LƯU Ý

Đây là những văn bản Huấn quyền của Giáo Hội mà anthanhlinhgiang đã thu thập được trong nhiều năm và từ nhiều nguồn khác nhau - có thể từ internet hoặc có thể từ những người thiện chí gửi đến. Vì thế có những văn bản không rõ nguồn được lấy từ đâu hoặc có thể không có tính chính xác trong khi dịch thuật hoặc đã bị chỉnh sửa. Vì vậy trong quá trình sử dụng, bạn nào thấy có điều bất trắc, xin vui lòng báo lại để anthanhlinhgiang điều chỉnh hoặc gỡ bỏ.

Những văn bản có nguồn gốc thì anthanhlinhgiang sẽ ghi rõ ràng để các bạn yên tâm.

Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

ĐTC Gioan Phaolô II - Thư Gởi Các Linh Mục Nhân Ngày Thứ Năm Tuần Thánh Năm 2000



ĐTC GIOAN PHAOLÔ II
THƯ GỞI CÁC LINH MỤC
NHÂN NGÀY THỨ NĂM TUẦN THÁNH NĂM 2000

Anh em linh mục thân mến!
1. Đức Giêsu “yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Tại thành Giêrusalem này, nơi mà theo truyền thống, Đức Giêsu và nhóm Mười Hai đã cử hành Lễ Vượt Qua và thiết lập bí tích Thánh Thể, tôi thực sự xúc động mỗi lần đọc lại những những lời mà thánh sử Gioan tường thuật Bữa Tiệc ly.
Tôi tạ ơn Chúa vì Người ban cho tôi, trong Năm Thánh này mừng biến cố Nhập Thể của Con Thiên Chúa, được lần theo vết chân trần thế của Đức Kitô, bằng cách bước trên những con đường mà Người đã đi kể từ khi Người sinh ra tại Bêlem cho đến khi chết trên đồi Gôngôtha. Hôm qua tôi đã ở Bêlem, tại hang Chúa Giáng Sinh. Trong những ngày sắp tới, tôi sẽ thăm viếng những nơi chốn khác nhau gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Đấng Cứu Thế, từ nhà Truyền Tin cho đến núi các Mối Phúc và Vườn Cây Dầu. Cuối cùng vào ngày Chúa nhật tôi sẽ đến đồi Gôngotha và Mộ Thánh.
Hôm nay, cuộc thăm viếng Phòng Tiệc ly này cho tôi một cơ hội để có một cái nhìn toàn diện về mầu nhiệm Cứu Chuộc. Đây chính là nơi mà Đức Kitô đã ban cho chúng ta món quà to lớn là bí tích Thánh Thể. Đây cũng chính là nơi mà chức linh mục của chúng ta được sinh ra.
Một bức thư từ Phòng Tiệc ly
2. Từ Phòng Tiệc ly, tôi muốn gởi lá thư này đến cho anh em như tôi đã làm cách đây hơn hai mươi năm vào mỗi dịp Thứ Năm Tuần Thánh, ngày của bí tích Thánh Thể và ngày của “chúng ta” ở mức độ cao nhất.
Quả vậy tôi đang viết cho anh em từ Phòng Tiệc ly, nghĩ lại tất cả những gì đã diễn ra bên trong những bức tường này, vào đêm tràn ngập mầu nhiệm. Với con mắt thiêng liêng, tôi nhìn thấy Đức Giêsu và các thánh Tông Đồ đang ngồi bàn tiệc với Người. Tôi nghĩ về Phêrô cách đặc biệt: dường như là tôi có thể nhìn thấy ngài, cùng với các tông đồ khác, đang ngạc nhiên nhìn những hành động của Chúa, lắng nghe những lời của Người với niềm cảm xúc sâu xa và, với tất cả gánh nặng là sự yếu đuối của mình, đang mở lòng đón nhận mầu nhiệm được công bố ở đây và sớm được hoàn tất. Đây là những giờ phút của trận chiến quyết liệt giữa tình yêu ban tặng trọn vẹn chính mình với mầu nhiệm của sự gian ác đang bị cầm giữ trong sự thù hận. Sự phản bội của Giuđa xuất hiện đây như một biểu tượng cho tội lỗi của con người. “Đó là đêm tối”, dưới cái nhìn của Thánh sử Gioan (Ga 13,30): giờ của bóng tối, giờ của chia ly và nỗi buồn vô tận. Tuy vậy, trong những lời đầy xúc động của Đức Kitô, ánh bình minh đã chiếu sáng: “Thầy sẽ gặp lại anh em và lòng anh em sẽ vui mừng, và niềm vui của anh em không ai lấy mất được (Ga 16,22).
3. Chúng ta phải không ngừng chiêm ngưỡng lại mầu nhiệm của đêm ấy. Chúng ta phải thường xuyên hướng tâm trí về Phòng Tiệc ly này, nơi mà chúng ta, những linh mục, có thể cảm nhận một cách đặc biệt “như ở nhà mình” theo một nghĩa nào đó. Những gì vịnh gia nói về các dân tộc trong mối tương quan với Giêrusalem cũng có thể nói về chúng ta trong mối tương quan với Phòng Tiệc ly: “Chúa ghi vào sổ bộ các dân: kẻ này người nọ đều sinh ra tại đó” (Tv 86,6).
Trong căn phòng thánh thiện này, tôi thấy mình đang tự nhiên hình dung ra anh em ở khắp mọi miền trên thế giới, với vô vàn khuôn mặt, một số người trẻ hơn, một số người có tuổi, với tất cả các tâm trạng khác nhau mà anh em đang cảm nghiệm: đối với nhiều người, cám ơn Chúa, đó là niềm vui và phấn khởi, đối với những người khác có lẽ là đau khổ, mệt mỏi hoặc thất vọng. Trong tất cả anh em, tôi tôn vinh hình ảnh Đức Kitô mà anh em đã nhận lãnh khi được hiến thánh, “ấn tín” không thể tẩy xoá được ở trên mỗi một anh em. Đây là một dấu chỉ về tình yêu đặc biệt mà mỗi linh mục đã được nhận biết và có thể luôn cậy dựa vào đó để tiến bước trong niềm vui hoặc làm một khởi đầu mới với sự hăng say đã được canh tân, trong niềm hy vọng về một sự trung thành luôn mãi lớn hơn.
Được sinh ra cho tình yêu
4. “Đức Giêsu vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng”. Khác với các Tin mừng Nhất Lãm, Tin mừng Thánh Gioan không tường thuật việc thiết lập bí tích Thánh Thể, bí tích này đã được Đức Giêsu nói trong diễn từ tại Caphanaum (x. Ga 6,26-65); thay vào đó, dừng lại ở biến cố rửa chân. Còn hơn là một tấm gương khiêm nhường để chúng ta noi theo, hành động này của Đức Giêsu, gây bối rối cho Phêrô, là một mặc khải về tính cách triệt để của việc Thiên Chúa hạ mình đối với chúng ta. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã “trút bỏ chính mình”, và mang lấy “thân nô lệ” cho đến hạ mình tột độ nhất trên Thập Giá (x. Pl 2,7), để nhân loại có thể tiến vào cõi sâu thẳm là sự sống đích thực của Thiên Chúa. Những bài diễn từ quan trọng trong Tin mừng thánh Gioan tiếp theo biến cố rửa chân và một cách nào đó diễn giải việc ấy, được trình bày như là dẫn nhập về mầu nhiệm hiệp thông của Ba Ngôi mà Chúa Cha mời gọi chúng ta sống, bằng cách tháp nhập chúng ta vào Đức Kitô nhờ ân huệ của Thánh Thần.
Sự hiệp thông này phải được sống bằng cách tuân giữ điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Không phải ngẫu nhiên mà lời nguyện hiến tế là cao điểm của “thần bí” này, vì nó tỏ lộ cho chúng ta Đức Kitô trong sự hiệp nhất với Chúa Cha, sẵn sàng trở về với Cha qua sự hiến tế chính mình, và chỉ muốn rằng các môn đệ biết thông phần vào sự hiệp nhất của Người với Chúa Cha: “Như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17, 21).
5. Khởi từ nhóm nhỏ các môn đệ nghe các lời này, toàn thể Hội thánh được hình thành, bằng cách lớn lên qua thời gian và không gian như “một dân tộc được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần” (Thánh Cyprianô, De Orat. Dom., 23). Sự hiệp nhất sâu xa của dân tộc mới này không có nghĩa là không có những nhiệm vụ khác nhau và bổ túc cho nhau trong đời sống. Như thế những người có nhiệm vụ nhân danh Đức Kitô làm lại cử chỉ mà Đức Giêsu đã làm trong Bữa Tiệc Ly khi Người thiết lập Hi Tế Thánh Thể, “nguồn gốc và đỉnh cao của toàn bộ đời sống Kitô hữu” (Lumen Gentium, 11), được nối kết cách đặc biệt với các Tông Đồ tiên khởi. Tính bí tích làm cho họ khác biệt do việc nhận lãnh Chức thánh, bảo đảm rằng sự hiện diện và sứ vụ của họ là duy nhất, không thể thiếu và không thể thay thế được.
Gần hai ngàn năm đã trôi qua kể từ lúc ấy. Biết bao nhiêu linh mục đã lập lại điều Đức Giêsu đã làm! Thường họ là những môn đệ, những vị thánh, những vị tử đạo gương mẫu. Làm sao chúng ta có thể quên, trong Năm Thánh này, nhiều linh mục đã làm chứng cho Đức Kitô bằng cuộc sống của họ, thậm chí đến đổ máu đào? Việc tử đạo của họ đã đồng hành với toàn bộ lịch sử của Giáo hội; nó cũng đã đánh dấu thế kỷ vừa qua, một thế kỷ với đặc điểm là có nhiều chế độ độc tài khác nhau và chống đối Giáo hội. Từ Phòng Tiệc ly, tôi muốn cảm tạ Chúa vì lòng can đảm của những linh mục này. Chúng ta hãy hướng nhìn về họ và noi theo họ bước theo vết chân của Người Mục Tử Nhân Lành, “Đấng hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11).
Kho tàng đựng trong những chiếc bình sành
6. Quả thật là trong lịch sử chức linh mục cũng như trong lịch sử của toàn thể Dân Chúa, người ta đều nhận thấy sự hiện diện tăm tối của tội lỗi. Nhiều lần, sự yếu hèn của con người linh mục đã che khuất khuôn mặt Đức Kitô trong con người họ. Tại Phòng Tiệc ly đây, tại sao điều đó lại làm ta ngỡ ngàng? Ở đây không chỉ sự phản bội của Giuđa đạt đến cao điểm, nhưng chính Phêrô phải đối diện với yếu đuối của mình khi nghe lời tiên báo chua xót về sự khước từ của ông. Khi chọn những con người giống như nhóm Mười hai, quả thực Đức Kitô không có ảo tưởng: chính trên sự yếu đuối này của con người mà Người đã đóng ấn bí tích sự hiện diện của Người. Thánh Phaolô tỏ cho chúng ta biết lý do: “Những kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2Cr 4,7).
Vì thế, dù tình trạng yếu đuối của các linh mục, Dân Thiên Chúa không ngừng đặt niềm tin vào quyền năng của Đức Kitô đang hoạt động qua thừa tác vụ của họ. Làm sao ta quên không nhắc lại đây chứng tá rạng ngời của thánh Phanxicô Assisi? Vì lòng khiêm hạ, ngài không muốn trở nên linh mục, nhưng trong Di chúc, ngài diễn tả niềm tin vào mầu nhiệm Đức Kitô hiện diện trong các linh mục, khi tuyên bố rằng ngài vẫn chạy đến với các linh mục dầu họ có bách hại ngài, mà không xét đến tội lỗi của họ. Ngài diễn giải: “Tôi hành động như thế vì tôi không thấy có gì cụ thể trong thế gian này về Người con tối cao của Thiên Chúa, ngoài Mình và Máu rất thánh của Người, mà chính các ngài nhận lấy và chỉ các ngài mới được ban phát cho kẻ khác” (Các Nguồn tài liệu phan sinh, số 113).
7. Từ nơi này, nơi mà Đức Kitô đã nói những lời thiết lập bí tích Thánh Thể, tôi mời gọi anh em, hỡi các linh mục thân mến, anh em hãy tái khám phá “quà tặng” và “mầu nhiệm” mà chúng ta đã lãnh nhận. Để đi vào tâm điểm của nó, chúng ta phải suy niệm chức vụ tư tế của Đức Kitô. Thật thế, toàn thể Dân Chúa tham dự vào chức tư tế nhờ Phép Rửa. Nhưng Công Đồng Vaticanô II nhắc nhở chúng ta rằng, thêm vào việc tham dự riêng của mọi người đã chịu phép rửa, còn có một sự tham dự đặc biệt, có tính cách thừa tác, dầu được liên kết sâu sắc với sự tham dự thứ nhất, nhưng lại khác biệt trong bản chất (x. Hiến Chế về Hội Thánh, 10).
Trong bối cảnh của Năm Thánh mừng biến cố Nhập Thể, chúng ta có thể đề cập đến chức tư tế của Đức Kitô từ một viễn cảnh đặc biệt. Năm Thánh mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng mối dây liên kết chặt chẽ giữa chức tư tế của Đức Kitô và mầu nhiệm con người của Người. Chức tư tế của Đức Kitô không phải là “ngẫu nhiên”, một nhiệm vụ mà Người đã có thể hoặc không đảm nhiệm: nhưng nó nằm trong căn tính của Người là Người Con Nhập Thể, là Thiên Chúa-làm-người. Từ nay trở đi, mối tương quan giữa loài người và Thiên Chúa thông giao một cách trọn vẹn nhờ Đức Kitô: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Đây là lý do tại sao Đức Kitô là một tư tế của một chức linh mục vĩnh cửu và phổ quát, được chức tư tế của Giao ước thứ nhất tiên báo và chuẩn bị (x. Dt 9,9). Người đã thi hành chức vụ đó một cách đầy đủ từ giây phút Người ngồi lên ngai của vị Thượng Tế “ngự bên hữu ngai Đấng uy linh ở trên trời” (Dt 8,1). Từ đó trở đi, chính bản chất của chức tư tế nhân loại đã thay đổi: bây giờ chỉ có một chức tư tế duy nhất, chức tư tế của Đức Kitô; chức tư tế đó có thể được chia sẻ và thực thi dưới những cách thức khác nhau.
Sacerdos et Hostia
8. Cùng lúc đó, ý nghĩa của hy tế, một hành động tư tế ở mức cao nhất, được đưa đến chỗ hoàn hảo. Trên đồi Gôngôtha, Đức Kitô đã biến chính cuộc sống mình thành một quà tặng có giá trị muôn đời, một quà tặng “cứu chuộc” đã mở lại mãi mãi một con đường hiệp thông với Thiên Chúa, con đường đã bị đóng lại vì tội lỗi.
Thư gởi tín hữu Do thái soi sáng mầu nhiệm này bằng cách đặt lên môi miệng của Đức Kitô những lời thánh vịnh 40: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể... Lạy Thiên Chúa, này con đây... con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,5-7; x. Tv 40,7-9). Theo tác giả của lá thư, những lời tiên tri này được Đức Kitô nói khi Người đến thế gian lần thứ nhất. Những lời này diễn tả mầu nhiệm và sứ mạng của Người. Chúng bắt đầu được thực hiện kể từ chính giây phút Nhập Thể và đạt đến sự hoàn tất trong hy tế ở Gôngôtha. Kể từ lúc đó trở đi, mọi lễ dâng của linh mục là sự dâng hiến lên Chúa Cha lễ tế duy nhất của Đức Kitô, đã dâng một lần cho tất cả.
Sacerdos et Hostia! Linh mục và Hy lễ! Khía cạnh hy lễ này là một ấn tín sâu xa của Bí Tích Thánh Thể; nó cũng là một chiều kích căn bản của chức tư tế của Đức Kitô và vì thế mà cũng là của chức tư tế của chúng ta. Trong ánh sáng này, chúng ta hãy đọc lại một lần nữa những lời mà chúng ta đọc mỗi ngày, những lời ấy đã vang lên lần đầu tiên trong Phòng Tiệc Ly này: “Tất cả các con cầm lầy mà ăn: này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con... Tất cả các con cầm lấy mà uống: này là chén Máu Thầy, Máu Giao ước mới, Giao ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội”.
Những lời này chúng ta gặp thấy trong các sách Tin mừng và trong thư Phaolô, với những hình thức soạn thảo rất tương đồng. Chúng được nói lên trong Phòng này vào đêm khuya thứ Năm Tuần Thánh. Khi trao ban cho các môn đệ Thân Thể của Người để ăn và Máu Người để uống, Đức Giêsu đã công bố một sự thật sâu xa về điều mà Người sẽ phải thực hiện chẳng bao lâu sau đó trên đồi Gôngôtha. Vì trong Tấm Bánh Thánh Thể, chính Thân Thể được Đức Maria sinh ra và được dâng hiến trên Thập Giá hiện diện.
Ave verum Corpus natum de Maria Virgine,
Vere passum, immolatum in cruce pro homine.
9. Làm sao chúng ta lại không quay về với mầu nhiệm này, mầu nhiệm chứa đựng toàn bộ đời sống Hội thánh? Hai ngàn năm qua, Bí Tích này đã ban lương thực nuôi sống vô vàn tín hữu. Đó là nguồn suối lớn ban ân phúc. Biết bao vị thánh đã tìm thấy nơi đó không chỉ sự bảo đảm, mà còn sự nếm trước Nước Trời!
Chúng ta hãy để tâm hồn chúng ta bay bổng theo hứng khởi chiêm ngắm, nhiều tính thi ca và súc tích thần học, đã thúc đẩy thánh Tôma Aquinô ca hát mầu nhiệm bằng những lời trong bài thánh ca Pange Lingua. Hôm nay trong Phòng Tiệc Ly này, vang vọng đến tai tôi những tiếng nói của rất nhiều cộng đồng kitô hữu trên toàn thế giới, của rất nhiều linh mục, những người thánh hiến và những giáo dân trung thành, những người mỗi ngày đến thờ phượng mầu nhiệm Thánh Thể:
Verbum caro, panem verum verbo carnem efficit,
fitque sanguis Christi merum, et, si sensus deficit,
ad firmandum cor sincerum sola fides sufficit.
Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy
10. Mầu nhiệm Thánh thể, vì loan truyền và cử hành cái Chết và sự Phục sinh của Đức Kitô cho đến khi Người lại đến, là trung tâm của đời sống Hội thánh. Đối với chúng ta, nó cũng mang một ý nghĩa hết sức đặc biệt, bởi vì nó nằm ở trung tâm thừa tác vụ của chúng ta. Lẽ dĩ nhiên thừa tác vụ của chúng ta không giới hạn vào việc cử hành bí tích Thánh Thể: đó là một việc phục vụ bao gồm việc loan báo Lời Chúa, thánh hoá các tín hữu qua các bí tích, và lãnh đạo Dân Thiên Chúa trong sự hiệp thông và phục vụ. Nhưng bí tích Thánh Thể là điểm mà từ đó mọi sự phát xuất và mọi sự quay về. Chức linh mục của chúng ta được sinh ra tại Phòng Tiệc ly cùng với bí tích Thánh Thể.
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Dù được nói với toàn thể Hội thánh, những lời Đức Giêsu được giao phó như một nhiệm vụ đặc biệt cho những ai tiếp tục sứ vụ của các Tông đồ đầu tiên. Chính với họ mà Đức Giêsu chuyển trao hành động mà Người vừa thực hiện –biến bánh thành Mình Người và rượu thành Máu Người– hành động qua đó Người xuất hiện như là Tư Tế và Hi Lễ. Chính do ý muốn của Đức Kitô mà kể từ này về sau hành động của Người cũng sẽ trở thành một cách bí tích hành động của Hội thánh qua bàn tay của các linh mục. Khi nói “hãy làm việc này”, Người không chỉ ám chỉ đến hành động, nhưng còn đến người được mời gọi hành động; nói cách khác, Người thiết lập chức linh mục thừa tác. Vì thế chức linh mục trở thành một trong những yếu tố thiết yếu của Hội thánh.
11. Hành động này cần được thực hiện “mà nhớ đến Thầy”: những từ này rất quan trọng. Hành động Thánh Thể do các linh mục cử hành sẽ làm cho hiện diện trong mọi thế hệ kitô giáo, tại mọi nơi trên thế giới, hành động được Đức Kitô hoàn tất. Tại bất cứ nơi nào bí tích Thánh Thể được cử hành, hi tế đổ máu tại Gôngôtha sẽ được làm cho hiện diện trong một cách thức không đổ máu; nơi đây chính Đức Kitô, Đấng Cứu chuộc trần gian, sẽ hiện diện.
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Lắng nghe lại một lần nữa những lời nầy ở bên trong bức tường của phòng Tiệc ly, thât là tự nhiên khi cố gắng tưởng tượng đến cảm xúc của Đức Kitô. Đây là những giờ phút bi thảm trước cuộc khổ nạn. Thánh sử Gioan gợi lên sự xúc cảm mãnh liệt trong những lời của vị Thầy khi chuẩn bị cho các Tông đồ về sự ra đi của Người. Bao buồn bã trong đôi mắt của họ: “Vì Thầy nói ra các điều ấy, nên lòng anh em tràn ngập nỗi ưu phiền” (Ga 16,6). Nhưng Đức Giêsu lại đoan chắc cùng họ: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy sẽ đến cùng anh em” (Ga 14,18). Dù Mầu Nhiệm Vượt Qua sẽ đem Người ra khỏi tầm nhìn của họ, Người sẽ trở nên hiện diện sâu đậm hơn bao giờ hết trong đời sống của họ, “luôn mãi, cho đến ngày tận thế” (Mt 28,20).
Một cuộc tưởng niệm làm cho hiện diện
12. Sự hiện diện của Đức Kitô sẽ được diễn tả bằng nhiều cách thức. Nhưng trong số những sự hiện diện đó, sự hiện diện của Người trong bí tích Thánh Thể chắc chắn sẽ là cao trọng: không chỉ là việc hồi tưởng, nhưng là một “tưởng niệm” làm cho điều nó tưởng nhớ trở nên hiện diện; không phải là một sự gợi lên có tính cách biểu tượng của quá khứ, nhưng là sự hiện diện sống động của Chúa ở giữa các môn đệ của Người. Sự bảo đảm vĩnh viễn cho điều này sẽ là Chúa Thánh Thần, bởi vì Người luôn tuôn đổ quyền năng trong cuộc cử hành bí tích Thánh Thể để bánh và rượu có thể trở nên Mình và Máu Đức Kitô. Người cũng chính là Thần Khí, vào buổi tối ngày Phục Sinh, trong Phòng Tiệc ly này, đã được “thổi hơi” trên các Tông đồ (x. Ga 20,22), và thấy họ vẫn ở nơi đây, cùng với Đức Maria, vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Rồi chính lúc đó, Người đã ngự xuống trên họ như tiếng gió mạnh và lưỡi lửa (x. Cv 2,1-4), và đã thúc đẩy họ đi đến tận cùng trái đất để loan truyền Lời và quy tụ dân Thiên Chúa lại với nhau trong việc “bẻ bánh” (x. Cv 2,42).
13. Hai ngàn năm sau khi Đức Kitô ra đời, trong Năm Thánh này, chúng ta đặc biệt cần nhớ lại và suy niệm chân lý về điều mà chúng ta có thể gọi là sự “sinh ra bí tích Thánh Thể”. Phòng Tiệc Ly là nơi của sự phát sinh này. Nơi đây đã khởi đầu một sự hiện diện mới của Đức Kitô cho thế gian, một sự hiện diện diễn ra thường xuyên ở bất cứ nơi nào bí tích Thánh Thể được cử hành và một linh mục cho Đức Kitô mượn tiếng nói của mình, khi lập lại những lời thiêng liêng của việc thiết lập này.
Sự hiện diện Thánh Thể này đã đồng hành suốt hai ngàn năm của lịch sử Giáo hội, và nó sẽ thực hiện như vậy cho đến ngày tận thế. Gắn bó chặt chẽ với mầu nhiệm này đối với chúng ta vừa là niềm vui vừa là nguồn trách nhiệm. Hôm nay chúng ta muốn ý thức sâu xa hơn về sự hiện diện này, tâm hồn tràn ngập ngưỡng mộ và lòng biết ơn, và trong tinh thần ấy để bước vào Tam Nhật Phục Sinh cử hành cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô.
Điều mà Phòng Tiệc Ly trao ban cho chúng ta
14. Các anh em linh mục thân mến của tôi, là những người qui tụ quanh vị mục tử của mình vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh trong các Nhà Thờ Chính toà, cũng như linh mục đoàn của Giáo Hội Rôma qui tụ quanh Người Kế Vị của Thánh Phêrô, xin đón nhận những suy tư này, suy niệm của tôi trong khung cảnh đầy gợi hứng của Phòng Tiệc Ly! Thật khó tìm ra một nơi tốt hơn để có thể khơi dậy những ý tưởng về cả mầu nhiệm Thánh Thể lẫn mầu nhiệm về chức linh mục của chúng ta.
Chúng ta hãy luôn trung thành với điều mà Phòng Tiệc Ly “trao ban” cho chúng ta, với quà tặng lớn lao của Ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Ước gì chúng ta luôn cử hành bí tích Thánh Thể với lòng sốt sắng. Ước gì chúng ta ở lại thờ phượng lâu giờ và thường xuyên trước Đức Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Ước gì chúng ta ngồi học hỏi nơi “trường học” của bí tích Thánh Thể. Qua nhiều thế kỷ, vô số các linh mục đã tìm được nơi bí tích Thánh Thể niềm an ủi mà Đức Giêsu đã hứa ban vào buổi tối trong bữa tiệc ly, bí quyết để vượt thắng sự cô đơn, sức mạnh để gánh vác những đau khổ, lương thực để làm một khởi sự mới sau mỗi lần nản chí, và nội lực để nâng đỡ quyết định sống trung thành. Chứng tá mà chúng ta trao cho Dân Thiên Chúa trong việc cử hành Thánh Thể phụ thuộc phần lớn vào mối tương quan cá vị của chúng ta với bí tích Thánh Thể.
15. Chúng ta hãy tái khám phá chức linh mục của chúng ta trong ánh sáng của bí tích Thánh Thể! Chúng ta hãy trợ giúp các cộng đoàn của chúng ta tái khám phá kho tàng này trong việc cử hành Thánh Lễ hàng ngày, và đặc biệt trong buổi tụ họp long trọng Ngày Chúa Nhật. Qua những hoạt động tông đồ của anh em, ước gì tình yêu đối với Đức Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Đây là một mục tiêu đặc biệt quan trọng hơn trong Năm Thánh này. Tôi nghĩ về Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế được tổ chức tại Rôma từ ngày 18 đến 25 tháng sáu, với chủ đề là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của trần gian, Tấm Bánh cho Đời Sống chúng ta. Đại hội sẽ là biến cố trung tâm của Đại Năm Thánh, phải là “một năm đặc biệt hướng về bí tích Thánh Thể” (Tông thư Tiến về Ngàn Năm thứ ba, số 55). Đại Hội sẽ nhấn mạnh đến sự liên hệ sâu xa giữa mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời và bí tích Thánh Thể, Bí tích về Sự Hiện Diện Thực Sự của Đức Kitô.
Từ Phòng Tiệc Ly, tôi ôm hôn anh em trong bí tích Thánh Thể. Ước gì hình ảnh Đức Kitô được các môn đệ bao quanh trong Bữa tiệc ly ban cho mỗi người chúng ta một sự rung động về tình huynh đệ và sự hiệp thông. Các hoạ sĩ nổi tiếng đã dùng những tài năng tuyệt vời nhất của mình để vẽ nên gương mặt của Đức Kitô giữa các Tông Đồ trong cảnh Bữa tiệc ly: làm sao chúng ta có thể quên được kiệt tác của Leonardo? Nhưng chỉ có các Thánh, bằng sức mạnh mãnh liệt là tình yêu của họ, mới có thể đi vào chiều sâu của mầu nhiệm này, khi dựa đầu vào ngực Chúa, giống như Gioan đã làm (x. Ga 13,25). Thực ra ở đây chúng ta vươn đến đỉnh cao của tình yêu: “yêu thương các môn đệ của Người còn ở trong thế gian, người đã yêu thương họ cho đến cùng”.
16. Tôi muốn kết thúc những suy tư này, mà tôi thân ái trao phó cho anh em suy gẫm, bằng những lời của một kinh cổ xưa:
“Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha,
vì sự sống và hiểu biết
mà Cha đã mạc khải cho chúng con
qua Đức Giêsu, người tôi tớ của Cha.
Vinh danh Cha đến thiên thu vạn đại!
Như tấm bánh chúng con bẻ ra
được gieo vãi khắp nơi trên nương đồng,
nhưng khi thu hoạch lại trở nên một,
cũng vậy, ước gì Giáo Hội được tập hợp lại
vào Vương Quốc của Cha
từ những biên cương xa xôi nhất của địa cầu...
Lạy Chúa toàn năng, Ngài đã tạo dựng vũ trụ
vì vinh quang danh Ngài;
Ngài đã ban cho con người của ăn và của uống
để tăng sức mạnh cho họ
nhờ đó họ có thể dâng lời cảm tạ Ngài;
nhưng Cha đã ban cho chúng con
của ăn và của uống thiêng liêng,
và sự sống muôn đời qua Con của Cha...
Vinh danh Cha đến thiên thu vạn đại!”
(Điđakê 9,3-4; 10,3-4)
Các anh em linh mục thân mến, từ Phòng Tiệc Ly, tôi ôm hôn tất cả anh cách thiêng liêng, và thân ái ban phúc lành cho anh em.
Giêrusalem, ngày 23 tháng 03 năm 2000.
                           Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II