấn đề tang chế, bài thánh vịnh này trước hết là một bài ca vịnh về tình thương thần linh và về việc hòa giải giữa tội nhân và Chúa là Vị Thiên Chúa công minh song luôn sẵn sàng tỏ mình ra như “xót thương và nhân ái, chậm bất bình và hết sức kiên trì yêu thương và trung tín, giữ tình yêu thương trung kiên cho đến ngàn đời, thứ tha điều sai quấy, vấp phạm và tội lỗi” (Ex 34:6-7). Chính vì lý do này mà bài thánh vịnh của chúng ta đây được đưa vào phụng vụ giờ kinh tối Giáng Sinh và toàn tuần bát nhật Giáng Sinh, cũng như vào phụng vụ giờ kinh tối của Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh và lễ trọng Truyền Tin Lời Nhập Thể.
 2. Bài Thánh Vịnh 129 (130) được mở đầu bằng một tiếng kêu vọng lên từ vực sâu của sự dữ và lỗi lầm (câu 1-2). Cái “tôi” của thánh vịnh gia thân thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Chúa, con kêu lên tới Chúa”. Thế rồi bài thánh vịnh diễn tiến làm 3 đoạn theo chủ đề tội lỗi và thứ tha. Trước hết là việc quay trở về cùng Chúa, Đấng được trực tiếp gọi bằng “Ngài”: “Ôi Chúa, nếu Chúa chấp tội thì lạy Chúa nào ai chống lại được hay chăng? Thế nhưng Chúa là Đấng thứ tha mà Chúa được kính sợ” (câu 3-4).
 Vấn đề quan trọng ở đây là những gì làm phát sinh ra lòng trọng kính, một thái độ hãi sợ hòa lẫn với lòng kính mến, không phải là bị trừng phạt mà là được thứ tha. Ngài không phải là một Thiên Chúa chỉ biết giận dữ, thái độ bao dung quảng đại bất vũ phu của Ngài là những gì chắn chắn khơi lên trong chúng ta niềm kính sợ. Thật thế, Thiên Chúa không phải là một vị vương chủ không biết nhẫn tâm chỉ biết lên án lỗi lầm, mà là một người Cha yêu thương, Đấng chúng ta cần phải kính mến không phải vì sợ bị trừng phạt mà vì lòng nhân ái sẵn sàng thứ tha của Ngài.
 3. Ở tâm điểm của đoạn thứ hai là cái “tôi” của thánh vịnh gia không ngỏ lời cùng Chúa nữa mà là nói về mình: “Tôi ngong ngóng đợi chờ Chúa, linh hồn tôi mong đợi lời Ngài. Linh hồn tôi trông đợi Chúa còn hơn cả lính canh trông chờ hừng đông” (câu 5-6). Từ tâm khảm của thánh vịnh gia thống hối này bấy giờ nổi lên niềm ước mong, hy vọng và tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ lên tiếng tuyên bố việc Ngài giải phóng và xóa bỏ lỗi lầm.
Đoạn thứ ba cũng là đoạn cuối cùng nơi việc khai triển của thánh vịnh gia bao gồm toàn thể Yến Duyên, một dân tộc thường lỗi phạm và ý thức được nhu cầu cần đến ơn cứu độ của Thiên Chúa: “Yến Duyên hãy tìm kiếm Chúa, / Vì Chúa nhân hậu và đầy ơn cứu chuộc. Và Chúa sẽ cứu Yến Duyên khỏi tất cả mọi tội lỗi của họ” (câu 7-8).
 Ơn cứu độ cho bản thân, đầu tiên được thánh vịnh gia van nài, bấy giờ bao gồm cả cộng đồng này nữa. Đức tin của thánh vịnh gia này được dung nhập vào niềm tin lịch sử của thành phần Dân Giao Ước ấy, một dân “được cứu chuộc” bởi Chúa, chẳng những khỏi những nỗi âu lo bị người Ai Cập đàn áp, mà còn “khỏi tất cả mọi lỗi lầm”.
 Từ vực thẳm tối tăm của tội lỗi, lời van xin “Từ Vực Sâu – De Profundis” vang tới chân trời rạng ngời của Thiên Chúa là Đấng đầy “xót thương và ơn cứu chuộc”, hai đặc tính của Vị Thiên Chúa của tình yêu.
 4. Giờ đây chúng ta hãy dựa vào việc suy niệm theo truyền thống Kitô giáo về bài thánh vịnh này. Chúng ta hãy lấy lời của Thánh Ambrôsiô: Ở những bản văn của mình, ngài thường nhắc lại những lý do dẫn cho người dâng lời van nài Thiên Chúa thứ tha.
Thánh nhân đã nhắc nhở chúng ta trong luận đề về thông hối của ngài rằng ”Chúng ta có một Vị Chúa tốt lành muốn thứ tha cho hết mọi người. Nếu anh chị em muốn được công chính hóa thì hãy xưng thú việc làm sai trái của anh chị em: một việc khiêm nhượng xưng thú tội lỗi là những gì gỡ rối lỗi lầm…. Anh chị em thấy được niềm hy vọng của ơn tha thứ ra sao khi Ngài dẫn anh chị em đến chỗ xưng thú lỗi lầm” (2,6,40-41: SAEMO, XVII, Milan-Rome, 1982, p. 253).
Trong Bài Dẫn Giải về Phúc Âm Theo Thánh Luca, lập lại cũng lời mời gọi ấy, vị giám mục Milan đây tỏ ra lạ lùng trước những tặng ân được Thiên Chúa thêm vào với việc thứ tha của Ngài: “Anh chị em hãy coi Thiên Chúa tốt lành biết bao và đẵn sàng thứ tha tội lỗi: Ngài chẳng những trả lại những gì Ngài đã lấy đi mà còn ban những tặng ân ngoài lòng mong ước nữa”. Ông Zacaria, thân phụ của Gioan tẩy Giả, vẫn bị câm vì không tin tưởng vị thiên thần, thế nhưng sau đó, khi thứ tha cho ông, Thiên Chúa đã ban cho ông tặng ân ngôn sứ được tỏ hiện ở bài Ca Vịnh. Thánh Ambrôsiô nhận định rằng: “Con người vừa bị câm ngay trước đó giờ đây lại nói tiên tri. Đó là một trong những tặng ân trọng đại nhất của Chúa, vị mà chính những kẻ chối bỏ Ngài lại tuyên xưng Ngài. Bởi thế không ai được mất lòng tin tưởng, không ai được thất vọng trong việc lãnh nhận những việc bù đắp của Chúa, cho dù họ có ăn năn thống hối các lỗi lầm trong quá khứ của họ. Thiên Chúa biết làm thế nào để đổi thay được tâm trí của Ngài, nếu anh chị em biết cách hoán cải tội lỗi của anh chị em”. (2,33: SAEMO, XI, Milan-Rome, 1978, p. 175).
Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô,
 Hôm nay tôi muốn chia sẻ với anh chị em về bài “Từ Vực Sâu – De Profundis”, tức về bài Thánh Vịnh 129, một trong những bài thánh vịnh thống hối nổi tiếng nhất. Nó là một cuộc cử hành lòng thương xót Chúa, Đấng bao giờ cũng sẵn sàng thứ tha và làm hòa với tội nhân. Tự tận đáy nỗi xót xa nhức nhối của mình, thánh vịnh gia nhận thấy Thiên Chúa là một người Cha yêu thương, và bởi thế ông cảm thấy tôn kính Ngài.
 Từ niềm tin tưởng cậy trông vào tình yêu của Thiên Chúa ấy phát sinh ra niềm hy vọng, cả cho cá nhân cũng như cho toàn dân Yến Duyên. Cho dù họ hay lỗi lầm phạm đến mình, Chúa cũng cứu chuộc họ khỏi cảnh làm tôi cũng như khỏi “tất cả mọi lầm lỗi của họ”.
 Thánh Ambrôsiô, trong bài Dẫn Giải của mình, nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa chẳng những thứ tha tội lỗi cho chúng ta khi chúng ta xưng thú với Ngài mà còn ban cho chúng ta những ân sủng mới ngoài lòng mong ước nữa. Chẳng hạn như Zacaria, thân phụ của Giaon Tẩy Giả, chẳng những nói lại được khi ông hối hận về thái độ nghi ngờ của ông, mà ông còn được ban cho cả tặng ân nói tiên tri nữa.
 Thánh Ambrôsiô nói rằng: “Đừng bao giờ thất vọng trước việc thứ tha của Thiên Chúa, dù tội lỗi của anh chị em có lớn lao mấy đi nữa. Thiên Chúa bao giờ cũng có thể thay lòng đổi dạ nếu anh chị em nhìn nhận những vấp phạm của mình”.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 19/10/2005).

Bài 152 – Ca vinh Pl 2 (Thứ Tư 26/10/2005)

 DỰ ÁN CỨU ĐỘ TRƯỚC HẾT ĐƯỢC NÊN TRỌN NƠI CON NGƯỜI

 (Ca Vịnh Philiphê 2:6-11 - Kinh Tối Thứ Bảy, Tuần Thứ Ba)

 1. Một lần nữa, theo diễn tiến của Phụng Vụ Giờ Kinh Tối với những bài thánh vịnh và ca vịnh khác nhau, chúng ta đã nghe vang vọng bài thánh ca lạ lùng và thiết yếu được Thánh Phaolô cho vào Bức Thư gửi Kitô hữu Philiphê (2:6-11).
 Trong quá khứ, chúng ta đã nhấn mạnh rằng bài ca vịnh này bao gồm một chuyển động lưỡng diện: chuyển động đi xuống và chuyển động đi lên. Ở chuyển động đầu, Chúa Giêsu Kitô, từ ánh quang rạng ngời của thần tính là những gì thuộc về Người theo bản tính, đã chọn đi xuống cảnh nhục nhã của “cái chết trên thập tự giá”. Như thế, Người tự tỏ mình ra Người thật là người và là Đấng Cựu Chuộc, qua việc thực sự và hoàn toàn tham dự vào thực tại đau thương và chết chóc của chúng ta.
 2. Chuyển động thứ hai, chuyển động đi lên, cho thấy vinh quang vượt qua của Chúa Kitô, mộït vinh quang sau khi tử nạn tái bộc lộ trong ánh rạng ngời xuất phát từ thần tính uy nghi của Người.
Chúa Cha, Đấng đã chấp nhận tác động vâng phục của Người Con nơi cuộc nhập thể và khổ nạn, giờ đây “tôn vinh” Người trên tất cả mọi sự, như bản Hy Lạp dịch. Việc tôn vinh ấy được thể hiện chẳng những qua việc Người ngự bên hữu Thiên Chúa mà còn bằng việc ban cho Chúa Kitô một “danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (câu 9) nữa. Vậy, theo ngôn ngữ thánh kinh, “danh hiệu” ám chỉ yếu tính thực sự và phận vụ riêng biệt của một con người; nó cho thấy thực tại sâu xa và thực sự của họ. Chúa Cha đã ban cho Người Con, Đấng đã vì yêu thương hạ mình cho đến chết, một phẩm vị khôn sánh, một “Danh xưng” cao quí nhất, danh xưng “Chúa”, xứng hợp với chính Thiên Chúa.
3. Thật vậy, việc loan báo đức tin – đồng thanh nhất tiếng cả ở trên trời, dưới thế và trong lòng đất đều cúi đầu tôn thờ – là những gì rõ ràng và hiển nhiên: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (câu 11). Bản Hy ngữ xác nhận Đức Giêsu là “Kyrios”, một tước hiệu đúng là vương giả, một tước hiệu theo bản dịch Thánh Kinh Hy Lạp có liên quan tới danh xưng của Thiên Chúa đã mạc khải cho Moisen, một danh xưng linh thánh bất khả thưa thốt.
Như thế, một đàng là việc nhìn nhận vai trò chúa tể phổ quát của Đức Giêsu Kitô, Đấng được toàn thể tạo vật tôn kính, Đấng được thấy như là một chủ thể cần phải quì xuống dưới chân của Người. Tuy nhiên, đàng khác, việc tung hô đức tin lại tuyên xưng Đức Kitô vẫn còn thân phận thần linh, do đó cho thấy rằng Người là Đấng đáng tôn thờ.
 4. Nơi bài thánh ca này, chi tiết liên quan tới cái ô nhục của thập giá (x 1Cor 1:23), ngay cả trước khi nhân tính thực sự của Lời hóa thành nhục thể (x Jn 1:14), được đan kết và đạt tới tuyệt đỉnh ở biến cố Phục Sinh. Việc tùng phục hiến tế của Người Con được Cha đáp ứng tôn vinh sau đó, Đấng liên kết mình với việc tôn thờ của loài người cũng như của tạo vật. Cái đặc thù của Chúa Kitô xuất phát từ vai trò làm Chúa của một thế giới được cứu chuộc, một thế giới được trao ban cho Người vì việc trọn vẹn phục tùng của Người “cho đến chết”. Dự án cứu độ trước hết được nên trọn nơi Người Con, và tín hữu được mời gọi – trước hết trong phụng vụ – loan truyền dự án này và sống hoa trái của dự án ấy.
 Đó là mục đích chúng ta được bài thánh ca Kitô học này dẫn tới, bài thánh ca được Giáo Hội suy tư qua các thế kỷ, được hát lên và hướng dẫn cuộc sống: “Trong anh chị em hãy có thái độ như thế trong Đức Giêsu Kitô” (Phil 2:5).
 5. Giờ đây chúng ta hãy lắng nghe bài suy niệm được Thánh Gregory Nazianzen đã khôn khéo viết về bài thánh ca của chúng ta đây. Trong một bài thơ tôn vinh Chúa Kitô, vị đại Tiến Sĩ Giáo Hội ở thế kỷ thứ 4 này tuyên bố rằng Chúa Giêsu Kitô “đã không lột bỏ bản thân mình bất cứ yếu tố nào làm nên thần tính của Người, tuy nhiên, mặc dù là thế, Người đã cứu độ tôi như là một người chữa lành, vị đã cuí xuống trên các thương tích hôi thối của tôi…. Người thuộc về giòng tôhôi thối của tôi…. Người thuộc về giòng tộc của Đavít, nhưng Người lại là Đấng Tạo Thành của Adong. Người có xác thịt, nhưng cũng là một kẻ xa lạ đối với thân thể. Người được hạ sinh bởi một người mẹ, nhưng lại là một vị trinh mẫu; Người được cắt bì, nhưng cũng vĩ đại. Và Người được đặt nằm trong máng cỏ, nhưng ngôi sao lại dẫn đường cho Ba Vua, những vị đã đến dâng cho Người những lễ vật và quì xuống trước mặt Người. Là một vật tử vong Người đã đối chọi với ma quỉ, nhưng Người đã trở thành vô địch; Người làm chủ tên cám dỗ sau cuộc chiến tam diện…. Người là thí vật, nhưng cũng là vị thượng tế; Người là vật hiến tế song cũng là Thiên Chúa. Người hiến dâng lên Thiên Chúa máu của Người và nhờ đó thanh tẩy toàn thế giới. Cây thập tự giá đưa Người lên khỏi mặt đất, nhưng tội lỗi lại bị các cây đinh đâm thủng…. Người đã viếng thăm kẻ chết, nhưng đã sống lại từ âm ti và phục sinh nhiều người đã chết. Biến cố tiên khởi chính là tình trạng cùng cực của con người, thế nhưng biến cố thứ hai cho thấy cái phong phú của hữu thể vô hình… của Người Con bất tử mặc lấy thân phận trần gian, vì Người yêu thương anh chị em” (Carmina Arcana, 2: "Collana de Testi Patristici" [Collection of Patristic Texts] LVIII, Rome, 1986, pp. 236-238).
Cuối buổi suy niệm này, tôi muốn nhấn mạnh hai câu cho cuộc sống của chúng ta.
 Trước hết, câu Thánh Phaolô khuyên nhủ, đó là “Trong anh chị em hãy có thái độ như thế trong Đức Giêsu Kitô”. Hãy học tập cho có cùng một cảm thức như Chúa Giêsu, trong việc làm cho cách suy tư, quyết định, tác hành của chúng ta hợp với những cảm thức của Chúa Kitô. Chúng ta hãy đi con đường này nếu chúng ta muốn các cảm thức của chúng ta hợp với những cảm thức của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy đi theo đường ngay nẻo chính.
 Câu khác là của Thánh Gregory Nazianzen: “Người, Chúa Giêsu, yêu thương anh chị em”. Lời êm ái này là niềm an ủi lớn lao cho chúng ta, nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm cao cả, từ ngày này đến ngày kia.
 Anh Chị Em thân mến,
 Bài ca vịnh hôm nay được trích từ Bức Thư gửi Kitô hữu Philiphê. Sau khi diễn tả việc hạ mình của Con Thiên Chúa nơi việc Nhập Thể, nhất là nơi cuộc tử nạn của Người trên cây thập tự giá, bài ca vịnh liên cho thấy việc Người được tôn vinh.
Việc hy sinh phục tùng của Chúa Kitô được Chúa Cha chấp nhận, Đấng đặt Người ở bên hữu Ngài; Người được công nhận ở phẩm vị thần linh của Người, được ban cho “danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, và được loan báo bởi các ca đoàn thiên cung như là “Kyrios”, Chúa của thế giới được cứu chuộc.
Phụng vụ của Giáo Hội tiếp tục hát bài ca chúc tụng này. Chúng tôi tôn thờ Chúa Kitô, Đấng có một lối sống phục vụ thấp hèn, vâng lời và tử nạn được biến thành ánh quang rạng ngời của vinh hiển thần tính. Nơi Người, lịch sử cứu độ được hoàn toàn nên trọn.
 Như Thánh Gregory Nazianzen đã dẫn giải: “Người đã hiến dâng lên Thiên Chúa máu của Người nhờ đó thanh tẩy toàn thế giới”. Chúng ta hãy lắng nghe lời mời gọi của bài ca vịnh này, và hãy noi gương bắt chước đức khiêm nhượng và tình yêu thương của Chúa Giêsu Kitô, và theo Người là Chúa và Đấng Cứu Thế của chúng ta.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/10/2005).

Bài 153 – TV 111 (112) (Thứ Tư 2/11/2005)

 CON NGƯỜI TRUNG THÀNH LÀ CON NGƯỜI QUẢNG ĐẠI BAO DUNG

 (Thánh Vịnh 111 [112] - Kinh Tối Chúa Nhật, Tuần Thứ Bốn)

 1. Hôm qua sau khi cử hành lễ trọng kính các thánh trên thiên đình, hôm nay chúng ta tưởng nhớ đến tất cả mọi tín hữu đã qua đời. Phụng vụ mời gọi chúng ta hãy nguyện cầu cho tất cả mọi người thân yêu của chúng ta đã qua đi, hướng tâm tưởng của chúng ta về mầu nhiệm sự chết là gia sản chung của tất cả mọi dân tộc.
 Được đức tin soi chiếu, chúng ta nhìn cái bí ẩn chết chóc của con người một cách bình thản và hy vọng. Theo Thánh Kinh, sự chết thực ra không phải là tận cùng mà là một cuộc tái sinh, nó là một cuộc vượt qua khẩn thiết để những ai mô phỏng cuộc sống trần gian của mình theo những qui định của Lời Chúa có thể đạt tới sự sống viên mãn.
 Thánh Vịnh 111 (112), một bài thánh vịnh có tính chất khôn ngoan, cho chúng ta thấy hình ảnh của những con người công chính, thành phần kính sợ Chúa, nhìn nhận siêu việt tính của Ngài và tin tưởng mến yêu gắn bó với ý muốn của Ngài trong khi đợi chờ được hội ngộ với Ngài sau khi qua đi.
 Một “phúc ân” được giành cho thành phần tín nghĩa ấy: “Phúc cho những ai kính sợ Chúa” (câu 1). Thánh Vịnh gia liên nói rõ việc kính sợ này là ở chỗ nó thể hiện nơi tính cách đơn sơ dễ dạy đối với các giới lệnh của Chúa. Người được cho là “có phúc” là người “hết sức hỉ hoan” nơi các giới lệnh của Ngài, tìm được nơi những giới lệnh ấy niềm vui và an bình.
 2. Bởi thế, tính chất đơn sơ dễ dạy là nguồn mạch cho niềm hy vọng và cho mối hòa hợp nội ngoại. Việc tuân giữ luật lệ về luân lý là nguồn an bình sâu xa của lương tâm. Thật thế, theo nhãn quan của thánh kinh về “việc tưởng thưởng” thì chiếc áo choàng ân phúc thần linh được phủ trên con người công chính, thứ ân phúc ghi dấu bền vững và thành đạt nơi các việc làm của họ cũng như trên miêu duệ của họ: “Giòng dõi của họ sẽ cường thịnh nơi mảnh đấy này, một giòng dõi chính trực và phúc ân. Sự giầu sang phú quí sẽ thuộc về nhà của họ” (câu 2-3, cf 9).
Tuy nhiên, ngược lại với nhãn quan lạc quan này là những nhận định đắng cay của nhân vật Gióp chính trực, người đã trải qua mầu nhiệm sầu thương, cảm thấy mình bị trừng phạt cách bất công và chịu đựng những thử thách rõ ràng là vô lý. Ông Gióp là biểu hiệu cho nhiều con người chính trực chịu đừng rất nhiều trên thế gian này. Thế nên, cần phải đọc bài thánh vịnh này theo bối cảnh phổ quát của Mạc Khải là mạc khải bao gồm tất cả moi chiều kích của thực tại đời sống con người.
 Thế nhưng, niềm tin tưởng vẫn tiếp tục có năng hiệu, một niềm tin tưởng mà thánh vịnh gia muốn truyền đạt và được chính ông cảm nghiệm, một con người đã chọn theo đường lối của lòng đạo hạnh bất khả trách cứ về luân lý, ngược lại với tất cả những đường lối thành công ảo vọng là những gì chiếm được bằng bất chính và vô luân.
 3. Nơi trọng tâm của việc trung thành với Lời thần linh này là một chọn lựa trọng yếu, tức là lòng bác ái yêu thương đối với kẻ nghèo và thiếu thốn: “Tất cả mọi sự tốt đẹp với những ai quảng đại cho vay mượn…. Họ rộng lượng ban phát cho kẻ nghèo khổ” (câu 5,9). Bởi thế, con người trung thành là con người quảng đại; theo qui chuẩn thánh kinh, họ những người anh chị em của họ vay mượn mà không lấy tiền lời (x Deut 15:7-11), cũng không tham lam nặng lãi làm hủy hoại đời sống của người nghèo.
Con người công chính, lưu ý tới lời khiển trách liên tục của các vị tiên tri, thích ứng mình với thành phần bị loại trừ, và hết sức nâng đỡ thành phần này. Câu 9 nói: “Họ quảng đại ban phát cho người nghèo”, một việc làm cho thấy tính cách hoàn toàn quảng đại, triệt để vô vị lợi của họ.
 4. Ngoài hình ảnh của con người trung tín và bác ái này, con người “tốt lành, xót thương và công chính”, bài Thánh Vịnh 111 (112) cuối cùng cho thấy trong một câu duy nhất lý lịch của con người gian ác. Con người này thấy được sự thành công của thành phần chính trực thì bị dày vò bởi giận dữ và ghen tương. Nó là một cuộc hành hạ con người có lương tâm xấu, ngược lại với con người quảng đại có tấm lòng “bền vững” và “bình lặng” (câu 7-8).
 Chúng ta nhìn vào gương mặt thanh thản của con người trung tín, “kẻ sẵn lòng ban phát cho người nghèo”, và kết thúc bài suy niệm của chúng ta bằng những lời của Thánh Clêmentê thành Alexandria, Vị Giáo Phụ của Giáo Hội thuộc thế kỷ thứ ba, vị đã dẫn giải về việc quyết định của Chúa là những gì khó hiểu. Trong dụ ngôn về người quản lý bất trung có câu nói đối với chúng ta dường như thể chúng ta cần phải lợi dụng “tiền bạc bất chính” vậy. “Từ đó mới có vấn đề là tiền bạc và giầu sang phải chăng tự chúng là những gì bất chính, hay Chúa muốn nói gì đây?”
 Thánh Clêmentê thành Alexandria giải thích dụ ngôn này rất hay trong bài giảng của ngài: “Người giầu có khó được cứu độ biết bao?”. Và ngài nói, bằng việc khẳng định này, Chúa Giêsu: “tuyên bố là tự bản chất bất chính bất cứ sở hữu vật nào con người có được chỉ vì nó, như là sự thiện riêng của mình, không chia sẻ chung với những ai đang thiếu thốn; nhưng Người cũng tuyên bố rằng từ sự bất chính ấy cũng có thể thực hiện một việc chân chính và đáng khen, đó là cứu trợ một trong những người nhỏ mọn là thành phần được cư ngụ đời đời trước Chúa Cha (cf. Matthew 10:42; 18:10)" (31,6: "Collana di Testi Patristici" [Collection of Patristic Texts] CXLVIII, Rome, 1999, pp. 56-57).
 Thế rồi, ngỏ lời cùng độc giả, Thấh Clêmentê cảnh giác là “Hãy nhớ rằng, trước hết, Người không truyền cho anh chị em phải van nài, hay phải ăn xin, nhưng truyền cho anh chị em hãy tìm kiếm những ai đáng được keuêxin, vì họ là thành phần môn đệ của Đấng Cứu Thế” (31,7: ibid., p. 57).
 Đoạn, trích bài thánh kinh khác, ngài dẫn giải là: “Bởi thế, thật là tuyệt vời câu Thánh Tông Đồ nói: ‘Thiên Chúa yêu thương kẻ vui vẻ ban phát’ (2Cor 9:7), người hoan hưởng việc ban phát và không gieo rắc một cách nhỏ giọt, để không thu lượm được cùng một cách thế, nhưng chia sẻ mà không tiếc xót, biệt phân hay đau đớn, và đó thực sự là hành thiện” (31,8: ibid).
 Vào ngày chúng ta đang tưởng nhớ đến người quá cố đây, như tôi đã nói vào lúc mở đầu cuộc gặp gỡ của chúng ta đây, tất cả chúng ta đều được kêu gọi đương đầu với cái bí ẩn của sự chết, bởi thế, đương đầu với vấn đề làm cách nào để sống tốt lành, làm sao đểm tìm được hạnh phúc. Trước hết, bài thánh vịnh đáp là Phúc thay cho con người biết ban phát; phúc thay cho con người không sống cho mình mà là ban tặng bản thân; phúc thay con người xót thương, nhân ái và chân chính; phúc thay cho con người sống tình yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Có thế chúng ta mới sống tốt lành và không sợ hãi sự chết, vì chúng ta sống với niềm hạnh phúc xuất phát từ Thiên Chúa là là nguồn hạnh phúc vô cùng bất tận.
 Anh Chị Em thân mến,
 Sau ngày hôm qua cử hành lễ trọng kính Các Thánh, phụng vụ hôm nay kêu mời chúng ta hãy nguyện cầu cho những người thân yêu quá cố của chúng ta đã lìa bỏ chúng ta.
 Vì chúng ta đương đầu với sự chết, Sách Thánh làm cho niềm hy vọng của chúng ta kiên vững bằng việc bảm đảm với chúng ta rằng tất cả những ai sống theo Thế Giới của Thiên Chúa đều được tái sinh trong sự sống viên mãn. Đó là những con người công chính, những con người hạnh phúc, những con người được Thánh Vịnh 111 nói tới. Nơi họ, việc kính sợ Chúa, tức là việc tuân kính lề luật Chúa, mang lại tình trạng hòa hợp nội tâm và nỗi an bình lương tâm. Vì họ cảm nghiệm được giá trị tối hậu của một đời sống chính trực về luân lý, họ tin tưởng loại bỏ những thứ hứa hẹn thành đạt gian dối nhờ việc làm bất chính và vô luân.
 Thánh Vịnh gia minh nhiên nêu lên một đặc tính trọng yếu của những ai bước đi theo Lời Chúa, đó là sống tình yêu quảng đạo đối với tha n hân thiếu thốn của mình. Trong lời dẫn giải của mình về các câu thánh vịnh này, Thánh Clêmentê thành Alexandria mời gọi Kitô hữu hãy quảng đại chia sẻ với tha nhân của mình bằng việc ban tặng “không hối tiếc, bất biệt phân hay xót xa”.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 2/11/2005).

Bài 154 – TV 135 (136) (Thứ Tư 9/11/2005)

TỪ NHỮNG KỲ CÔNG ĐƯỢC TẠO DỰNG CON NGƯỜI VƯƠN TỚI SỰ CAO CẢ CỦA THIÊN CHÚA 

(Thánh Vịnh 135 [136]: 1-9 cho Kinh Tối Thứ Hai, Tuần Thứ Bốn)

 1. Được gọi là “Bài Đại Tụng Ca”, tức là việc long trọng và uy nghi chúc tụng được Do Thái giáo vang lên trong phụng vụ vượt qua. Chúng ta đang nói về bài Thánh Vịnh 135 (136) giờ đây chúng ta nghe phần thứ nhất được Phụng Vụ Kinh Tối phân chia (x câu 1-9).
 Trước hết chúng ta câu điệp khúc: “vì tình yêu của Ngài bền vững đến muôn đời”. Ở tâm điểm của câu này vang lên tiếng “yêu thương”, một từ ngữ thực sự là việc chuyển ngữ hợp lệ song chưa hết nghĩa theo nguyên ngữ “hesed” của Do Thái. Thật vậy, nó là một phần của thứ ngôn ngữ đặc biệt được Thánh Kinh sử dụng để bày tỏ giao ước giữa Chúa và dân của Ngài. Từ ngữ này tìm cách diễn tả những thái độ được thiết lập trong mối liên hệ này, đó là thái độ trung thành, tín nghĩa, yêu thương và hiển nhiên là tình thương của Thiên Chúa.
 Ở đây chúng ta có một biểu hiệu tổng hợp về mối liên hệ sâu xa và liên vị được Đấng Hóa Công thiết lập với tạo sinh của Ngài. Trong mối liên hệ này, Thiên Chúa không hiện lên trong Thánh Kinh như là một vị Chúa dửng dưng chẳng biết mủi lòng xót thương, hay là một hữu thể mờ ám và bất khả giải đoán, hay là những gì tất yếu không thể chống lại được quyền lực nhiệm mầu của nó. Trái lại, Ngài tỏ mình ra như là một ngôi vị biết yêu thương tạo vật của Ngài, Ngài canh chừng chúng, Ngài theo dõi chúng trong giòng lịch sử và chịu đựng tình trạng bất trung của dân thường nghịch lại với “hesed” của Ngài, tương phản với tình yêu nhân hậu và từ phụ của Ngài.
 2. Dấu hiệu hữu hình đầu tiên của đức ái thần linh này, như Thánh Vịnh gia nói, được thấy nơi thiên nhiên tạo vật. Bấy giờ lịch sử bắt đầu. Ánh mắt, đầy cảm phục và ngỡ ngàng, trước hết dừng lại trên thiên nhiên tạo vật, đó là các tầng trời, trái đất, các nguồn nước, mặt trời, mặt trăng và các tinh tú.
Ngay cả trước khi khám phá ra Thiên Chúa là Đấng tỏ mình ra trong lịch sử của một dân tộc thì đã có mạc khải về vũ trụ rồi, một mạc khải được Đấng Hóa Công là “Thiên Chúa chư thần” và là “Chúa các chúa” (câu 2-3) tỏ ra cho tất cả mọi người, cống hiến cho toàn thể nhân loại.
 Như bài Thánh Vịnh 18 (19) đã nói: “các tầng trời loan báo hiển vinh của Thiên Chúa; bầu trời công bố xảo nghệ của Đấng Kiến Tạo nên mình. Ngày này tới ngày kia chuyển đạt sứ điệp ấy; đêm này sang đêm kia truyền thông kiến thức này” (câu 2-3). Bởi thế, có một sứ điệp thần linh nhiệm mầu được in ấn nơi thiên nhiên tạo vật và là dấu hiệu của “hesed”, của việc yêu thương trung thành của Thiên Chúa là Đấng ban cho tạo sinh của Ngài hữu thể và sự sống, nước và lương thực, ánh sáng và thời gian.
 Người ta cần phải có những đôi mắt sáng để chiêm ngưỡng mạc khải thần linh này, khi nhớ đến lời cảnh giác của Sách Khôn Ngoan kêu gọi chúng ta hãy nhận biết Đấng Hóa Công, bằng việc suy tưởng “cái vĩ đại và vẻ đẹp của những vật được tạo dựng” (Wis 13:5; x. Rm 1:20). Bấy giờ lời chúc tụng nguyện cầu tuôn chảy từ việc chiêm niệm “các kỳ công” của Thiên Chúa (x Ps 135[136]:4), những kỳ công được thể hiện nơi thiên nhiên tạo vật và được biến đổi thành một bài thánh ca hân hoan chúc tụng và tạ ơn Chúa.
 3. Từ các công trình được tạo dựng nên, con người nhờ thế tiến lên sự cao cả vĩ đại của Thiên Chúa, tiến tới tình thương ưu ái của Ngài. Các vị Giáo Phụ của Giáo Hội đã dạy chúng ta như thế, những vị vang tiếng làm âm dội Truyền Thống Kitô giáo liên tục.
 Vậy Thánh Basiliô Cả, ở một trong những trang đầu tiên các bài giảng đầu tiên của ngài về Hexameron được ngài dẫn giải về câu truyện tạo dựng theo chương thứ nhất của Sách Khởi Nguyên, đã dừng lại để suy nghĩ hoạt động khôn ngoan của Thiên Chúa, hoạt động dẫn ngài đến chỗ nhìn nhận nơi sự thiện thần linh cái tâm điểm đi tới của việc tạo thành. Ở đây có một số lời bày tỏ được lấy từ bài suy niệm dài của vị giám mục thánh thiện giáo phận Caesarea ở Cappadocia:
 “’Từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên trời đất’. Lời tôi nói lặng đi bởi sự ngỡ ngàng trước ý nghĩ ấy” (1,2,1: "Sulla Genesi [Omelie sull'Esamerone]" -- On Genesis: Homily on the Hexameron -- Milan, 1990, pp. 9,11). Thật vậy, mặc dù có một số người “bị chủ nghĩa vô thần đánh lừa họ đã nghĩ rằng vũ trụ này bị thiếu hụt hướng dẫn viên và trật tự, lệ thuộc vào may rủi”, nhưng vị tác giả thánh “lập tức soi động tâm trí của chúng ta bằng tên gọi của Thiên Chúa ở ngay đầu bài trình thuật tạo dựng là ‘Từ ban đầu Thiên Chúa đã tạo dựng’ Và trật tự này có được một vẻ đẹp biết bao!” (1,2,4: ibid., p. 11). “Bởi thế, nếu thế giới này đã có khởi đầu và đã được tạo dựng, thì anh chị em phải tìm kiếm Đấng đã khơi động nó và Đấng là Hóa Công của nó…. Moisen đã sửa soạn cho anh chị em bằng việc giảng dạy của ông, in ấn vào linh hồn của chúng ta như là một dấu ấn danh cực thánh của Thiên Chúa, khi ông nói: ‘Từ ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên’. Cái thiên nhiên diễm phúc này, sự thiện ngoài thèm muốn này, Người là đối tượng của tình yêu nơi tất cả mọi hữu thể biết lý luận, là vẻ đẹp còn vĩ đại hơn cả bất cứ vẻ đẹp được ước mong nào, là khởi đầu của các hữu thể, là nguồn mạch sự sống, là ánh sáng của kiến thức, là đức khôn ngoan bất khôn thấu, tóm lại, Người là Đấng ‘từ ban đầu đã tạo dựng nên trời đất’” (1,2,6-7: ibid., p. 13).
 (Ở phần kết buổi triều kiến chung, Đức Thánh Cha nói tiếp:)
 Tôi tin những lời của vị Giáo Phụ ở thế kỷ thứ 4 này có tính cách hợp thời lạ lùng, khi ngài nói một số người “bị đánh lừa bởi chủ nghĩa vô thần đánh lừa họ đã nghĩ rằng vũ trụ này bị thiếu hụt hướng dẫn viên và trật tự, lệ thuộc vào may rủi”. Có bao nhiêu là thành phần “một số” này ngày nay đây?
 Bị đánh lừa bởi chủ nghĩa vô thần, họ tin tưởng và cố gắng cho thấy rằng khoa học cho là hết mọi sự thiếu hướng dẫn viên và trật tự, như thể chúng xẩy ra là do ngẫu nhiên tình cờ. Qua Thánh Kinh, Chúa đang lay tỉnh trí khôn mê ngủ và nói với chúng ta rằng: Lời tạo dựng đã có ngay từ ban đầu. Từ ban đầu Lời tạo dựng – Lời này đã tạo dựng nên tất cả mọi sự, Lời đã tạo dựng nên dự án khôn ngoan này, tạo dựng nên vũ trụ hoàn cầu này – cũng là Tình Yêu.
 Chúng ta hãy bừng tỉnh trước Lời Chúa đây. Chúng ta hãy cầu nguyện để Ngài làm sáng tỏ tâm trí của chúng ta, hầu chúng ta có thể nhận thấy sứ điệp tạo dựng được in ấn cả trong tâm can của chúng ta nữa: Khởi nguyên của tất cả mọi sự là Đức Khôn Ngoan sáng tạo và Đức Khôn Ngoan này là tình yêu và thiện hảo: “Tình thương của Ngài vĩnh hằng”.
 (Bao giờ cuối cùng ĐTC cũng tóm tắt bài giáo lý bằng tiếng Ý sang tiếng Anh như sau:)
 Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô,
 Hôm nay tôi muốn chia sẻ với anh chị em về bài Thánh Vịnh 135, một bài đại thánh ca chúc tụng làm nên phụng vụ Vượt Qua của Dân Do Thái. Chúng ta hãy để ý tới câu điệp khúc: “Vì tình thương Ngài muôn đời bền vững”. Chữ chính ở đây là “tình thương”, theo ngôn ngữ Do Thái là “hesed”.
 Nó diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với dân được Ngài tuyển chọn, thành phần Ngài đã thiết lập giao ước. Ngài không phải là một Vị Thiên Chúa lạnh lùng, xa cách, mà là Vị Thiên Chúa yêu thương tạo vật và chịu đựng họ khi họ bất trung với Ngài, khi họ loại bỏ tấm lòng cảm thương từ phụ của Ngài.
 Những dấu hiệu của tình yêu Thiên Chúa được thấy nơi những kỳ công thiên nhiên tạo vật cũng như nơi các đại tặng ân Ngài ban cho dân của Ngài. Các vị Giáo Phụ của Giáo Hội dạy chúng ta hãy nhận thấy nơi các sự được tạo thành sự cao cả của Thiên Chúa cũng như tình yêu nhân hậu của Ngài đối với chúng ta.
 Thánh Basiliô, đầy những ngỡ ngàng khi suy niệm về mầu nhiệm Việc Tạo Dựng, viết rằng Thiên Chúa “đẹp đẽ hơn bất cứ những gì có thể ước mong, là khởi nguyên của tất cả mọi hữu thể, là nguồn mạch của sự sống, là ánh sáng của kiến thức, là đức khôn ngoan khôn thấu”: Vị Thiên Chúa như thế là vị Thiên Chúa “ngay từ ban đầu đã dựng nên Trời Đất”. Chúng ta hãy chúc tụng Chúa, vì Ngài thiện hảo, vì tình thương của Ngài bền vững đến muôn đời.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 9/11/2005). 

Bài 155 – TV 135 (136) (Thứ Tư 16/11/2005)

 NHỮNG VIỆC LẠ LÙNG CỦA THIÊN CHÚA TRONG LỊCH SỬ CỨU ĐỘ

(Thánh Vịnh 135 [136]: 10-26 cho Kinh Tối Thứ Hai, Tuần Thứ Bốn)

1. Chúng ta lại suy niệm về bản thánh ca chúc tụng của Thánh Vịnh 135 (136) được Phụng Vụ Giờ Kinh Tối chia ra làm hai phần, theo sự phân biệt riêng của bài thánh vịnh liên quan đến chủ đề. Thật vậy, việc chúc tụng các công cuộc của Chúa được phác họa thành hai lãnh vực, lãnh vực về không gian và lãnh vực về thời gian.
 Ở phần thứ nhất (câu 1-9), phần vừa được chúng ta suy niệm tuần trước, chúng ta thấy các tác động thần linh được tỏ hiện nơi thiên nhiên tạo vật: Chúng cho thấy nguồn gốc của những kỳ công trong vũ trụ. Ở phần nhất của bài thánh vịnh này, niềm tin đã được bày tỏ trước Vị Thiên Chúa Hóa Công, Đấng đã tỏ mình ra qua các tạo vật trong vũ trụ của Ngài. Giờ đây, bài hoan ca của thánh vịnh gia này, bài được truyền thông Do Thái gọi là “bài Hallel cao cả”, tức là bài chúc tụng cao cả nhất dâng lên Chúa, lại dẫn chúng ta tới một chân trời khác, chân trời lịch sử. Do đó, phần thứ nhất là phần nói về thiên nhiên tạo vật như phản ảnh vẻ đẹp của Thiên Chúa; phần thứ hai là phần nói về lịch sử và về sự thiện hảo Thiên Chúa đã thực hiện cho chúng ta trong giòng thời gian. Chúng ta biết rằng Mạc Khải thánh kinh liên tục cho thấy rằng việc hiện diện của Vị Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ được đặc biệt tỏ hiện nơi lịch sử cứu độ (cf. Deuteronomy 26:5-9; Genesis 24:1-13).
 2. Do đó, thánh vịnh gia thấy được cái diễn tiến của những tác động giải thoát của Chúa, mà trọng tâm của những hành động giải thoát này là biến cố xuất hành Ai Cập, một biến cố có liên hệ sâu xa với cuộc hành trình khốn khổ ở sa mạc Sinai, một biến cố được kết thúc ở mảnh đất hứa là tặng ân thần linh dân Do Thái cảm nghiệm thấy ở tất cả mọi trang sách Thánh Kinh.
Cuộc vượt qua Biển Đỏ lẫy lừng, “biển được rẽ ra làm hai”, biển được tách ra và thuần thục như một con quái vật bị khuất phục (câu 13), là biến cố làm phát sinh một dân tộc được giải phóng để thực hiện một sứ vụ và để đạt tới đích điểm vinh quang (câu 14-15; Xuất Hành 15:1-21), một biến cố theo ý nghĩa Kitô giáo là việc được hoàn toàn giải thoát khỏi sự dữ nhờ ân sủng phép rửa (x 1Cor 10:1-4). Thế rồi sau đó là cuộc hành trình sa mạc bắt đầu: nơi cuộc hành trình này Chúa đã tỏ ra là một chiến binh, Đấng, tiếp tục công cuộc giải phóng được bắt đầu từ việc vượt qua Biển Đỏ, nhúng tay vào việc bênh vực dân Ngài bằng việc đánh thành phần đối phương của họ. Bởi thế mà sa mạc và biển cả là những gì tiêu biểu cho cuộc vượt qua sự dữ và cuộc đàn áp để lãnh nhận tặng ân tự do và đất hứa (x câu 16-20).
 3. Cuối cùng, bài thánh vịnh này cho thấy là xứ sở được Thánh Kinh ca tụng một cách nồng nhiệt như là “một xứ sở tốt đẹp, một mảnh đất có các giòng nước, có những mạch nước và có những suối chảy… một mảnh đất có lúa miến và lúa mạch, có các cây nho và cây vả cùng với cây lựu, có những cây Olive và mật ong, một mảnh đất các người có thể tha hồ mà ăn bánh và là nơi các người sẽ chẳng thiết thốn chi, một mảnh đất các tảng đá có sắt và có những ngọn đồi có mỏ đồng cho các người” (Deut 8:7-9).
 Việc cử hành đặc biệt này, một việc cử hành vượt ra ngoài thực tại của mảnh đất ấy, là để chúc tụng tặng ân thần linh, hướng niềm mong đợi của chúng ta về tặng ân cao cả nhất là sự sống trường sinh với Thiên Chúa. Một tặng ân làm cho con người được tự do, một tặng ân được xuất phát – như hằng được liên tục lập đi lập lại ở câu đối ca nổi bật ở mỗi câu, từ “hesed” của Chúa, tức là từ “tình thương” của Ngài, từ việc Ngài trung thành với những gì hứa quyết nơi Giao Ước với Yến Duyên, từ tình yêu của Ngài được tiếp tục thể hiện nơi việc “tưởng niệm” (câu 23). Vào thời điểm “bị hạ xuống”, tức là vào thời điểm gặp phái những liên tục thử thách và bị đàn áp, Yến Duyên luôn khám phá thấy bàn tay cứu độ của Vị Thiên Chúa tự do và yêu thương. Trong lúc đói khát và khốn cực, Vị Chúa này cũng sẽ xuất hiện để ban lương thực cho toàn thể nhân loại, tỏ ra căn tính là Đấng Hóa Công của Ngài (câu 25).
 4. Bởi vậy, nơi bài Thánh Vịnh 135 (136) này, có hai khía cạnh của một Mạc Khải thần linh duy nhất được liên kết với nhau, đó là mạc khải về vũ trụ (câu 4-9) và mạc khải về lịch sử (câu 10-25). Dĩ nhiên Vị Chúa này là Đấng siêu việt như Đấng Hóa Công và là Đấng nắm trong tay toàn quyền về hữu thể, thế nhưng Ngài cũng gần gũi với các tạo vật của Ngài, khi tiến vào không gian và thời gian. Ngài không ở cách xa, ở trên trời xa vời. Trái lại, việc hiện diện của Ngài nơi chúng ta đạt đến tuyệt đỉnh nơi việc nhập thể của Kitô giáo.
 Đó là những gì được Kitô giáo giải thích về bài thánh vịnh này rõ ràng loan báo, như được các vị Giáo Phụ của Giáo Hội chứng thực, những vị thấy tột đỉnh của lịch sử cứu độ và dấu hiệu tối hậu của tình yêu nhân hậu Chúa Cha nơi tặng ân Con Ngài là Đấng Cứu Độ và Cứu Chuộc nhân loại (x Jn 3:16).
 Bởi vậy mà Thánh Cyprianô, một vị tử đạo ở thế kỷ thứ ba, khi bắt đầu luận đề về “Các Công Việc Bác Ái và Làm Phúc Bố Thí” của mình đã chiêm ngưỡng một cách lạ lùng những việc được Thiên Chúa hoàn thành nơi Đức Kitô là Con Ngài cho dân của Ngài, để cuối cùng làm cho con người bồi hồi nhận biết tình thương của Ngài: “Anh chị em rất thân mến, các phúc ân của Thiên Chúa thì nhiều và lớn lao, những ân phước được sự thiện hảo quảng đại và dồi dào của Thiên Chúa Cha và của Đức Kitô hoàn thành và sẽ mãi thực hiện cho phần rỗi của chúng ta; thật vậy, để bảo trì chúng ta, để ban cho chúng ta một sự sống mới cũng như để có thể cứu chuộc chúng ta, Chúa Cha đã sai Người Con; Người Con, Đấng được sai đến, cũng muốn được gọi là Con Người, để làm cho chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa: Người đã hạ mình để nâng con người là thành phần thoạt tiên nằm trên mặt đất, Người đã bị thương tích để chữa lành các vết thương của chúng ta, Người đã trở thành nô lệ để dẫn chúng ta là thành phần nô lệ đến chỗ tự do. Người đã chấp nhận cái chết để có thể ban cho thành phần hữu tử chúng ta được bất tử. Đó là những tặng ân muôn vàn và cao cả của tình thương thần linh” (1: "Trattati : Collana de Testi Patristici" [Treatises: Collection of Patristic Texts] CLXXV, Rome, 2004, p. 108).
 (ĐTC ghi chú về những lời của vị Giáo Phụ này như sau:)
 Với những lời ấy, vị Tiến Sĩ thánh thiện này của Giáo Hội khai triển bài thánh vịnh ấy bằng việc liệt kê các ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta, thêm vào bài này những gì thánh vịnh gia chưa biết tới nhưng vẫn trông mong, đó là tặng ân chân thực Thiên Chúa ban cho chúng ta: tặng ân Người Con, tặng ân Nhập Thể, một việc nhập thể Thiên Chúa cống hiến cho chúng ta và ở cùng chúng ta, trong Thánh Thể và nơi Lời của Ngài, mọi ngày cho tới tận cùng lịch sử.
 Chúng ta gặp nguy hiểm là việc tưởng nhớ tới sự dữ, tới những sự dữ phải chịu, thường mạnh hơn ký ức về sự lành. Bài thánh vịnh này giúp làm bừng lên trong chúng ta ký ức về sự thiện, về tất cả mọi sự thiện Chúa đã làm cho chúng ta và đang làm cho chúng ta, và chúng ta có thể thấy được rằng tâm can của chúng ta có chuyên chú hay chăng: Thật sự tình thương của Chúa thì vĩnh hằng, hiện hữu từ ngày này sang ngày khác.
 (Như thường lệ, ĐTC tóm bài giáo lý thánh vịnh bằng tiếng Anh như sau:)
 Anh Chị Em thân mến,
 Bài Thánh Vịnh 135 làm thành một bài hoan ca nổi tiếng nơi truyền thống Do Thái như là một “bài đại tụng ca”. Thánh vịnh gia chiêm ngưỡng hai chiều kích mạc khải của Thiên Chúa, chiều kích vũ trụ và lịch sử. Phần đầu của bài thánh vịnh này, phần chúng ta đã chia sẻ Thứ Tư tuần trước, chúc tụng Chúa về các việc tạo dựng cao cả.
 Hôm nay, ở phần hai của bài thánh vịnh đây, chúng ta nghe về những việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ: đó là việc xuất hành của dân Yến Duyên khỏi Ai Cập, việc vượt qua Biển Đỏ và cuộc hành trình qua sa mạc. Những biến cố này biểu hiệu tượng trưng cho cuộc vượt qua sự dữ mà đến tặng ân tự do trong đất hứa.
 Bởi thế mà bài thánh vịnh này là bài tụng ca tình yêu của Thiên Chúa, một tình thương chủ động và trung thành của (theo tiếng Do Thái được gọi là “hesed”). Việc Thiên Chúa nhúng tay vào lịch sử của loài người đạt đến tuyệt đỉnh nơi mầu nhiệmj Nhập Thể. Thánh Cyprianô, khi chiêm ngưỡng những việc vĩ đại Thiên Chúa hoàn thành nơi Đức Kitô đã mời gọi Kitô hữu hãy chúc tụng Chúa về “nhiều ân huệ cao cả của tình thương thần linh Ngài”. Tiếng gọi này âm vang thực sự những lời này của thánh vịnh gia: “Hãy tri ân cảm tạ Vị Thiên Chúa của Thiên Đình, vì tình yêu của Ngài muôn đời bền vững”.
 (Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/11/2005).

Bài 156 – Ca vịnh Ep 1 (Thứ Tư 23/11/2005)

 DỰ ÁN THẦN LINH LÀ MỌI SỰ ĐƯỢC QUY TỤ TRONG CHÚA KITÔ

 (Ca Vịnh Ephêsô 1:3-10 cho Kinh Tối Thứ Hai, Tuần Thứ Bốn)

 1. Mỗi tuần Phụng Vụ Giờ Kinh Tối đề ra cho việc cầu nguyện của Giáo Hội bài thánh ca long trọng mở đầu của Bức Thư gửi cộng đoàn Êphêsô bài ca vịnh vừa được công bố. Bài ca vịnh này thuộc về một loại “berakot”, tức là loại “các thứ phúc lành” đã được hiện hữu trong Cựu Ước và là những gì đã được truyền bá rộng rãi hơn trong truyền thống Do Thái giáo. Bởi thế, nó là một trào lưu chúc tụng liên tục dâng lên Thiên Chúa là Đấng, theo đức tin Kitô giáo, được chúc tụng như là “Cha của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta”.
 Chính vì lý do này mà nơi bài thánh ca chúc tụng này hình ảnh của Đức Kitô mới nổi bật, Đấng mà công việc của Thiên Chúa Cha được tỏ hiện và nên trọn. Thật vậy, ba động từ chính của bài ca vịnh dài dòng mà gẫy gọn này bao giờ cũng dẫn chúng ta đến với Người Con này.
 2. Thiên Chúa “đã chọn chúng ta trong Người” (câu 4): Đó là ơn gọi nên thánh của chúng ta và là ơn gọi đóng vai con cái được thừa nhận, nhờ đó là ơn gọi được làm an hem với Chúa Kitô. Tặng ân này, một tặng ân hoàn toàn biến đổi thân phận tạo vật của chúng ta, được ban cho chúng ta “nhờ việc làm của Chúa Giêsu Kitô” (câu 5), một công việc tham dự vào đại dự án cứu độ thần linh, vào “ý định ưu ái” (câu 5) yêu thương của Chúa Cha là Đấng vị Tông Đồ bàng hoàng chiêm ngưỡng.
 Động từ thứ hai, sau động từ của việc tuyển chọn (“đã chọn chúng ta”), là động từ ám chỉ tặng vật ân sủng: “ân sủng Ngài đã ban cho chúng ta nơi Người Con” (ibid). Theo tiếng Hy Lạp chúng ta có cùng một gốc hai lần, đó là “charis” và “echaritosen”, để nhấn mạnh đến tính cách nhưng không của sáng kiến thần linh xẩy ra trước mọi đáp ứng của nhân loại. Bởi thế, ân sủng Cha ban xuống trên chúng ta nơi Người Con duy nhất của Ngài đó là việc tỏ hiện tình Ngài yêu thương là những gì bao bọc và biến đổi chúng ta.
 3. Thế rồi chúng ta có động từ trọng yếu thứ ba nơi bài ca vịnh Thánh Phaolô này: đối tượng của bài ca vịnh này lúc nào cũng là ân sủng thần linh là những gì được “đổ xuống trên chúng ta” (câu 8). Bởi thế, chúng ta thấy mình trước một động từ của sự phong phú dồi dào, chúng ta có thể nói – theo nguyên nghĩa của nó – về cái thái quá, về việc ban phát vô hạn hay hạn chế.
 Như thế là chúng ta tiến tới tình trạng vô cùng hiển vinh phong phú của mầu nhiệm về Thiên Chúa, một Thiên Chúa bằng ân sủng cởi mở và tỏ mình cho ai được kêu gọi bởi ân sủng và yêu thương, một mạc khải không thể nào đạt tới chỉ bằng nguyên tài năng thông minh và khả năng của con người. “Những gì mắt chưa hề thấy và tai chưa hề nghe, những gì lòng chưa cảm thấu, những gì Thiên Chúa đã sửa soạn cho những ai kính mến Ngài, thì vị Thiên Chúa này đã mạc khải cho chúng ta biết nhờ Thần Linh. Vì Thần Linh thấu suốt hết mọi sự, kể cả thẳm cung của Thiên Chúa” (1Cor 2:9-10).
 4. “Mầu nhiệm” về “ý muốn” thần linh là một trọng điểm để điều hợp toàn thể hữu thể và toàn thể lịch sử, dẫn đến chỗ thành toàn theo ý muốn của Thiên Chúa: Nó là “dự án vào thời diểm viên trọn hiệp nhất tất cả mọi sự trong Người, những sự trên trời cũng như những sự dưới đất” (Eph 1:10). Nổi bật nhất trong “dự án” này, theo ngôn ngữ Hy Lạp là “oikonomia”, tức là trong dự án hòa hợp này nơi cấu trúc của hữu thể và của việc hiện hữu đó là Chúa Kitô, vị thủ lãnh của thân thể Giáo Hội, thế nhưng nó cũng là cái trục phục hồi nơi chính bản thân Người “tất cả mọi sự, những sự trên trời và những sự dưới đất”. Tình trạng phân tán và các thứ hạn hẹp đều được thắng vượt, và cái “toàn vẹn” được hình thành, cái toàn vẹn là đích điểm chân thực của cái dự án đã được ý muốn thần linh thiết lập từ ban đầu.
 Thế nên, chúng ta thấy mình đứng trước một đại họa phẩm về lịch sử tạo dựng và cứu độ, là những gì giờ đây chúng ta suy niệm và chia sẻ sâu xa hơn nữa bằng những lời lẽ của Thánh Irênêo, vị đại Tiến Sĩ của Giáo Hội ở thế kỷ thứ hai, vị mà, trong mấy trang thuộc thẩm quyền của mình về luận đề “Chống Các Bè Rối”, đã khai triển những suy tư rõ ràng của mình về việc qui tụ được Chúa Kitô hoàn tất.
 5. Ngài khẳng định là đức tin Kitô giáo nhìn nhận rằng “chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và một Chúa Giêsu Kitô duy nhất là Chúa của chúng ta, Đấng đã đến theo dự án của mình và đã qui tụ tất cả mọi sự nơi bản thân Người. Trong tất cả mói sự ấy có cả con người là loài được Thiên Chúa hình thành. Bởi thế Người cũng qui tụ cả con người nơi chính bản thân Người, trở nên hữu hình, Đấng vô hình, trở thành khả thấu, Đấng bất khả thấu, và trở thành người, Đấng là Lời” (3,16,6: "Già e Non Ancora" [Already and Not Yet], CCCXX, Milan, 1979, p. 268).
 Bởi thế, “Lời Chúa” thực sự làm người, không phải ở bề ngoài, bằng không “việc làm của Người không thực sự”. Trái lại, “Người là những gì Người dường như là: Thiên Chúa là Đấng qui tụ nơi bản thân mình tạo vật cũ của Ngài, đó là con người, để sát hại tội lỗi, phá hủy sự chết và sinh động con người. Và bởi thế mà những việc làm của Người mới chân thực” (3,18,7: ibid., pp. 277-278). Người làm cho mình trở thành đầu của Giáo Hội để kéo tất cả mọi người đến củng Người vào lúc thích thuận. Chúng ta hãy nguyện cầu, theo tinh thần của những lời sau đây: Vâng, lạy Chúa, xin lôi kéo chúng con lại cùng Chúa; xin lôi kéo thế giới lại với Chúa và xin ban cho chúng con an bình, an bình của Chúa.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 23/11/2005).

Bài 157 – TV 136 (137) (Thứ Tư 30/11/2005)

 MỘT BÀI QUỐC CA SẦU THƯƠNG

 (Thánh Vịnh 136 [137] cho Kinh Tối Thứ Ba, Tuần Thứ Bốn)

 1. Vào ngày Thứ Tư đầu tiên trong Mùa Vọng này, thời điểm phụng vụ của sự thinh lặng, tỉnh thức và nguyện cầu để sửa soạn cho Giáng Sinh, chúng ta suy niệm về baiàThánh Vịnh 136 (137), bài thánh vịnh đã trở thành nổi tiếng ở câu Latinh mở đầu của nó là “Super flumina Babylonis”. Bài thánh vịnh này gợi lên cho thấy thảm trạng dân Do Thái đã sống trong thời kỳ Giaêrusalem bị phá hủy xẩy ra vào năm 586 BC, và cuộc lưu đầy sau đó ở Babylon. Chúng ta đang đối diện moat bài quốc ca sầu thương mang dấu vết của một nỗi nhung nhớ nứt rain về những gì bị mất mát.
 Lời kêu cầu sâu xa cùng Chúa trong việc giải thoát thành phần tín trung của Ngài kkhỏi cảnh làm tôi Babylon cũng bày tỏ những niềm hy vọng và trông mong ơn cứu độ là những gì chúng ta bắt đầu cuộc hành trình Mùa Vọng.
 Phần thứ nhất của bài Thánh Vịnh (1-4) có một bối cảnh là miền đất lưu đầy, với những con sông và kênh đào là nguồn nước tưới dội đồng bằng Babylon, thủ phủ của thành phần Do Thái bị phát vãng. Nó như là một tiên báo tiêu biểu của những trại tiêu diệt mà dân Do Thái – trong thế kỷ vừa kết thúc – bị dẫn đến với cuộc hành quyết tử vong bỉ ổi, một cuộc hành quyết vẫn còn là một nỗi ô nhục bất khả xóa mờ nơi lịch sử của nhân loại.
 Phần thứ hai của bài Thánh Vịnh này (5-6) tràn đầy những nhung nhớ về Sion, một thành đô đã khuất bóng nhưng vẫn còn tiếp tục sống nơi tâm can của thành phần bị lưu đầy.
 2. Bao gồm ở những lời của thánh vịnh gia này là bàn tay, môi lưỡi, cuống họng, tiếng nói và châu lệ. Bàn tay là những gì bất khả châm chước cho người chơi đàn lia. Thế nhưng, bàn tay này vẫn bị tê liệt (câu 5) bởi sầu thương, nhất là vì cây đàn lia đã bị treo trên cây dương liễu.
 Người ca sĩ cần đến lưỡi môi, thế nhưng, giờ đây nó lại dính vào cuống họng (câu 6). Những bài hát về Sion là những bài ca vịnh về Cúa (câu 3-4), chúng không phải là những bài hát dân ca hay những màn trình diễn dân ca. Chỉ nơi phụng vụ và trong tình trạng dân được tự do chúng mới cất lên trời cao mà thôi.
 3. Thiên Chúa, Đấng nắm toàn quyền tối hậu của lịch sử, theo đức công minh của mình, Ngài hiểu được và chấp nhận tiếng kêu của thành phần nạn nhân, những tiếng kêu có những lúc chất chứa những giọng điệu đầy chát chúa.
 Chúng ta theo Thánh Âu Quốc Tinh để suy niệm sâu xa hơn về bài thánh vịnh của chúng ta đây. Nơi việc suy niệm này, vị Giáo Phụ của Giáo Hội ấy nêu lên một yếu tố bất ngờ có tính cách hết sức hợp thời: Thánh nhân biết rằng cũng trong số thành phần cư ngụ ở Babylon có những người dấn thân cho hòa bình cũng như cho thiện ích của cộng đồng này, bất chấp sự kiện là họ không có cùng một niềm tin tưởng của thánh kinh, và họ không biết đến niềm hy vọng về một Thành Đô Vĩnh Cửu như chúng ta khát mong. Họ có một tia ao ước về một cái gì đó vô tri, về một cái gì đó cao cả nhất, về siêu việt thể, về một cuộc cứu chuộc thực sự.
 Thánh nhân nói rằng trong số thành phần bách hại, trong số những kẻ vô tín ngưỡng, có những người có được tia ước vọng ấy, như là một thứ niềm tin, một thứ hy vọng, tới độ trở thành khả dĩ đối với họ trong những hoàn cảnh họ sống động. Với niềm tin tưởng vào một thực tại vô danh này, họ thực sự đang tiến về thành Giêrusalem chân thực, về Chúa Kitô. Bằng việc mở màn này của niềm hy vọng, việc mở màn của niềm hy vọng cũng có giá trị đối với cả thành phần Babylon nữa – như thánh Âu Quốc Tinh gọi họ - vì những ai chưa biết Chúa Kitô, thậm chí không biết cả Thiên Chúa nữa, và là những người dù sao cũng ước muốn cái vô danh, cái hằng hữu, thánh nhân khuyên dụ chúng ta là đừng nhìn chỉ ở những thứ vật chất của giây phút hiện tại, mà là hãy kiên trì tiến đến với Thiên Chúa. Chỉ có niềm hy vọng cao cả này chúng ta mới có thể biến đổi thế giới này một cách chân chính mà thôi.
 Thánh Âu Quốc Tinh nói như thế bằng những lời lẽ sau đây: “Nếu chúng ta là những công dân của Giêrusalem…. Và chúng ta phải sống trên trái đất này, thì chúng ta cần chẳng những hát những gì bài Thánh Vịnh xướng lên mà còn sống những gì ấy nữa: Điều này đạt được bằng một ước vọng sâu xa của cõi lòng, hết sức sốt sắng ước mong Thành Đô Vĩnh Hằng”.
 Khi đề cập tới “thành đô trần thế được gọi là Babylon”, thánh nhân thêm là nơi thành đô này, “có những con người, được tác động bởi lòng quyến luyến nó, tìm cách bảo toàn được tình trạng an bình, thứ an bình tạm bợ, mà không nuôi dưỡng niềm hy vọng khác trong tâm can của họ ngoài niềm vui được hoạt động cho hòa bình. Chúng ta thấy họ thực hiện mọi nỗ lực để trở thành hữu dụng cho xã hội trần thế. Tuy nhiên, nếu họ dấn thân với một lương tâm trinh trắng vào những việc làm ấy, Thiên Chúa sẽ không để cho họ bị nguy tử với Babylon, tiền định họ trở thành công dân Giêrusalem, tuy nhiên, với điều kiện là khi sống ở Babylon, họ không tỏ ra vinh vang, không tìm cách phô trương và ngạo mạn lỗi thời… Ngài nhín thấy việc phục vụ của họ và tỏ cho họ thấy thành đô khác, là nơi họ thực sự trong mong và hướng tất cả mọi nỗ lực của họ hướng về” ("Esposizioni sui Salmi" [Commentaries on the Psalms] 136, 1-2: "New Augustinian Library," XXVIII, Rome, 1977, pp. 397, 399).
 Chúng ta hãy cầu cùng Chúa, xin Ngài khơi lên trong tất cả chúng ta nỗi ước vọng này, việc cởi mở với Thiên Chúa, và những ai chưa biết Thiên Chúa cũng được tình yêu của ngài chạm tới, nhờ đó, tất cả chúng ta cùng nhau hành trình tiến về thành đô sau cùng và ánh sáng của Thành Đô ấy cũng chiếu soi thời đại chúng ta và thế giới chúng ta.
 Anh Chị Em thân mến,
 Bài Thánh Vịnh 136, chủ đề của bài giáo lý tuần này, là bài ai ca về việc thành Giêrusalem bị hủy hoại và về cuộc lưu đầy ở Babylon, một lời nguyện cầu chân thành xin được giải thoát và là một lời bày tỏ niềm ước vọng về Thánh Đô.
 Bài Thánh Vịnh này gợi lên hình ảnh Babylon như là một chốn nô lệ và sầu thương được coi như là dấu báo tiêu biểu cho những cảnh tượng kinh hoàng của những trại tử thần ở thế kỷ vừa qua, nơi dân Do Thái đã bị diệt chủng.
 Trong nỗi sầu muộn của mình, thành phần bị lưu đầy không còn cất tiếng hát “những bài ca về Chúa”, những bài ca chỉ có thể dâng lên Thiên Chúa trong tự do và trong môi trường nguyện cầu phụng vụ.
 Trong Mùa Vọng này, Giáo Hội đọc bài Thánh Vịnh này, với lời van nài của bài thánh vịnh mong được giải thoát cùng với nỗi khát mong nhung nhớ về Thánh Đô, như là một bày tỏ của niềm Giáo Hội hy vọng nguyện cầu cho việc Chúa Kitô đến.
 Như Thánh Âu Quốc Tinh nói với chúng ta, chúng ta được kêu gọi chẳng những để hàt bài Thánh Vịnh này, mà còn sống nó nữa, bằng việc nâng lòng mình lên theo nỗi khát vọng sâu xa tha thiết về một Giêrusalem thiên đình.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 30/11/2005).

Bài 158 – TV 137 9138) (Thứ Tư 7/12/2005)

 THIÊN CHÚA CHĂM SÓC CHO KẺ THẤP HÈN

 (Thánh Vịnh 137 [138] cho Kinh Tối Thứ Ba, Tuần Thứ Bốn)

 1. Được truyền thống Judaic qui cho là của Đavít, mặc dù có lẽ xuất hiện vào thời kỳ sau đó, bài thánh ca tạ ơn giờ đây chúng ta vừa nghe, bài thánh ca trở thành bài Thánh Vịnh 137 (138), bắt đầu bằng một bài hát riêng tư của thánh vịnh gia. Ông cất tiếng lên trong cộng đồng ở đền thờ, hay ít là có một liên hệ gì đó tới Cung Thánh Sion, ngai tòa Chúa hiện diện và là nơi Ngài gặp gỡ thành phần tín nghĩa.
 Thật vậy, thánh vịnh gia nhìn nhận rằng ông cúi “mình hướng về đền thánh của Ngài” ở Giêrusalem (câu 2): Ông hát lên trước vị Thiên Chúa ở đó là Đấng ngự trên các tầng trời với triều thần của Ngài, nhưng cũng là Đấng lắng nghe trong đền thờ ở trên mặt đất thuộc về không gian đây (câu 1).
 Thánh vịnh gia này tin rằng “danh” Chúa, tức là, thực tại sống động riêng của Ngài, và những phẩm tính thủy chung cùng xót thương của Ngài, những dấu hiệu cho thấy giao ước của Ngài với dân Ngài, là căn bản của tất cả mọi niềm tin tưởng cậy trông (câu 2).
 2. Bởi thế, ánh mắt của con người, trong khoảng khắc, hướng về quá khứ, về ngày khổ đau: Bấy giờ tiếng nói thần linh đã đáp lại tiếng kêu của kẻ tín nghĩa bị sầu thương. Tiếng nói ấy đã làm thấm nhập lòng can đảm vào linh hồn đang bị bối rối âu lo (câu 3). Nguyên ngữ Do Thái nói theo nghĩa đen về Vị Chúa là Đấng “kích động sức mạnh nơi linh hồn” của kẻ công chính đang bị khủng hoảng: Nó xẩy ra giống như cuộc xâm chiếm của một ngọn gió dữ dội thổi đến làm bay đi những lưỡng lự và sợ hãi, làm gia tăng một nghị lực sống động mới, và làm cho nở ra lòng can đảm và tin tưởng.
 Sau đoạn dạo đầu có vể tư riêng này, thánh vịnh gia hướng mắt về thế giới và cho rằng chứng từ của mình bao gồm tất cả chân trời ấy nữa: “Tất cả mọi vua chúa trên mặt đất”, theo kiểu gắn bó phổ quát, liên kết mình với thánh vịnh gia Do Thái trong cuộc chúc tụng chung tôn vinh sự cao cả của Chúa và quyền năng vương chủ của Ngài (câu 4-6).
 3. Nội dung của lời chúc tụng chung này xuất phát từ tất cả mọi dân tộc cho con người thấy được Giáo Hội sau này của thành phần dân ngoại, một Giáo Hội hoàn vũ mai hậu. Nội dung này lấy chủ đề đầu tiên của mình là “vinh quang” và “đường lối Chúa” (câu 5), tức là, dự án cứu độ của Ngài và việc Ngài mạc khải. Bởi thế, người ta khám phá ra rằng Thiên Chúa thật sự là “cao vời” và siêu việt, thế nhưng lại ưu ái “chăm sóc cho thành phần yếu hèn”, trong khi đó Ngài ngoảnh mặt khỏi thành phần ngạo mạn như thể tỏ ra loại trừ và phán quyết (câu 6).
Như Tiên Tri Isaia đã loan báo, “Bởi thế, Đấng ngự trên cao và được tôn tụng, đời đời hằng sống, danh Ngài là Đấng Thánh, phán rằng: Ta ngự trên cao, và trong thánh thiện, và với thành phần bị tan nát và chán nản trong tinh thần, để tái sinh tinh thần cho kẻ cảm thấy chán chường, để phục hồi tâm can của thành phần tan nát” (Is 57:15). Bởi thế Thiên Chúa muốn ở với kẻ yếu kém, với thành phần nạn nhân, với thành phần thấp hèn nhất: Điều này được tỏ cho tất cả mọi vua chúa cũng như tất cả mọi chính quyền biết, thế nhưng cho tất cả chúng ta, như chúng ta cũng cần phải biết nhũng gì cần phải chọn lựa: đó là về phía thành phần khiêm hạ, thành phần thấp hèn nhất, thành phần nghèo khổ và thành phần yếu kém.
 4. Sau khi liên hệ với các vị lãnh đạo quốc gia, chẳng những vào thời điểm đó mà còn tất cả mọi thời nữa, thánh vịnh gia lại nói về lời chúc tụng riêng tư của mình (câu 7-8). Với ánh mắt hướng về tương lai của cuộc sống mình, ông cũng van xin Thiên Chúa trợ giúp về những thử thách mà cuộc sống vẫn còn gây ra cho ông.
 Một cách tổng hợp, ông nói tới “cơn giận dữ của các kẻ địch thù” (câu 7), một kiểu nói tiêu biểu cho tất cả mọi thứ hận thù mà người công chính có thể sẽ phải đương đầu trong cuộc hành trình lịch sử của mình. Thế nhưng, họ biết rằng Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi họ và sẽ giang tay nâng đỡ cùng dẫn dắt họ. Bởi thế, cùng đích của bài thánh vịnh này là việc cuối cùng thiết tha tuyên xưng lòng tin tưởng vào Chúa của sự thiện hảo vĩnh hằng: Ngài “sẽ không bỏ bê công cuộc tay Ngài làm ra”, tức là bỏ rơi tạo vật của Ngài (câu 8). Và cả chúng ta nữa cũng cần phải sống với lòng cậy trông này, bằng niềm tin tưởng cậy trông nơi Chúa ấy.
 Chúng ta cần phải tin tưởng rằng, bất kể các thử thách đang đợi chờ chúng ta có nặng nề và dữ dội đến đâu chăng nữa, chúng ta sẽ không bao giờ bị lẻ loi cô độc một mình, chúng ta sẽ không bao giờ bị lìa xa bàn tay của Chúa, những bàn tay đã tạo dựng nên chúng ta và hiện nay vẫn theo đuổi cuộc hành trình cuộc sống của chúng ta. Như Thánh Phaolô chúng ta cần phải tuyên xưng rằng: “Đấng đã bắt đầu công việc thiện hảo nơi anh em sẽ tiếp tục hoàn tất công việc của mình” (Phil 1:6).
 5. Như thế, chúng ta đã có thể nguyện cầu bằng một bài thánh vịnh ngợi khen, tạ ơn và tin tưởng. Chúng ta muốn tiếp tục chiều hướng của bài tụng ca này bằng chứng từ của một ca sĩ Kitô giáo, đó là đại thi hào Ephraim ở Syria (thế kỷ thứ 4), tác giả của những bài viết đặc biệt đầy hương vị thi ca và thiêng liêng.
 Thi hào Ephraim đã xướng lên trong bài thánh ca rằng “Ôi Chúa, bất kể chúng con có lạ lùng về Chúa thế nào chăng nữa, vinh quang của Chúa cũng vượt trên những gì miệng lưỡi chúng con có thể diễn đạt” ("Inni sulla Verginità, 7: L'Arpa dello Spirito," [Hymns on Virginity, 7: The Lyre of the Spirit], Rome, 1999, p. 66), và ở một bài khác ông nói: “Chúc tụng Chúa là Đấng tất cả mọi sự đều khả dĩ, vì Ngài là Đấng Toàn Năng” ("Inni sulla Natività" [Hymns on the Nativity] 11: ibid., p. 48), đó là một lý do nữa để chúng ta tin tưởng cậy trông, đó là Thiên Chúa có quyền năng xót thương và sử dụng quyền năng xót thương này của mình. Và sau hết là lời trích dẫn cuối cùng: “Tất cả những ai hiểu được sự thật của Chúa đều chúc tụng Chúa” ("Inni sulla Fede" [Hymns on Faith] 14: ibid., p. 27).
 Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô,
 Hôm nay tôi muốn chia sẻ với anh chị em về bài Thánh Vịnh 137, một bài thánh ca tạ ơn. Từ đền thờ ở Giêrusalem, thánh vịnh gia nâng lời chúc tụng và tôn thờ Thiên Chúa. Bất chấp những thử thách và tai ương hoạn nạn, ông vẫn tin tưởng cậy trông là vị Thiên Chúa trung thành sẽ lắng nghe lời của ông.
 Những gì được bắt đầu như lời nguyện cầu riêng tư của thánh vịnh gia này đã trở thành một bài tụng ca của “tất cả mọi vua chúa trên trái đất này”, bài tụng ca tôn vinh Thiên Chúa là Đấng “đoái nhìn đến thành phần thấp hèn” và rat ay cứu giúp thành phần bị áp bức.
 Sau hết, thánh vịnh gia nguyện cầu xin Chúa tiếp tục trông chừng ông và bảo vệ ông khỏi hiểm nguy trong tương lai. Thánh Ephraim đã xướng lên rằng: “Chúc tụng Chúa là Đấng mọi sự đều khả dĩ; chúc tụng Chúa nơi tất cả những ai hiểu được chân lý của Ngài”.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 7/12/2005).

Bài 159 – TV 138 (139) (Thứ Tư 14/12/2005)

 MỘT BÀI CA TIN TƯỞNG CẬY TRÔNG: CHÚA LUÔN Ở VỚI CHÚNG TA

 (Thánh Vịnh 138 [139] cho Kinh Tối Thứ Tư, Tuần Thứ Bốn)

 1. Trong hai giây phút đặc biệt, Phụng Vụ Giờ Kinh Tối – phụng vụ giờ chúng ta đang suy niệm về các bài thánh vịnh và ca vịnh đây – chúng ta thấy có một bài đọc về một bản thánh ca khôn ngoan với nét đẹp trong sáng và đầy những cảm xúc, đó là bài Thánh Vịnh 138 (139). Hôm nay chúng ta có được phần nhất của bài thánh vịnh này (1-12), tức là hai đoạn đầu tiên tôn tụng một cách thứ tự về sự toàn tri của Thiên Chúa (1-6) và sự toàn hiện của Ngài trong không gian và thời gian (7-12).
 Các hình ảnh và những lời diễn tả có tính cách nhấn mạnh ấy là để chúc tụng đấng tạo hóa. Một tác giả Kitô giáo thời thế kỷ thứ 5 là Theodoret ở Cyprus đã khẳng định là: “Nếu các công trình được tạo dựng nên là những gì rất ư vĩ đại thì đấng hóa công cao cả biết mấy” ("Discorsi sulla Provvidenza," 4: "Collana di Testi Patristici," LXXV [Discourse on Providence: Compilation of Patristic Texts] Roma 1988, p. 115). Việc suy niệm của thánh vịnh gia đây trước hết tìm cách thấm nhập vào mầu nhiệm của Vị Thiên Chúa siêu việt, Đấng đồng thời lại gần gũi với chúng ta.
 2. Nội dung của sứ điệp này rất rõ trước mắt chúng ta, đó là Thiên Chúa biết hết mọi sự và Ngài ở với tạo vật của Ngài, chúng ta không thể nào tránh né được Ngài. Sự hiện diện của Ngài không phải là một cái gì đó có tính cách đe dọa hay kiểm soát, cho dù ánh mắt của Ngài nghiêm trọng khi nhìn thấy sự dữ, những gì Ngài không thể nào làm ngơ.
 Tuy nhiên, vấn đề chính yếu của Ngài ở đây là sự hiện diện cứu độ, một hiện diện có khả năng ôm ấp tất cả mọi hữu thể và trọn vẹn lịch sử. Tóm lại, đó là một phối trí linh thiêng được Thánh Phaolô ám chỉ nơi những gì ngài nói ở Công Nghị Nhã Điển, bằng cách trích lời của một thi sĩ Hy Lạp: “Trong Ngài chúng ta sống động và hiện hữu” (Acts 17:28).
 3. Đoạn thứ nhất (1-6), như Thánh Vịnh gia nói, là việc chúc tụng sự toàn tri thần linh: Thật vậy, những động từ về kiến thức như “thăm dò”, “quen thuộc”, “hiểu biết”, “phân biệt” và “nhận biết” là những động tự được lập đi lập lại. Như vốn thấy, kiến thức của thánh kinh còn sâu xa hơn cả việc học biết và hiểu biết thuần túy của lý trí nữa; nó là một thứ hiệp thông giữa tri giả (the knower) và tri thức (the known): bởi vậy mà Chúa là Đấng tiềm mật với chúng ta, ở trong tâm tưởng và hành động của chúng ta.
Đoạn thứ hai của bài thánh vịnh chú trọng tới sự toàn hiện thần linh (7-12). Nơi những câu thánh vịnh này, ý muốn viễn vông của con người trong việc né tránh sự hiện diện của Thiên Chúa là những gì được diễn tả một cách phập phồng. Tất cả không gian đều được bao phủ: trước hết là chiều dọc giữa “trời cao với vực thẳm” (câu 8), rồi tới chiều ngang, bao gồm hết mọi sự từ hừng đông, tức từ Phía Đông, cho tới cả ở “bên ngoài biển khơi” là vùng Địa Trung Hải, tức là Tây Phương (câu 9). Thiên Chúa đều hiện diện một cách chủ động ở mỗi một lãnh vực không gian này, kể cả những gì kín mật nhất.
 Thánh Vịnh gia cũng nói đến một thực tại khác trong đó chúng ta lặn ngụp đó là thời gian, một thực tại được biểu hiệu bằng đêm đen và ánh sáng, bằng bóng tối và ban ngày (câu 11-12). Cho dù đêm tối là môi trường khó tiến bước và thấy được, đều được xuyên thấu bởi ánh mắt và sự hiện diện của Vị Chúa của hữu thể và thời gian. Ngài bao giờ cũng muốn nắm lấy tay chúng ta để dẫn đắt chúng ta bước đi trên con đường trần thế (câu 10). Bởi vậy mà đây không phải là một thứ gần gũi của một vị thẩm phát khiến phải lo âu sợ hãi mà là một thứ đỡ nâng và tự do.
 Như thế, chúng ta mới có thể hiểu được nội dung tới hậu chính yếu của bầ thánh vịnh này. Nó là một bài ca tin tưởng cậy trông: Thiên Chúa ở với chúng ta. Ngay cả trong những đêm đen của cuộc đời chúng ta, Ngài cũng không bỏ rơi chúng ta. Ngay cả trong những lúc khốn khó, Ngài vẫn hiện diện ở đó. Và ngay cả trong đêm tối cuối cùng, trong cảnh lẻ loi cô đơn cuối cùng là lúc không một ai có thể ở bên chúng ta, trong đêm tối của chết chóc, Chúa vẫn không bỏ chúng ta. Ngài vẫn còn đồng hành với chúng ta nữa trong tình trạng đơn độc cuối cùng của đêm tối tử thần ấy.
 4. Chúng ta bắt đầu với lời trích dẫn của một tác giả Kitô giáo là Theodoret ở Cyprus. Chúng ta giờ đây cũng kết thúc với ông và với “Cuộc Bàn Luận Thứ Tư về Việc Quan Phòng” của ông, vì đây là đề tài chính yếu của bài thánh vịnh này. Ông đã suy nghĩ về câu thánh vịnh thứ 6, câu thánh vịnh được thánh vịnh gia kêu lên rằng: “Một kiến thức như thế là những gì vượt xa tôi, quá vời vợi cho tôi với tới”. Ông Theodoret nhận định về câu này bằng việc phân tích một cách sâu xa cái bên trong nội tâm của mình cùng với cảm nghiệm riêng của mình rồi khẳng định rằng: “Khi suy tư và đi sâu vào nội tâm của mình, khi tách mình ra khỏi cảnh ồn ào ngoại tại, tôi muốn dìm mình vào việc chiêm ngưỡng bản tính của mình… Khi suy nghĩ về điều ấy và nghĩ về việc hòa hợp giữa bản tính hữu tử và bất tử, tôi cảm thấy hoảng hồn trước cái lạ lùng này, và khi tôi không thể chiêm ngưỡng mầu nhiệm này thì tôi nhìn nhận là tôi bất lực; còn nữa, khi tôi công bố cái hiển vinh nơi kiến thức của Đấng Hóa Công và cất tiếng hát chúc tụng Ngài thì tôi kêu lên rằng: ‘Kiến thức ấy vượt xa tôi, quá xa vời cho tôi với tới’” ("Collana di Testi Patristici" [Compilation of Patristic Texts] LXXV, Rome, 1988, pp. 116, 117).
 Anh Chị Em thân mến,
 Hôm nay chúng ta chú ý tới bài Thánh Vịnh 138 là bài suy niệm về Thiên Chúa là Đấng ở khắp mọi nơi và biết hết mọi sự. Việc suy niệm về Chúa này và về việc tạo dựng của Ngài là những gì chúc tụng mầu nhiệm về Vị Thiên Chúa siêu việt là Đấng cũng gần gũi chúng ta.
 Thật vậy, sự hiện diện cứu độ này là nền tảng và có khả năng bao gồm tất cả mọi hữu thể và trọn vẹn lịch sử. Kiến thức được bài thánh vịnh này nói tới vượt lên trên sự hiểu biết về lý trí. Đó là một kiến thức của Thánh Kinh, một kiến thức là mối hiệp thông giữa người được biết và Đấng hiểu biết: bởi thế mà Chúa là Đấng có liên hệ mật thiết với chúng ta khi chúng ta suy nghĩ và bất cứ khi nào chúng ta tác hành.
 Thiên Chúa hiện diện ở tất cả không gian lẫn thời gian: Ngài ở trên trời cũng như dưới vực thẳm của trái đất; ngài ở trong ánh sáng lẫn bóng tối. Chúng ta kết thúc bằng việc chiêm ngắm những lời của ông Theodoret ở Cyprus, người đã nhận thấy rằng ngay cả khi tuyên bố sự khôn ngoan của Đấng Hóa Công, chúng ta vẫn không thể nào không nhìn nhận bản chất siêu vời của đức khôn ngoan Chúa là những gì quá cao vời đối với sự hiểu biết của chúng ta. “Nếu cái tạo vật còn vĩ đại như thế thì Đấng Tạo Thành còn vô cùng cao cả đến đâu”.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 14/12/2005).

Bài 160 – TV 138 (139) (Thứ Tư 28/12/2005)

 THIÊN CHÚA THẤY ĐƯỢC TẤT CẢ TƯƠNG LAI CỦA CÁI PHÔI THAI BÀO

 (Thánh Vịnh 138 [139] phần 2 cho Kinh Tối Thứ Tư, Tuần Thứ Bốn)

 1. Vào buổi triều kiến chung Thứ Tư này trong tuần bát nhật Giáng Sinh, trong khi phụng vụ cử hành lễ kính Các Thánh Anh Hài, chúng ta suy niệm về bài Thánh Vịnh 138 (139), bài được đề ra cho Phụng Vụ Giờ Kinh Tối được chia làm 2 giai đoạn. Sau khi chiêm ngưỡng nơi phần thứ nhất (câu 1-12) về việc toàn hiện và toàn năng của Thiên Chúa, Vị Chúa của hữu thể và của lịch sử, bài thánh ca khôn ngoan đầy vẻ đẹp và cảm tình sâu xa này giờ đây chú trọng tới cái thực tại cao quí nhất, lạ lùng nhất của toàn thể vụ trụ là con người, một con người có hữu thể được diễn tả là “một kỳ công” của Thiên Chúa (câu 14).
 Thật vậy, đề tài này rất thích hợp với bầu khí Giáng Sinh chúng ta đang sống qua những ngày chúng ta cử hành đại mầu nhiệm của Con Thiên Chúa hóa thân làm người, thật sự, trở thành một Con Trẻ, vì phần rỗi của chúng ta.
 Sau khi suy nghĩ về ấh mắt và việc hiện diện của Đấng Hóa Công qua khắp chân trời vũ trụ, ở phần thứ hai của bài Thánh Vịnh này hôm nay chúng ta suy niệm về ánh mắt yêu thương của Ngài trên nhân loại, thành phần được suy nghĩ về tất cả những gì là trọn vẹn ở giây phút khởi đầu của họ.
 Họ vẫn là một “bản chất chưa thành hình” nơi lòng dạ của người mẹ: Từ ngữ Do Thái sử dụng ở đây được một số chuyên gia thánh kinh cho là một “phôi thai bào”, được từ ngữ này diễn tả là nhỏ bé, vòng cung, một thực tại cuộn mình, nhưng lại là một thực tại được Thiên Chúa ghé mắt từ bi và nhân ái của Ngài tới (câu 16).
 2. Để diễn tả tác động thần linh trong lòng mẹ, thánh vịnh gia đã phải sử dụng tới những hình ảnh thánh kinh cổ điển, so sánh cái lỗ hổng sản sinh của người mẹ với “thâm cung của trái đất”, tức là, tới tính chất sinh động liên lỉ của người mẹ trái đất rộng lớn (câu 15).
 Trước hết, là biểu hiệu về ngưới thợ gốm cũng như về nhà điêu khắc “hình thành” vầkhuôn đúc nên tác phẩm nghệ thuật của họ, công trình của họ, giống như việc tạo dựng nên con người trong Sách Khởi Nguyên: “Chúa là Thiên Chúa đã dựng nên con người từ bùn đất” (Gen 2:7).
 Bởi vậy mới có một biểu hiệu “thêu dệt” gợi lên cho thấy tính cách tinh tế của da, thịt, thần kinh, “được đan kết” thành bộ xương. Ông Gióp đã mạnh mẽ nhắc lại những hình ảnh này và những hình ảnh khác để tôn tụng kiệt tác nơi con người, mặc dù họ bị khổ đau ngược đãi và làm bầm dập: “Bàn tay Chúa đã hình thành nên tôi và dựng nên tôi … Xin hãy nhớ rằng Chúa đã dựng nên tôi từ bùn đất…! Không phải là Chúa đã đổ con ra như sửa chảy và đã làm cho con dầy lại như bơ hay sao? Với da thịt tôi mặc lấy đây, với xương và gân kết cấu con lại với nhau” (Job 10:8-11).
 3. Ý tưởng trong bài Thánh Vịnh này về việc Thiên Chúa thấy được tất cả tương lai của cái phôi thai bào này, một phôi thai bào vẫn còn là “một bản chất chưa hình thành”, là một ý tưởng hết sức mãnh liệt. Ngày tháng tạo vật sinh động và đầy những việc làm suốt cả cuộc hiện hữu trần gian của họ đều đã được ghi trong sách sự sống của Chúa.
 Bởi thế, một lần nữa, cái cao cả siêu việt của kiến thức thần linh hiện lên, bao gồm chẳng những quá khứ và hiện tại mà còn bao gồm cả, cho dù ẩn kín, tương lai nữa. Tuy nhiên, cái cao cả của con người tạo vật nhỏ bé chưa được sinh ra này, một tạo vật được Thiên Chúa hình thành và yêu thương, cũng cho thấy thánh kinh tỏ ra tôn kính con người ngay từ giây phút đầu tiên họ hiện hữu.
 Giờ đây chúng ta hãy hướng tới lời suy niệm của Thánh Grêgory Cả qua những bài Giảng của ngài về tiên tri Êzêkiên là những gì đã gắn liền với câu thánh vịnh chúng ta đã nhận định trên đây: “Ánh mắt của Ngài đã nhìn ngắm bản thể chưa hành thình của tôi; hết mọi ngày trong đời sống của tôi đã được ghi nhận trong sổ sách của Ngài” (câu 16). Về những lời ấy, Vị Giáo Hoàng kiêm Giáo Phụ này đã viết ra một bài suy niệm về tính cách nguyên khôi và tinh tế liên quan tới tất cả những ai trong cộng đồng Kitô Giáo tỏ ra nản chí lùi bước tiến lên trong cuộc hành trình thiêng liêng của họ.
 Ngài nói rằng những ai yếu kém đức tin và cuộc sống Kitô Giáo đều thuộc về cái kiến trúc của Giáo Hội. “Tuy nhiên, họ được thêm thắt…. bởi thiện chí. Thật vậy, họ là người bất toàn và nhỏ bé, tuy nhiên , bao lâu họ còn có thể hiểu biết, thì họ vẫn mến yêu Thiên Chúa và tha nhân của họ, và không bỏ bê việc thực hiện taât cả những gì là thiện hảo có thể. Cho dù họ chưa chiếm được những tặng ân thiêng liêng để cởi mở tâm hồn của họ trước tác động toàn thiện và việc thiết tha chiêm niệm, song họ cũng không bị chậm chạm trong việc mến yêu Thiên Chúa và tha nhân, ở chỗ họ có thể nhận thức nó.
 “Bởi vậy, có thể xẩy ra trường hợp là cả họ nữa cũng góp phần vào việc xây dựng Giáo Hội, vì, cho dù vị thế của họ ít quan trọng, cho dù họ trì trệ nơi giáo huấn, lời tiên tri, ơn làm phép lạ và hoàn toàn xa lánh thế gian, họ vẫn có nền tảng về lòng kính sợ và mến yêu” (2, 3, 12-13, "Opere di Gregorio Magno," IIV 2, Rome, 1993, pp. 79, 81).
 Thế nên, sứ điệp của Thánh Grêgôriô troơ thành một niềm an ủi lớn lao cho tất cả chúng ta, thành phần thường chiến đấu một cách uể oải trên con đường của cuộc sống thiêng liêng và giáo hội. Chúa biết chúng ta và bao bọc chúng ta bằng tình yêu của Ngài.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/1/2006).
 Sau đây là phần Anh ngữ tóm kết bài Giáo Lý Thánh Vịnh 138 trong buổi triều kiến chung hằng tuần tại Quảng Trường Thánh Phêrô với 20 ngàn người, một buổi triều kiến đã được ngài kết thúc bằng việc nhắc đến thành phần nạn nhân động đất sóng thần tsunami ngày 26/12/2004 cách đây 1 năm cũng như những nạn nhân bị thiên tai khác trên thế giới.
 Anh Chị Em thân mến
 Trong khi chúng ta cử hành tuần bát nhật Giáng Sinh và lễ Các Thánh Anh Hài, chúng ta lại chú tâm tới bài Thánh Vịnh 138.
 Bài thánh ca chúc tụng này đưa ra một đề tài rất hợp với tinh thần của Giáng Sinh, khi chúng ta đang tưởng niệm đại mầu nhiệm về việc Con Thiên Chúa làm người vì phần rỗi của chúng ta.
 Phần thứ hai của bài Thánh Vịnh này cống hiến việc suy niệm về ánh mắt yêu thương bao trùm tất cả loài người.
 Để diễn tả tác động thần linh trong lòng người nữ, thánh vịnh gia nói tới những hình ảnh cổ thời của thánh kinh. Đặc biệt chúng ta thấy Đấng Tạo Hóa được tiêu biểu như là một người thợ gốm và là nhà điêu khắc hình thành tác phẩm của mình từ “bụi đất”.
 Thật là mãnh liệt cái ý nghĩ là từ lúc chúng ta được thụ thai Thiên Chúa đã thấy được tương lai của chúng ta rồi: Trong cuốn sách sự sống của Chúa, các kinh nghiệm của cuộc đời trần gian chúng ta sống đều đã được ghi nhận.
 Tóm lại, chúng ta hãy cùng nhau chiêm ngưỡng sứ điệp được vị tiền nhiệm của tôi là Thánh Giáo Hoàng Gregôriô Cả cống hiến niềm hy vọng và phấn khởi ngay cả cho thành phần chiến đấu trong cuộc hành trình thiêng liêng và giáo hội: “Những ai chưa có được những tặng ân thiêng liêng để cởi mở cõi lòng mình ra chiêm ngưỡng… thì không cần phải do dự gì trong việc khao khát tình yêu Thiên Chúa và tha nhân”.
 (Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo mạng điện toán toàn cầu Catholic Online)

Bài 161 – Ca vịnh Cl 1 (Thứ Tư 4/1/2006)

 CHÚNG TA THẤY DUNG NHAN CỦA THIÊN CHÚA NƠI CHÚA KITÔ

 (Ca Vịnh Col 1:3,12-20 cho Kinh Tối Thứ Tư, Tuần Thứ Bốn)

 Anh Chị Em thân mến,
 1. Trong buổi triều kiến chung đầu tiên của tân niên này, chúng ta hãy ngừng lại để suy niệm về bài thánh ca Kitô Học nổi tiếng trong Bức Thư gửi cho Colosê, bức thư có thể nói tạo nên một khai mở trịnh trọng để tiến vào kho tàng phong phú của bức thư được Thánh Phaolô viết này; nó cũng là một cửa ngõ để qua đó tiến vào năm mới đây.
 Bài thánh ca này được đề ra cho chúng ta suy niệm có tính cách phong phú bày tỏ niềm tri ân cảm tạ (câu,3,12-14). Nó giúp cho chúng ta kiến tạo nên bầu khí thiêng liêng cần thiết để sống tốt đẹp những ngày đầu tiên của năm 2006 này cũng như cuộc hành trình dài của chúng ta trong suốt năm mới đây (câu 15-20).
 Lời chúc tụng của Thánh Tông Đồ, cùng với lời chúc tụng của chúng ta, dâng lên “Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô” (câu 3), nguồn mạch của một ơn cứu độ được diễn tả bằng những hình ảnh tiêu cực và tích cực: trước hết như là việc “giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của tăm tối” (câu 13), tức như là việc “cứu chuộc, việc thứ tha tội lỗi” (câu 14), rồi được tiêu biểu như là “việc thừa hưởng của các thánh nhân trong ánh sáng” (câu 12), và như là việc tiến “vào Vương Quốc của Người Con yêu dấu của Ngài” (câu 13).
 2. Đến đây thì toàn bài thánh ca cao cả này mở ra cho thấy: tâm điểm của nó là Chúa Kitô và nó tôn tụng địa vị siêu việt cùng công cuộc của Người nơi Việc Tạo Thành cũng như nơi lịch sử Cứu Chuộc (câu 15-20). Như thế, bài ca vịnh này có hai chiều hướng. Ở chiều hướng thứ nhất, Chúa Kitô được trình bày như là Trưởng Tử của tất cả mọi tạo sinh, Chúa Kitô “xuất phát trước tất cả mọi tạo vật” (câu 15). Thật thế, Người là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” và lời diễn tả này có cùng một tác dụng như “bức tượng” thuộc văn hóa Đông Phương có, ở chỗ, nó chẳng những là những gì tương tự được nhấn mạnh mà còn sâu xa thân mật với chủ thể được biểu hiện nữa.
 Chúa Kitô tái phác lại một cách hữu hình nơi chúng ta “Vị Thiên Chúa vô hình”. Nơi Người chúng ta thấy được dung nhan của Thiên Chúa qua bản tính chung là những gì liên kết chúng lại với nhau. Bởi phẩm vị thượng thặng của mình, Chúa Kitô có trước “tất cả mọi sự”, chẳng những vì hằng hữu tính của Người, mà còn nhất là nơi công cuộc sáng tạo cùng quan phòng của Người nữa: “Nơi Người, tất cả mọi sự được tạo thành, trên trời cũng như dưới thế, hữu hình cũng như vô hình…. Và nơi Người tất cả mọi sự liên kết lại với nhau” (câu 16-17). Thật vậy, chúng đã được tạo thành “cho Người” (câu 16).
 Bởi thế Thánh Phaolô đã vạch ra cho chúng ta thấy một chân lý rất quan trọng, đó là lịch sử có đích điểm, có hướng đi. Lịch sử hướng tới chỗ nhân loại được liên kết trong Chúa Kitô, do đó, tiến theo chiều hướng của con người thành toàn, tới một chủ nghĩa nhân bản thiện hảo.
 Nói cách khác, Thánh Phaolô muốn nói với chúng ta rằng: Phải, lịch sử có tiến bộ. Chúng ta có thể nói rằng có một cuộc tiến hóa về lịch sử. Tiến bộ là tất cả những gì mang chúng ta tới gần hơn với Chúa Kitô, nhờ đó, gần hơn với một nhân loại kết đoàn, với chủ nghĩa nhân bản chân thực. Bởi vậy, trong những ngầm ý này còn có cả một trách nhiệm giành cho chúng ta, đó là hoạt động cho tiến bộ, một điều tất cả chúng ta đều mong muốn. Chúng ta có thể làm điều này bằng việc hoạt động để mang kẻ khác về cho Chúa Kitô; chúng ta có thể làm điều này bằng việc làm cho chính bản thân mình nên giống Chúa Kitô, nhờ đó tiếp tục con đường tiến bộ thực sự.
 3. Chiều hướng thứ hai của bài thánh ca này (câu 18-20) nổi bật với hình ảnh Chúa Kitô Cứu Thế trong lịch sử cứu độ. Công việc của Người được thể hiện trước hết nơi hữu thể của Người là “đầu của Thân Thể là Giáo Hội” (câu 18): Đây là chân trời cứu độ đặc biệt cho thấy tất cả cuộc giải phóng và cứu chuộc, tất cả mối hiệp thông sống động liên kết đầu và các chi thể của thân mình, tức là giữa Chúa Kitô và Kitô hữu. Ánh mắt của Thánh Tông Đồ vươn tới mục đích tối hậu là nơi lịch sử qui về, đó là Chúa Kitô, “trưởng tử trong số kẻ chết” (câu 18), là Đấng mở cửa sự sống trường sinh, khi giật lấy chúng ta cho thoát khỏi những giới hạn của sự chết và sự dữ.
 Ở đây, thực sự là những gì “tràn đầy” của sự sống và ân sủng nơi chính Chúa Kitô và là những gì được cống hiến và truyền đạt cho chúng ta (câu 19). Với sự hiện diện sống động cho chúng ta có thể thông phần vào thần tính của Người như thế, nội tâm của chúng ta được biến đổi, được hòa giải và an bình được tái thiết: Đó là tình trạng hòa hợp của tất cả hữu thể được cứu chuộc, nhờ đó, nơi họ, Thiên Chúa sẽ là “tất cả trong mọi sự” (1Cor 15:28). Để sống là một Kitô hữu nghĩa là để mình nhờ đó được biến đổi nội tâm nên giống như Chúa Kitô. Việc hòa giải và bình an được chiếm đạt là ở chỗ này.
 4. Giờ đây chúng ta hãy jướng về mầu nhiệm Cứu Chuộc cao cả này bằng một cái nhìn chiêm niệm theo những lời lẽ của Thánh Proclus thành Constantinople, vị đã chết năm 446. Ở Bài Giảng Đầu Tiên của ngài về Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, ngài đã trình bày mầu nhiệm Cứu Chuộc một cách mới mẻ, như thành quả của việc Nhập Thể.
Thật vậy, Thiên Chúa, vị tổng giám mục này nhắc nhở, đã hóa thân làm người để cứu độ chúng ta, nhờ đó giật chúng ta khỏi các thứ quyền lực của tăm tối, và mang chúng ta về với Vương Quốc của Người Con Ngai Yêu Dấu, đúng như bài Ca Vịnh của Bức Thư gửi giáo đoàn Côlôsê này đã gợi lên. Thánh Proclus nhận định rằng: “Đấng cứu chuộc chúng ta không phải chỉ là nhân loại; thật thế, toàn thể loài người đã bị làm tôi cho tội lỗi; thế nhưng ngài cũng không phải chỉ là một Vị Thiên Chúa thiếu bản tính con người: Người thực sự có một thân thể. Nếu Người không mặc lấy xác thịt của tôi thì Người đã không cứu độ tôi. Được hình thành trong cung lòng của Vị Trinh Nữ, Người đã được che phủ chiếc mặt nạ của một kẻ bị kết án. Người đã trao ban tinh thần của Người và nhận lấy xác thịt qua một cuộc trao đổi tuyệt vời” (8: "Testi mariani del primo millennio," I, Rome, 1988, p. 561).
 Bởi thế, chúng ta đứng trước cộng cuộc của Thiên Chúa là Đấng đã mang lại Ơn Cứu Chuộc chính bởi vì Người cũng là một con người. Người đồng thời cũng là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, nhưng cũng là anh em của chúng ta, và chính vì mối thân cận gần gũi này Người đã tuôn đổ tặng ân thần linh trong chúng ta.
 Đó thực sự là Vị Thiên Chúa ở với chúng ta. Amen.
 Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô,
 Trong Buổi Triều Kiến Chung đầu tiên của Tân Niên này, chúng ta suy niệm về bài thánh ca Kitô Học nổi tiếng được trích trong Bức Thư gửi giáo đoàn Côrintô. Nó có một cung giọng tạ ơn cho những ngày đầu tiên trong năm 2006 đây. Chúa Kitô là tâm điểm của bài thánh ca này. Người được trình bày cho chúng at thấy là trưởng tử của tất cả mọi vật tạo thành, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Lời diễn tả “hình ảnh”, như một bức ảnh Đông Phương cho thấy, nói lên hơn cả những gì tương tự giống nhau nữa, nó mang đến một cái gì thân mật sâu xa hiện diện nơi chủ thể được biểu biệu.
 Chúa Kitô cũng được diễn tả là Đấng Cứu Chuộc, trong một khung trời bao rộng của lịch sử cứu độ. Là đầu của thân mình là Giáo Hội, Người liên kết với tất cả mọi phần tử của thân mình này, sống cũng như chết, và Người mở cho chúng ta con đường đến sự sống trường sinh. Tình trạng trọn vẹn ân sủng chúng ta lãnh nhận từ Người biến đổi chúng ta từ bên trong, nhờ đó chúng ta trở nên thành phần được thông dự vào thần tính của Người.
 Như Thánh Proclus Thành Constantinople dạy, Đấng Cứu Chuộc của chúng ta không phải chỉ là người, Người là Thiên Chúa với một bản tính con người. Nêá Người không mặc lâá nhân tính thì Người đã không cứu độ chúng ta. Người đã ban thần linh của Người và nhận lấy xác thịt của chúng ta trong một cuộc trao đổi tuyệt vời.
 (Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 13/1/2006).

Bài 162 – TV 143 (144) (Thứ Tư 11/1/2006)

 CON NGƯỜI LÀ CHI MÀ CHÚA ĐỂ Ý CHĂM LO

 (Thánh Vịnh 143 (144): 1-8 cho Kinh Tối Thứ Năm, Tuần Thứ Bốn)

 1. Cuộc hành trình của chúng ta qua Sách Thánh Vịnh được sử dụng cho Phụng Vụ Giờ Kinh Tối giờ đây đưa chúng ta tới một bài thánh ca vương giả, bài Thánh Vịnh 143 (144), bài thánh vịnh có phần đầu đã được công bố: Đúng thế, phụng vụ cho đọc bài thánh ca này bằng cách chia bài ấy thành hai phần.
 Phần thứ nhất (x câu 1-8) là phần rõ ràng ôn lại đặc tính về văn chương của bài này, ở chỗ, Thánh Vịnh gia sử dụng những lời trích dẫn từ các bản văn của những Thánh Vịnh khác, nối kết lại cho khít khao thành một bài thánh ca và nguyện cầu mới.
 Nếu bài thánh vịnh này thuộc về một giai đoạn nào sau đó thì dễ thấy rằng vị vua được tôn tụng không có những tính chất của vương triều Đavít, vì chế độ hoàng vương Do Thái đã bị chấm dứt từ cuộc lưu đầy Babylon vào thế kỷ thứ sáu trước Chúa Kitô Giáng Sinh, mà là những tính chất về hình ảnh rạng ngời hiển vinh của Đấng Thiên Sai, vị mang lại một cuộc chiến thắng không phải là một biến cố về chính trị quân sự mà là một cuộc can thiệp để giải phóng khỏi sự dữ. “Vị thiên sai”, từ ngữ nơi tiếng Hy Lạp có nghĩa là “vị được xức dầu”, được thay thế chính xác bằng chữ “Đấng Thiên Sai”, Đấng theo văn chương Kitô Giáo có dung nhan Đức Giêsu Kitô, “Con Vua Đavít, con Abraham” (Mt 1:1).
 2. Bài thánh vịnh này bắt đầu bằng một lời ngợi khen, tức là bằng một tiếng kêu chúc tụng dâng lên Chúa, được cử hành như là một thứ kinh cầu gắn gọn liệt kê các danh hiệu cứu độ như: Ngài là đá tảng vững chắc kiên cố, Ngài là ân sủng ưu ái, Ngài là thánh lũy hộ trì, là nơi nương náu chở che, là sự giải phóng, là khiên thuẫn chống đỡ mọi cuộc tấn công của sự dữ (câu 1-2). Cũng có cả hình ảnh quân sự về Thiên Chúa là Đấng huấn luyện cho thành phần tín hữu của mình chiến đấu để Ngài có thể đối đầu với những thứ hận thù vây bủa, với các thứ quyền lực tối tăm của thế giới này.
Bất kể phẩm vị vương giả của mình, trước Chúa Toàn Năng, thánh vịnh gia cảm thấy yếu đuối và mỏng dòn. Bấy giờ ông bày tỏ lời tuyên xưng khiêm tốn được hình thành, như ông đã nói, từ những lời lẽ của bài Thánh Vịnh thứ 8 và 38. Ông cảm thấy mình như “một hơi thở”, như “một bóng câu”, bất nhất, chìm ngập trong giòng thời gian trôi qua, mang đặc tính hạn hữu của một loài tạo vật (x câu 4).
 3. Vậy vấn đề được đặt ra là: Tại sao Thiên Chúa lại quan tâm tới một tạo vật rất ư là khốn nạn và hư đốn như thế? Để trả lời cho vấn nạn này (x câu 3) là việc xuất hiện thần linh cao cả, được gọi là cuộc thần hiển là những gì được kèm theo bằng một cuộc diễn hành của những yếu tố trong vũ trụ cùng với các biến cố của lịch sử, hướng tới việc chúc tụng về siêu việt tính nơi Vị Vua cao cả của hữu thể, của vũ trụ và của lịch sử.
 Bởi thế mới đề cập tới các thứ núi non phun khói từ những cuộc bùng phát núi lửa (câu 5), về những thứ sấm chớp phát ra như những mũi tên phóng vào thành phần hành ác (câu 6), về “nhiều” “giòng nước” đại dương là biểu hiệu cho các thứ xáo động đã được quyền năng của bàn tay thần linh ra tay giải cứu vị vua này khỏi bị chìm ngập (câu 7). Nơi bối cảnh của những gì được dĩ6n tả trên đây là những kẻ thù lạ mặt, thành phần “nói năng gian dối” và là thành phần “có bàn tay hữu giơ lên làm chứng dối” (câu 7-8), một tiêu biểu cụ thể, theo lối diễn tả của ngôn ngữ Trung Đông, về ngẫu tượng, về tình trạng trụy lạc luân lý, về sự dữ thực sự chống lại Thiên Chúa cũng như chống lại thành phần tín hữu của Ngài.
 4. Trong việc suy niệm của chúng ta, giờ đây chúng ta dừng lại một chút xíu về việc tuyên xưng khiêm hạ được thánh vịnh gia bày tỏ và chúng ta sẽ sử dụng những lời lẽ của Origin, vị có những lời dẫn giải về bài thánh vịnh của chúng ta đây qua bản dịch Latinh của Thánh Giêrônimô. “Thánh vịnh gia nói về cái mỏng dòn của thân thể và của thân phận con người”, như thể vì thân phận của nhân loại mà con người chẳng là gì cả. “Hư vô trên hết hư vô; tất cả mọi sự chỉ là hư vô”, Sách Giảng Viên nói như thế. Vấn đề ngỡ ngàng và tri ân một lần nữa lại tái xuất: “Lạy Chúa, con người là chi mà Chúa để ý chăm nom?... Con người thật là hạnh phúc nhận biết Đấng Tạo Dựng của mình. Nơi điều này mà chúng ta khác biệt với các loài hoang thú và các thứ thú vật khác, vì chúng ta biết chúng ta có một Đấng Hóa Công, trong khi chúng chẳng biết gì cả”.
 Thật là đáng suy niệm trong chốc lát những lời này của Origin, vị thấy cái khác biệt nồng cốt giữa con người và loài thú ở sự kiện là con người có thể nhận biết Thiên Chúa là Đấng Hóa Công của mình, nơi sự kiện là con người có khả năng về chân lý, về một thứ kiến thức trở thành một mối liên hệ, một mối thân hữu. Ở thời đại của chúng ta đây, vấn đề quan trọng là trong kiến thức khác chúng ta có quá nhiều trong lúc này chúng ta đừng quên mất Thiên Chúa! Thứ kiến thức này trở này rắc rối – đến độ nguy hiểm – nếu kiến thức căn bản này không cống hiến ý nghĩa và hưnớg đi cho tất cả mọi sự, nếu kiến thức về Thiên Chúa Hóa Công bị hụt hẫng.
 Chúng ta hãy trở lại với Origen. Ông nói rằng: “Ngài sẽ không thể nào cứu được tình trạng khốn nạn này, tức là cứu được con người, nếu chính Ngài không vác họ trên vai của Ngài. ‘Ôi Chúa, xin uốn các tầng trời xuống và xin hãy đến’. Những con chiên bị bỏ rơi của Ngài sẽ không thể nào tự chữa lấy cho mình được nếu Ngài không mang vác chúng trên vai… Những lời lẽ này được ngỏ cùng Người Con: ‘Ôi Chúa, xin uốn các tầng trời xuống và xin hãy đến’…. Ngài đã đến, Ngài đã uốn các tầng trời xuống và Ngài đã giang tay ra từ trời cao, rồi Ngài đã đoái thương mang vác xác thịt của con người trên vai của Ngài, nên nhiều người đã tin tưởng vào Ngài” (Origen-Jerome, "74 Omelie sul Libro dei Salmi," Milan, 1993, pp. 512-515).
 Đối với Kitô hữu chúng ta, Thiên Chúa, như trong triết lý trước Kitô Giáo, một lý thuyết nhưng cũng là một thực tại, không còn là vị Thiên Chúa “uốn cong các tầng trời xuống và đã đến”. Chính Ngài là trời và đã đến giữa chúng ta. Với lý trí, Origen thấy nơi dụ ngôn con chiên lạc được người mục tử vác trên vai là dụ ngôn về việc Nhập Thể của Thiên Chúa. Nếu, trong việc Nhập Thể, Ngài đã đến và đã mang vác xác thịt chúng ta trên vai của Ngài thì Ngài cũng mang vác chúng ta trên vai Ngài nữa. Như thế, kiến thức về Thiên Chúa trở thành một thực tại, trở thành tình thân hữu, thành mối hiệp thông. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa, vì “Ngài đã uốn tầng trời xuống và đã đến”, đã mang lấy xác thịt của chúng ta trên vai của Ngài và đã dẫn dắt chúng ta trên các nẻo đường của cuộc đời chúng ta.
 Bài thánh vịnh, được mở đầu bằng việc khám phá ra rằng chúng ta yếu hèn và bị mất đi ánh quang thần linh, cuối cùng kết thúc bằng tác động thần linh đầy ngỡ ngàng này: đó là Vị Thiên Chúa Emmanuel ở cùng chúng ta, vị Thiên Chúa đối với Kitô Giáo có một dung nhan yêu thương nơi Đức Giêsu Kitô, Vị Thiên Chúa hóa thân làm người, làm một người trong chúng ta.
 Anh Chị Em thân mến,
 Bài giáo lý hôm nay chú trọng tới bài Thánh Vịnh 143, bài thánh vịnh mặc hình thức của lời Vị Vua nguyện cầu cho chiến thắng và bình an. Nó được mở màn bằng những lời chúc tụng Thiên Chúa, những lời chúc tụng được bày tỏ bằng một kinh cầu liệt kê các tước hiệu cứu độ, nhắc nhở Chúa là thành lũy, là khiên thuẫn và là chốn náu thân.
 Bất kể phẩm vị vương giả của mình, Vị Vua này cảm thấy nỗi yếu hèn và mỏng dòn của mình, và nhìn nhận đời sống của mình “tàn phai như bóng câu”. Trong khiêm cung vua đã ngẫm suy rằng: Lạy Chúa, con người là chi mà Chúa để ý chăm nom? Vấn nạn của vua đã khơi lên đầy giẫy những hình ảnh về việc can thiệp của Thiên Chúa, chứng tỏ cho thấy siêu việt tính của Vị Vua tối cao này của Vũ Trụ đã cứu nhân loại khỏi ngẫu tượng, khỏi tình trạng bại hoại về luân thường đạo lý và khỏi sự dữ.
 Suy tư về bài thánh vịnh này, Origen đã làm cho chúng ta chú trọng tới hạnh phúc cao cả chúng ta được nhờ việc nhận biết Đấng Hóa Công của chúng ta. Thật vậy, chính kiến thức này làm cho chúng ta khác biệt với các tạo vật khác. Thiên Chúa – là Vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta! Chúng ta hãy hân hoan ở đặc ân chúng ta được trong việc nhận biết Chúa và trong việc gặp gợ dung nhan yêu dấu của Ngài!
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 11/1/2006).

Bài 163 – TV 143 (144) (Thứ Tư 25/1/2006)

 HÁT LÊN MỘT BÀI “TÂN CA” DÂNG CHÚA

 (Thánh Vịnh 143 (144): 9-15 cho Kinh Tối Thứ Năm, Tuần Thứ Bốn)

 Anh Chị Em thân mến!
 1. Hôm nay là ngày Kết Thúc Tuần Lễ Nguyện Cầu Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo, trong thời gian này, chúng ta đã suy nghĩ về nhu cầu cần phải liên lỉ kêu xin Chúa ban cho chúng ta đại tặng ân được trọn vẹn hiệp nhất nơi thành phần môn đệ Chúa Kitô. Thật vậy, việc cầu nguyện góp phần quan trọng vào việc làm cho việc dấn thân chung của Chư Giáo Hội và các cộng đồng giáo hội được thành thực hơn và gặt hái được thành quả hơn.
 Trong cuộc gặp gỡ hôm nay, chúng ta lại tiếp tục việc suy niệm bài Thánh Vịnh 143 là bài thánh vịnh được Phụng Vụ Giờ Kinh Chiều đề ra cho chúng ta vào hai dịp khác nhau (x câu 1-8 và 9-15). Cung cách tiếp tục vẫn là cung cách của một bài ca, và trong phần thứ hai của bài thánh vịnh này hiện lên hình ảnh về “Vị Được Xức Dầu”, tức là Vị “Được Thánh Hiến” trên hết là Chúa Giêsu, Đấng thu hút mọi người đến cùng mình, để họ được “hiệp nhất nên một” (x Jn 17:11,21). Không phải ngẫu nhiên mà cảnh tượng nổi bật trong bài ca này có tính cách thịnh vượng và bình an, những biểu hiệu kiểu mẫu cho kỷ nguyên thiên sai cứu độ.
 2. Bởi thế, bài ca này được diễn tả như “mới”, một từ ngữ theo ngôn ngữ Thánh Kinh không phải ám chỉ đến tính cách mới mẻ bề ngoài của chữ nghĩa cho bằng cho thấy cái trọn vẹn hết cỡ niêm ấn niềm hy vọng (x câu 9). Bởi thế, mới có bài ca được cất lên hướng về cái đích điểm của lịch sử, lúc tiếng nói của sự dữ cuối cùng sẽ bị câm nín, một tiếng nói thánh vịnh gia diễn tả là “không thực” và “giả dối’, những diễn tả ám chỉ về ngẫu tượng (x câu 11).
 Thế nhưng, sau khía cạnh tiêu cực này là chiều kích tích cực hơn nhiều, đó là chiều kích của một thế giới mới hân hoan hớn hở gần tiến đến chỗ xác nhận được bản thân mình. Đó là thứ “shalom” đích thực, tức là thứ “bằng an” thiên sai, một chân trời rạng ngời được diễn tả qua một chuỗi hình ảnh về đời sống xã hội, là những gì cũng có thể cho cả chúng ta nữa, niềm hy vọng về cuộc hạ sinh của một xã hội chân chính hơn.
 3. Trước hết hiện lên hình ảnh gia đình (x câu 12), một gia đình được xây dựng trên sinh lực của việc sản sinh. Những người con trai, niềm hy vọng của tương lai, được sánh ví với thanh niên cường tráng; các người con gái được tiêu biểu như những trụ cột vững chắc chi phối sự vững chắc của ngôi nhà, như những cột trụ của đền thờ. Từ đời sống gia đình, người ta tiến tới đời sống kinh tế, tới mảnh đất có hoa trái của nó được cất trong kho lẫm, có những đồng cỏ cho súc vật thả rong, có những con thú được sử dụng để làm việc ở những cánh đồng phi nhiêu (x các câu 13-14a). Thế rồi ánh mắt hướng về thành phố, tức là, hướng về toàn thể cộng đồng dân sự là nơi cuối cùng hoan hưởng tặng ân hòa bình và yên hàn quí giá. Thật vậy, “những lỗ hổng” bị thành phần xâm chiếm làm toác ra ở trên những bức tường thành phố trong cuộc tấn công cuối cùng đã được sửa chữa; những cuộc xâm nhập đã kết thúc, những cuộc xâm nhập gây ra các trận cướp phá và đầy ải, và cuối cùng thì không còn nghe thấy “tiếng kêu gào la thét” của thành phần thất vọng, thành phần thương tích, thành phần nạn nhân, thành phần mồ côi, cả một di sản buồn thảm của chiến tranh (x câu 14b).
 4. Hình ảnh về một thế giới khác nhau nhưng khả dĩ này được trao phó cho công cuộc của Đấng Thiên Sai, cũng như cho công cuộc của dân Người. Tất cả chúng ta cùng nhau, theo sự hướng dẫn của Đấng Thiên Sai là Đức Kitô, cần phải hoạt động cho dự án hòa hợp và hòa bình này, tránh đi hoạt động hủy hoại của hận thù, của bạo lực và của chiến tranh. Tuy nhiên, cần phải đứng về bên của Vị Thiên Chúa yêu thương và công chính.
 Vì lý do này, bài thánh vịnh đe74 kết thúc bằng những lời lẽ như sau “Phúc cho dân tộc được diễm phúc như thế; phúc cho dân tộc có Thiên Chúa là Chúa”. Thiên Chúa là sự thiện trên hết mọi sự thiện, là điều kiện cho tất cả mọi sự thiện hảo khác. Chỉ có con người nào nhìn nhận Thiên Chúa và bênh vực những giá trị thiêng liêng và luân lý mới có thể thực sự dấn thân tìm gặp một nền hòa bình sâu xa và trở thành một lực lượng hòa bình cho thế giới, cho người khác, và bởi đó theo điệu “bài tân ca” của thánh vịnh gia, một bài tân cả đầy tin tưởng và hy vọng. Nó tự nhiên nhắc nhở tới Tân Ước, tới tính cách rất mới mẻ về Chúa Kitô và về Phúc Âm của Người.
 Đó là những gì Thánh Âu Quốc Tinh nhắc nhở chúng ta. Khi đọc bài thánh vịnh này, ngài cũng giải thích câu: “với cây đàn thập huyền tôi sẽ tấu lên cùng Ngài”. Đối với thánh nhân thì cây đàn thập huyền đây là lề luật, được tòm gọn thành Thập Giới. Thế nhưng, chúng ta cần phải tìm thấy cái then chốt chính thích đáng của 10 sợi giây đàn này, của Thập Giới này. Chỉ khi nào 10 sợi giây đàn này, Thập Giới này được gẩy cho rung lên, Thánh Âu Quốc Tinh nói, bằng đức ái của con tim thì chúng mới vang lên hay ho. Đức ái là tất cả lề luật. Người nào sống các Giới Luật này như những chiều kích của một đức ái duy nhất, thì thực sự hát lên “bài tân ca” ấy. Đức ái liên kết chúng ta với những tình cảm của Chúa Kitô thực sự là “bài tân ca” của “con người mới”, cũng có khả năng tác tạo nên “một thế giới mới”. Bài thánh vịnh này mới gọi chúng ta hãy hát lên với “cây đàn thập huyền”, với một tân can mới, hãy hát lên bằng những cảm tình của Chúa Kitô, hãy sống Thập Giới theo chiều kích yêu thương, nhờ đó hãy góp phần vào việc xây dựng hòa bình và hòa hợp của thế giới (cf. "Esposizioni sui Salmi" [Commentaries on the Psalms], 143,16: Nuova Biblioteca Agostiniana," XXVIII, Rome, 1977, pp. 677).
 Anh Chị Em thân mến,
 Hôm nay chúng ta kết thúc Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo, chúng ta hãy nhớ rằng việc chữa lành những chia rẽ nơi Kitô hữu là công việc của Chúa, nó là một tặng ân cần chúng ta liên lỉ nguyện cầu.
 Hôm nay, qua bài thánh vịnh, chúng ta hát lên một bài “tân” ca dâng Chúa. Theo Thánh Kinh thì một bài ca “mới” là bài nói về hòa bình và thịnh vượng, những dấu chỉ về Đấng Thiên Sai, hứa hẹn với chúng ta về việc làm trọn tất cả mọi niềm hy vọng của chúng ta.
 Thánh vịnh gia diễm tả tặng ân hòa bình này, tặng ân “shalom” này, bằng một chuỗi hình ảnh được lấy ra từ đời sống hằng ngày. Ông nói về gia đình. Những người con trai, niềm hy vọng của tương lại, thì giống như những thanh niên cường tráng; những đứa con gái thì giống như những trụ cột duyên dáng, nâng đỡ tòa nhà.
 Đoạn chúng ta nghe đến những hoa trái của lao công con người, những thu hoạch, những con chiên, đàn thú, tất cả đều là tặng ân Chúa ban. Và những bức tường thành không còn bị vạch khoét bởi những binh lính của kẻ thù nữa. Không còn thành phần bị thương tích và mồ côi than khóc ngoài đường phố nữa. Đó là bình an được Đấng Thiên sai mang đến cho.
 Chúng ta có thể cộng tác vào việc xây dựng hòa bình này, nếu chúng ta quyết trung thành với Thiên Chúa. Thánh Âu Quốc Tinh dạy rằng cây thập huyền cầm nghĩa là Bản Thập Giới. Việc hát một bài tânc a, và để chơi cây thập huyền cầm này, nghĩa là việc tuân theo lề luật của Thiên Chúa và loan báo vương quốc hòa bình và hân hoan của Người.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/1/2006).

Bài 164 – TV 144 (145) (Thứ Tư 1/2/2006)

 CHÚA LÀ MỘT ĐỨC VUA YÊU THƯƠNG ĐẦY LÒNG NHÂN ÁI

 (Thánh Vịnh 144 [145]: 1-13 cho Kinh Tối Thứ Sáu, Tuần Thứ Bốn)

 Anh Chị Em thân mến:
 1. Chúng ta đã dâng lời nguyện của bài Thánh Vịnh 144 (145), một bài ca khen hoan hỉ lên Chúa là Đấng được tôn tụng như một đức vua yêu thương êm ái dịu dàng, quan tâm đến tất cả mọi tạo vật của Ngài. Phụng vụ đề bài thánh ca này ra cho chúng ta làm hai lần khác nhau, tương đương với hai chiều hướng về thi ca và linh thiêng của cùng bài thánh vịnh. Giờ đây chúng ta suy niệm phần thứ nhất, bao gồm các các từ 1 đến 13.
 Bài thánh vịnh được dâng lên Chúa là Đấng được kêu cầu và diễn tả như “đức vua” (câu 1), một biệu hiệu thần linh chủ yếu ở các bài thánh vịnh khác (x các Thánh Vịnh 46; 92; 95-98). Còn nữa, tâm điểm thiêng liêng nơi bài thánh ca của chúng ta đây được cấu tạo nên chính bởi việc thiết tha và sốt sắng cử hành tính cách hoàng vương thần linh. Nơi việc cử hành này, bốn lần lập lại – như thể nói đến 4 điểm chính về con người và lịch sử – tiếng Do Thái “malkut”, “vương quốc” (câu 11-13).
 Chúng ta biết rằng những biểu hiệu hoàng vương này, những biểu hiệu sẽ có một tính chất chính yếu nơi việc rao giảng về Chúa Kitô, là tiêu biểu cho dự án cứu độ của Thiên Chúa: Ngài không dửng dưng trước lịch sử loài người; hơn nữa, Ngài muốnthực hiện với và cho chúng ta một dự án hòa hợp và hòa bình. Toàn thể nhân loại cũng được kêu gọi để làm hoàn trọn sự án này trong việc đáp ứng ý muốn cứu độ thần linh, một ý muốn bao gồm tất cả mọi “con người”, “tất cả mọi thế hệ” và “tất cả mọi thế kỷ”. Mộg tác động phổ quát, một tác động nhổ tận gốc rễ sự dữ khỏi thế gian và tôn vương “vinh quang” của Chúa, tức là tôn vương sự hiện diện cá thể, hiệu năng và siêu việt của Ngài.
 2. Ở tâm điểm của bài thánh vịnh này, cái tâm điểm thực sự hiện lên ở trọng tâm của việc sáng tác này, là lời ca ngợi nguyện cầu của thánh vịnh gia, người biến mình trở thành phát ngôn viên của tất cả mọi tín hữu và là người ngày nay cũng là phát ngôn viên cho tất cả chúng ta nữa. Thật vậy, lời cầu nguyện cao cả nhất của thánh kinh là việc ca ngợi các công cuộc cứu độ chứng tỏ tình Chúa yêu thương tạo vật của Ngài. Bài thánh vịnh này tiếp tục tôn tụng “danh hiệu” thần linh, tức là tôn tụng ngôi vị của Ngài (câu 1-2), một ngôi vị tỏ mình ra qua hoạt động lịch sử của Ngài, với những chữ được đề cập tới như “các công cuộc”, “các kỳ công”, “các sự phi thường”, “quyền năng”, “cao cả”, “công lý”, “nhẫn nại”, “tình thương”, “ân sủng”, “thiện hảo” và “dịu dàng”.
 Đây là một loại cầu nguyện theo hình thức của một bài kinh cầu công bố việc Thiên Chúa nhập cuộc với những thăng trầm của con người để dẫn toàn thể thực tại tạo vật đến tình trạng trọn vẹn cứu độ. Chúng ta không bị bỏ mặc cho các quyền lực tăm tối, hay bỏ mặc cho tự do của chúng ta, song chúng ta được trao phó cho hoạt động của vị Chúa uy quyền và yêu thương, Đấng sẽ thiết lập cho chúng ta một dự án, một “triều đại” (câu 11).
 3. “Triều đại” này không phải ở chỗ quyền lực hay thống trị, vinh thắng hay áp chế, như thường xẩy ra, bất hạnh thay, nơi các vương quốc trần gian, mà là ngai tòa của một thể hiện những gì là thương yêu, dịu dàng, thiện hảo, ân sủng, công lý, như được xác định một số lần nơi các câu bao gồm việc ngợi khen.
 Cái tổng hợp về hình ảnh thần linh này là ở câu 8: Chúa “chậm bất bình và giầu tình yêu thương bền vững”. Chúng là những chữ nhặc lại việc Thiên Chúa tỏ mình ra ở Sinai, nơi Ngài phán: “Chúa, Chúa, một Thiên Chúa nhân hậu và khoan dung, chậm giận dữ và giầu tình yêu thương bền vững và thủy chung” (Ex 34:6). Ở đây chúng ta thấy được chiều hướng tuyên xưng niềm tin tưởng vào Thiên Chúa của Thánh Gioan Tông Đồ choc ho chúng thấy một cách đơn giản Ngài là tình yêu: “Deus caritas est” (x 1Jn 4:8,16).
 4. Ngoài việc suy niệm về những lời lẽ tuyệt vời này, những chữ cho chúng ta thấy một Vị Thiên Chúa “chậm bất bình và giầu tình yêu thương kiên vững”, lúc nào cũng sẵn sàng thứ tha và cứu giúp, chúng ta hướng tới câu thứ 9 rất tuyệt vời: “Chúa là Đấng nhân lành với tất cả mọi sự, cảm thương hết mọi tạo vật”. Một lời lẽ cần phải suy niệm, một lời lẽ ủi an, một niềm xác tín giúp cho cuộc sống của chúng ta. Về vấn đề này, Thánh Phêrô Chrysologus (sinh khoảng năm 380 và chết khoảng năm 450), đã diễn tả bằng những lời này trong văn kiện “Bàn Lần Thứ Hai về Việc Chay Tịnh”: “’Công cuộc của Chúa thì cao cả’: Thế nhưng, cái cao cả chúng ta thấy đây ở nơi cái cao cả của Việc Tạo Thành, quyền năng này bị trổi vượt hơn bởi cái cao cả của tình yêu thương. Thật vậy, vị tiên tri đã nói: ‘Công cuộc của Thiên Chúa thì cao cả’, rồi thêm ở một câu khác: ‘Tình thương của Ngài còn lớn lao hơn tất cả các công cuộc của Ngài’. Anh chị em thân mến, tình thương tràn đầy các tầng trời, tràn đầy mặt đất. Bởi thế, tình thương cao cả, bao dung và đặc thù của Chúa Kitô, một tình thương giữ tất cả mọi phán quyết chỉ cho một ngày duy nhất, được ấn định cho tất cả mọi thời gian của con người trong việc thỏa hiệp ăn năn thống hối. Bởi vậy, vị tiên tri này, vị không tin tưởng vào chính công lý, đã hoàn toàn tin tưởng vào tình thương: ‘Tình thương, ôi Chúa Trời con, bằng sự thiện hảo của mình, bằng chính lòng cảm thương của mình, xin hãy tẩy xóa việc con vấp phạm’ (Ps 50:3)’” (42,4-5: "Sermoni 1-62 bis," "Scrittori dell'Area Santambrosiana," 1, Milan-Rome, 1996, pp. 299, 301). Bởi thế chúng ta cũng thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Chúa Trời con, xin hãy xót thương con, vì tình thương của Ngài cao cả”.
 Anh Chị Em thân mến,
 Việc suy niệm của chúng ta hôm nay về bài Thánh Vịnh 144, bài thánh vịnh cho thấy Chúa là một Đức Vua yêu thương đầy lòng cảm xót. Tâm điểm thiêng liêng của bài nguyện cầu này là việc thiết tha cảm kích chúc tụng sự uy nghi cao cả của Thiên Chúa.
 Thật vậy, cái biểu hiệu cho hoàng vương là biểu hiệu cho dự án cứu độ của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người: Chẳng những không dửng dưng trước loài người, Ngài còn muốn thiết lập trên thế gian này một vương quốc hòa hợp và hòa bình, và để thực hiện mụa đích ấy, Thiên Chúa đã nhập cuộc với lịch sử của chúng ta qua các công việc tuyệt vời và những việc làm quyền năng.
 Không như các vương quốc thế tục là những vương quốc thường có tính cách quyền uy hay thậm chí áp bức, bài thánh vịnh này cho thấy một triều đại êm ái dịu dàng, ân sủng và công chính. Thật vậy, Đức Vua này “chậm bất bình và đầy yêu thương”.
 Thánh Phêrô Chrysologus nhận định rằng, tình thương của Chúa còn cao cả hơn các việc làm của Chúa nữa. Hôm nay chúng ta cũng hãy cất tiếng chúc tụng lòng Thiên Chúa nhân ái, xót thương và chăm sóc cho tất cả nhân loại! 
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 1/2/2006)

Bài 165 – TV 144 (145) 9Thứ Tư 8/2/2006)

 THIÊN CHÚA GẦN GŨI TẤT CẢ NHỮNG AI KÊU CẦU NGÀI

 (Thánh Vịnh 144 [145]: 14-21 cho Kinh Tối Thứ Sáu, Tuần Thứ Bốn)

 1. Theo phụng vụ, bài Thánh Vịnh 144 (145) được chia làm hai phần, chúng ta lại suy niệm về bài thánh vịnh này, một bài thánh ca tuyệt vời để tôn vinh Chúa, một đức vua cảm thương chuyên tâm tới các tạo vật của mình. Giờ đây chúng ta muốn suy niệm phần thứ hai, từ câu 14 đến 21, tiếp tục lại đề tài chính yếu nơi phần đầu của bái thánh ca đây.
 Phần thứ hai này tôn tụng tình thương thần linh, niềm êm ái, sự trung thành và đức thiện hảo là những gì bao trùm toàn thể nhân loại, bao gồm hết mọi tạo vật. Bấy giờ thánh vịnh gia chú trọng tới tình yêu Thiên Chúa giành riêng cho người nghèo và người yếu kém. Bởi vậy, tính cách vương giả thần linh không phải là những gì dửng dưng hay kiêu kỳ, như có những lúc xẩy ra nơi quyền lực con người. Thiên Chúa bày tỏ vai trò hoàng vương của mình ra bằng cách cúi mình xuống với những thụ tạo mỏng dòn nhất và bất lực nhất.
 2. Thật vậy, trước hết, ngài là một Người Cha “nâng dậy tất cả những ai sa ngã” và kiên cường những ai đã ngã xuống cát bụi đê hèn (câu 14). Bởi thế, những sinh vật là thành phần hướng về Chúa như là những kẻ ăn xin đói khát và, như một Người Cha quan tâm, ban cho họ lương thực họ cần sống (câu 15).
 Vậy, từ môi miệng của thánh vịnh gia phát ra lời tuyên xưng niềm tin vào hai đệ nhất phẩm tính thần linh là công minh và thánh hảo. “Lạy Chúa, Chúa công minh trong mọi đường lối của Chúa, trung thành trong mọi công việc Chúa làm” (câu 17). Theo tiếng Do Thái, chúng ta thấy có hai tĩnh từ thông dụng để diễn tả Giao Ước giữa Thiên Chúa và Dân Ngài, đó là “saddiq” và “hasid”. Chúng là những tĩnh từ diễn tả đức công minh, một đức công minh cứu khỏi sự dữ và giải thoát khỏi sự dữ, và lòng trung tín là dấu hiệu cho thấy tình yêu thương cao cả của Chúa.
 3. Thánh vịnh gia đặt mình về bên phía thành phần được hưởng phúc lợi mà ông diễn tả bằng những bày tỏ khác nhau; chúng là những từ ngữ, trên thực tế, được sử dụng để làm tiêu biểu cho thành phần tín hữu đích thực. Chữ thứ hai “kêu cầu” Chúa bằng việc tin tưởng nguyện cầu, tìm kiếm Ngài nơi sự sống “trong chân lý” (câu 18), kính sợ Thiên Chúa, tôn trọng ý muốn của Ngài và tuân giữ Lời của Ngài (câu 19), thế nhưng, trên hết là “mến yêu” Ngài, tin tưởng rằng họ sẽ được tiếp nhận dưới áo choàng bao che và thân tình của Ngài (câu 20).
 Bởi thế mà lời cuối cùng của thánh vịnh gia cũng là lời ông mỏ đầu bài thánh vịnh này: Nó là lời mời gọi hãy ca ngợi và chúc tụng Chúa và danh thánh của Ngài, tức là ca ngợi và chúc tụng ngôi vị sống động và thánh hảo là ngôi vị hoạt động và cứu độ trên thế giới và trong lịch sử. Ngoài ra, nó còn là một lời kêu gọi tất cả mọi tạo vật, thành phần đã lãnh nhận tặng ân sự sống, hãy liên kết mình với lời nguyện cầu chúc tụng này: “Tất cả mọi xác phàm hãy chúc tụng danh Chúa đến muôn đời”. Nó là một loại thánh ca bất tử cần phải được từ đất dâng lên trời cao; nó là việc cùng ngợi khen tình yêu phổ cập của Thiên Chúa là nguồn mạch an bình, hoan hỉ và cứu độ.
 4. Để kết thúc bài suy niệm của chúng ta đây, chúng ta hãy suy niệm một lần nữa về câu thánh vịnh êm ái dịu dàng là: “Lạy Chúa, Chúa gần gũi với tất cả những ai kêu cầu Chúa, với tất cả những ai kêu cầu Chúa trong sự thật” (câu 18). Nó là một thành ngữ đặc biệt được yêu chuộng bởi Barsanufius ở Gaza, một vị khổ tu chết vào giữa thế kỷ thứ 6, vị được các đan sĩ, viên chức Giáo Hội và giáo dân tới tham vấn vì sự khôn ngoan sáng suốt của ngài.
 Chẳng hạn, để trả lời cho một người môn đệ muốn khám phá ra “những nguyên nhân của các chước cám dỗ khác nhau đã tấn công mình”, vị khổ tu Barsanufius đáp rằng: “Gioan ơi, đừng sợ những chước cám dỗ nổi lên chống lại con để thử thách con, đừng nhất định cố gắng hiểu nó ra sao; trái lại, hãy kêu danh thánh Chúa Giêsu: ‘Ôi Giêsu, xin cứu giúp con’. Và Người sẽ nghe lời con, vì ‘Chúa gần gũi với tất cả những ai kêu cầu Người’. Đừng thất đảm, hãy hăng hái chạy và con sẽ đạt tới đích điểm của con trong Chúa Kitô là Đức Giêsu Chúa chúng ta” (Barsanufius and John of Gaza, "Epistolario," 39: "Collana di Testi Patristici," XCIII, Rome, 1991, p. 109).
 Những lời lẽ ấy của Vị Tổ Phụ xưa cũng hợp với chúng ta nữa. Trong các sự khó khăn, các chước cám dỗ, chúng ta không được chỉ thực hiện việc suy niệm về lý thuyết mà thôi – là chỗ phải chăng phát xuất ra những suy niệm ấy? – thế nhưng cần phải phản ứng một cách tích cực, khi kêu cầu Chúa, bảo tồn việc giao tiếp sống động với Chúa. Ngoài ra, chúng ta cần phải kêu tên Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, xin cứu giúp con!”. Để rồi chúng ta tin tưởng rằng Người đang lắng nghe chúng ta, vì Người ở gần những ai tìm kiếm Người. Chúng ta đừng nản lòng; trái lại, chúng ta hãy hăng say chạy – như vị Giáo Phụ này nói – và chúng ta cũng sẽ đạt tới sự sống là Chúa Giêsu.
 Anh Chị Em thân mến,
 Bài suy niệm hôm nay của chúng ta trở lại với Thánh Vịnh 144, một bài thánh ca tuyệt vời để tôn vinh Chúa, vị vua yêu thương, Đấng từ tâm, êm ái dịu dàng, trung thành và ôm ấp tất cả mọi tạo vật trong sự thiện hảo của Ngài. Thánh vịnh gia nhấn mạnh rằng tình yêu thương của Chúa không bao giờ rời xa và là những gì cao cả nhưng đặc biệt giành cho thành phần yếu kém và nghèo khổ. Thiên Chúa là một người Cha bày tỏ bản tính vương giả của mình ta bằng cách cúi mình xuống bảo vệ bao che những ai mỏng dòn và bất lực.

“Chúa công minh nơi tất cả mọi đường lối của Ngài và yêu thương nơi tất cả mọi việc làm của Ngài”. Người tín hữu đích thực là người kêu cầu Chúa bằng việc sốt sắng nguyện cầu, tìm kiếm Ngài bằng một tấm lòng chân thành, kính sợ Ngài, và nhất là kính mến Ngài.
 Để kết luận, chúng ta hãy ngẫm nghĩ lời khuyên của vị khổ tu Barsanufius ở Gaza, người khuyến khích tất cả chúng ta hãy kêu cầu sự trợ giúp của Chúa Giêsu trong những lúc bị cám dỗ. Thật thế, “Chúa gần gũi với tất cả những ai kêu cầu Ngài, những người kêu cầu Ngài bằng tấm lòng của họ”.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 8/2/2006).

Bài 166 – Ca vịnh Magnificat (Thứ Tư 15/2/2006)

 LINH HỒN TÔI NGỢI KEN CHÚA

 (Ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat cho Kinh Tối Thứ Sáu, Tuần Thứ Bốn)

 Anh Chị Em thân mến:
 1. Chúng ta đã tiến đến tận điệm của cuộc hành trình dài được bắt đầu đúng 5 năm trước đây bởi vị tiền nhiệm yêu dấu của tôi là Đức Giáo Hoàng đáng nhớ Gioan Phaolô II. Trong các buổi giáo lý này, vị Đại Giáo Hoàng này muốn duyệt qua toàn bộ Thánh Vịnh và ca vịnh làm nên cấu trúc cho việc cầu nguyện chính yếu của Phụng Vụ Giờ Kinh Tối. Khi tiến tới chỗ kết thúc cuộc hành trình rảo qua các bài Thánh Kinh ấy, như một cuộc hành trình băng qua một ngôi vườn đầy những cánh hoa chú ctụng, kêu van, nguyện cầu và chiêm niệm, giờ đây chúng ta hãy giành chỗ cho bài ca vịnh niêm ấn tất cả việc cử hành Giờ Kinh Tối, đó là bài ca vịnh Ngợi Khen – Magnificat (Lk 1:46-55).
 Đây là một bài ca vịnh cho thấy linh đạo “anawim” của Thánh Kinh, tức là linh đạo của những tín hữu nhìn nhận mình là “nghèo hèn”, chẳng những vì họ không dính dáng với tất cả những thứ ngẫu tượng giầu sang và quyền lực, mà còn vì họ hết sức khiêm hạ trong lòng nữa, không chiều theo xu hướng kiêu kỳ, mở lòng mình ra có ơn cứu độ thần linh. Toàn thể bài ca vịnh Ngợi Khen, chúng ta vừa nghe Ca Đoàn của Nguyện Đường Sistine trình bày, có đặc điểm ở “lòng khiêm hạ” này, theo tiếng Hy Lạp là “tapeinosis”, một từ ngữ ám chỉ một tình trạng khiêm hạ và nghèo hèn cụ thể.
 2. Tác động thứ nhất của bài ca vịnh Thánh Mẫu này diễn ra như thể một đơn ca viên độc xướng cất tiếng lên Chúa trên trời cao. Thật vậy, d8iều này được sáng tỏ ở việc liên tục sử dụng ngôi thứ nhất: “Linh hồn tôi…, thấn trí tôi…, Đấng Cứu Độ tôi…, sẽ chúc tụng tôi diễm phúc…, đã làm cho tôi những điều cao cả…”. Bởi thế, linh hồn của lời nguyện cầu này là việc cử hành ân sủng thần linh được ban cho tâm can và cuộc đời của Mẹ Maria, biến Mẹ trở thành Mẹ của Chúa Kitô. Chúng ta thực sự nghe thấy tiếng của Vị Trinh Nữ này nói về Đấng Cứu Độ Mẹ như thế, Đấng đã làm nơi hồn xác Mẹ những điều cao trọng.
 Cấu trúc sâu xa nơi bài ca vịnh nguyện cầu này của Mẹ đó là lời ngợi khen chúc tụng, tri ân cảm tạ, hân hoan biết ơn. Thế nhưng, việc chứng từ cá nhân này không phải là những gì lẻ loi và tư riêng, hoàn toàn cá nhân, vì Trinh Nữ Maria ý thức rằng Mẹ có một sứ vụ cần phải thực hiện cho nhân loại, và cuộc sống của Mẹ được gắn liền với lịch sử cứu độ. Bởi thế Mẹ mới nói: “Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia đối với những ai kính sợ Ngài” (câu 50). Bằng lời ca ngợi Chúa này, Vị Trinh Nữ lên tiếng thay cho tất cả mọi tạo vật được cứu chuộc sau tiếng “Xin Vâng” của Mẹ, thành phần được Thiên Chúa xót thương qua hình ảnh của Chúa Giêsu do Vị Trinh Nữ này hạ sinh.
 3. Tới đây là phần diễn tiến thứ hai về thi ca và linh thiêng của bài Magnificat (câu 51-55). Phần này có giọng điệu của một ca đoàn, như thể tiếng của Mẹ Maria hợp với tiếng của cộng đồng tín hữu ca ngợi những quyết định lạ lùng của Thiên Chúa. Theo nguyên ngữ Hy Lạp của Phúc Âm Thánh Luca, chúng ta thấy 7 động từ ở thể bất định, nói lên nhiều tác động khác nhau được Chúa thực hiện thường xuyên trong lịch sử, đó là “Ngài đã ra tay uy quyền…, Ngài đã đánh tan kẻ kiêu ngạo…, Ngài đã hạ bệ những kẻ quyền uy thế lực…., nâng lên những kẻ hèn kém…., Ngài đã cho người đói khổ no đầy những điều tốt đẹp…, còn kẻ giầu sang Ngài để về không…., Ngài đã trợ giúp Yến Duyên là tôi tớ của Ngài”.
 Rõ ràng là nơi bảy việc làm của Thiên Chúa đây là “kiểu cách” được vị Chủ Tể lịch sử tỏ ra qua tác hành của Ngài, ở chỗ, Ngài đặt mình về phía kẻ thấp hèn nhất, dự án của Ngài được dấu ẩn dưới những gì mờ tối nơi những cuộc thăng trầm của con người, những cuộc thăng trầm cho thấy thành phần “kiêu hãnh”, “quyền lực” và “giầu sang” là những kẻ thắng thế. Tuy nhiên, cuối cùng, sức mạnh âm thầm của Ngài sẽ đi tới chỗ tỏ ra cho thấy ai là những người được Thiên Chúa ưu chuộng, đó là thành phần “trung tín” với Lời của Ngài, “thành phần khiêm hạ”, thành phần đói khát”, “thành phần Yến Duyên tôi tớ của Ngài”, tức là cộng đồng Dân Chúa được cấu tạo bởi những, ai như Mẹ Maria, ‘nghèo khó”, tinh tuyền và có tâm hồn đơn sơ chân thành. Cộng đồng này là “đàn nhỏ” được Chúa Giêsu kêu gọi đừng sợ, vì Chúa Cha đã muốn ban cho nó vương quốc của Ngài (x Lk 12:32). Như thế, bài ca vịnh đây mời gọi chúng ta hãy liên kết mình với đàn nhỏ này, thực sự trở thành những phần tử của Dân Chúa trong tinh tuyền và có một tâm can đơn thành, trong tình yêu Thiên Chúa.
 4. Vậy chúng ta hãy chấp nhận lời mời gọi Thánh Ambrôsiô ngỏ cùng chúng ta trong bài dẫn giải về ca vịnh Magnificat này. Vị đại tiến sĩ này của Giáo Hội khuyên dụ rằng: “Chớ gì Mẹ Maria chúc tụng Chúa nơi tâm hồn của mỗi người, chớ gì tâm thần của Mẹ hân hoan trong Chúa nơi mỗi người; nếu, theo xác thịt, Chúa Kitô chỉ có một người mẹ duy nhất, thì theo đức tin tất cả mọi linh hồn đều hạ sinh Chúa Kitô; thật vậy, mỗi người nhận lãnh nơi chính bản thân mình Lời Chúa… Linh hồn của Mẹ Maria chúc tụng Chúa và thần trí của Mẹ hân hoan trong Thiên Chúa, vì tận hiến với cả linh hồn và tâm thần của mình cho Chúa Cha và Chúa Con, Mẹ thiết tha tôn thờ Thiên Chúa duy nhất là Đấng mọi sự được xuất phát, cũng như tôn thờ một Chúa duy nhất là Đấng nhờ Người mà mọi sự được hiện hữu” ("Esposizione del Vangelo Secondo Luca," 2,26-27: Saemo, XI, Milan-Rome, 1978, p. 169).
 Trong lời dẫn giải tuyệt vời này của Thánh Amrôsiô về bài ca vịnh Magnificat, tôi luôn cảm kích trước lời lạ lùng này: “Nếu, theo xác thịt, Chúa Kitô chỉ có một người mẹ duy nhất, thì theo đức tin tất cả mọi linh hồn đều hạ sinh Chúa Kitô; thật vậy, mỗi người nhận lãnh nơi chính bản thân mình Lời Chúa”. Như thế, vị tiến sĩ thánh thiện này, khi giải thích những lời lẻ của chính Mẹ Maria, kêu gọi chúng ta hãy cống hiến cho Chúa một chỗ cư ngụ trong linh hồn của chúng ta cũng như trong đời sống của chúng ta. Chúng ta chẳng những phải cưu mang Người trong lòng của mình, mà còn phải mang Người vào thế giới nữa, nhờ đó cả chúng ta nữa cũng sinh ra Chúa Kitô cho thời đại của chúng ta đây. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta biết chúc tụng Người bằng tâm thần và linh hồn của Mẹ Maria, và biết mang Chúa Kitô đến cho thế giới một lần nữa.
 (Bao giờ cuối cùng Đức Thánh Cha cũng tóm gọn bài giáo lý bằng tiếng Ý bằng tiếng Anh như sau:)
 Anh Chị Em thân mến,
 Hôm nay chúng ta kết thúc loạt bài suy niệm được bắt đầu bởi vị tiền nhiệm yêu dấu của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về các bài Thánh Vịnh và ca vịnh của Phụng Vụ Giờ Kinh.
 Chúng ta làm điều này bằng việc suy niệm bài Magnificat là bài tôn vinh thành phần nghèo khó trong theo Thánh Kinh, đó là thành phần “anawim”, những người sống hết sức khiêm nhượng trong lòng và mở lòng mình ra trước ơn cứu độ của Thiên Chúa. Họ là thành phần không kiêu hãnh và không tham muốn những gì là cao cả của con người.
 Phần thứ nhất của bài ca vịnh này cho thấy Mẹ Maria hân hoan trong ân sủng đã được ban cho tâm hồn và đời sống của Mẹ. Mẹ làm điều này một cách riêng tư, song cũng ý thức được sứ vụ của Mẹ đối với toàn thể nhân loại.
 Phần thứ hai hòa hợp những lời lẽ của Mẹ với toàn thể lịch sử của tín hữu. Họ ca ngợi những quyết định lạ lùng của Thiên Chúa là Đấng “dẹp tan lòng trí kiêu căng”… “hạ bệ thành phần quyền hành thế lực”… “cho kẻ đói khó no đầy những điều thiện hảo”.
 Chúng ta hãy kết thúc bằng việc liên kết mình với lời mời gọi của Thánh Ambrôsiô cả: “Chớ gì Mẹ Maria chúc tụng Chúa nơi tâm hồn của mỗi người, chớ gì tâm thần của Mẹ hân hoan trong Chúa nơi mỗi người”.
 (Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 15/2/2006).

--- HẾT ---